Tải bản đầy đủ (.docx) (160 trang)

Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX – Từ đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.08 KB, 160 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------***----------

NGUYỄN THÀNH KHÁNH

TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX - TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HUẾ - NĂM 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------***----------

NGUYỄN THÀNH KHÁNH

TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX - TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học


PGS.TS. NGUYỄN PHONG NAM

HUẾ - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án

NGUYỄN THÀNH KHÁNH


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế,
Trường Đại học Duy Tân Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy, cô giáo Khoa Ngữ văn
trường Trường Đại học Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại
học Duy Tân và Phòng Sau đại học - Trường Đại học Khoa học Huế đã đóng
góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình hoàn chỉnh luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS Nguyễn
Phong Nam - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu khoa học và hoàn thành luận án này.

Huế, ngày 20 tháng 09 năm 2016
Nguyễn Thành Khánh



MỤC LỤC


6

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc. Với sự gặp gỡ văn
minh Phương Tây, sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi những tinh hoa văn hoá thế giới, văn
học Việt Nam đã bứt ra khỏi hệ hình văn học trung đại, để tiến hành công cuộc hiện đại
hoá. Văn học nước ta đã thay đổi nhanh chóng, với những thành tựu rực rỡ. Đây cũng là
lúc thể loại văn học trinh thám được hình thành và phát triển.
So với các thể loại khác, truyện trinh thám xuất hiện khá muộn, tuy vậy nó lại có
những bước tiến rất nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, nó đã có một diện mạo khá
hoàn chỉnh, với sự góp công của nhiều cây bút tên tuổi và số lượng tác phẩm lên đến
hàng trăm cuốn. Thể loại này đã thu hút được rất đông độc giả thuộc đủ mọi thành phần
khác nhau trong xã hội. Thông qua việc tiếp thu một thể loại của phương Tây, kết hợp
với truyện vụ án phương Đông và các thể loại văn học truyền thống, nó đã trở thành một
sản phẩm tinh thần có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với cộng đồng. Mức độ ảnh hưởng đến
người đọc của truyện trinh thám trên thực tế là rất lớn. Đây là thể loại thường tạo nên
những con số đáng kinh ngạc về lượng sách phát hành.
Truyện trinh thám đã khẳng định được vị thế của mình trong đời sống văn học dân
tộc. Tuy vậy, thể loại này lại không được giới chuyên môn đề cao. Vì nhiều lý do, trong
đó có nguyên nhân thuộc về quan niệm, nhận thức, ngay từ khi mới ra đời, thể loại văn
học trinh thám đã bị coi là không có giá trị gì đáng kể, ngoài việc giải trí. Phần lớn các
nhà nghiên cứu, thậm chí ngay cả các nhà văn viết truyện trinh thám cũng đều xem thể
loại này là một thứ văn chương “hạng hai”, xoàng xĩnh. Truyện trinh thám bị đánh giá là
thua kém các thể loại khác về giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng.
Như vậy là đã có một sự vênh lệch rất lớn trong quan niệm của giới nghiên cứu,
phê bình và công chúng thưởng thức về cùng một hiện tượng văn học. Đây là một

nghịch lý trong đời sống văn học ở nước ta. Chính vì vậy mà từ lâu nay, các nhà chuyên
môn đã dành nhiều thời gian, công sức tìm hiểu, lý giải nhiều vấn đề liên quan đến thể
loại truyện trinh thám Việt Nam. Trên thực tế, trong thời gian gần đây, đã có không ít tác
phẩm được sưu tầm và tái bản để đáp ứng nhu cầu của độc giả; mặt khác cũng đã có
nhiều cuộc Hội thảo được tổ chức, nhiều công tŕnh nghiên cứu, khảo luận về văn học


7
trinh thám được công bố. Có thể coi đó là một sự nỗ lực trong việc đưa đến một cái nhìn
khách quan, công bằng hơn về vai trò và vị trí của thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa thể nói rằng mọi vấn đề của truyện trinh thám đã được giải quyết
một cách sáng tỏ và thỏa đáng. Vẫn còn nhiều câu hỏi về thể loại chưa được trả lời,
nhiều vấn đề cơ bản vẫn chưa có được tiếng nói chung giữa các nhà nghiên cứu. Thậm
chí còn nhiều vấn đề mang tính bản chất của thể loại này cần được nhận thức lại. Chẳng
hạn những vấn đề có tính “nhận thức luận” về thể loại, vấn đề lịch sử hình thành, quy
luật vận động, vai trò của truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn học, những
đặc trưng cơ bản của truyện trinh thám Việt Nam ... Nghiên cứu và giải quyết đúng đắn
những vấn đề trên không chỉ góp phần soi sáng một hiện tượng văn học độc đáo mà còn
mở ra một hướng nhìn mới về việc đa dạng hóa chức năng văn học trong quá trình phát
triển văn học Việt Nam hiện đại. Đây cũng là lý do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài
luận án.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Truyện trinh thám Việt Nam được hình thành trên cơ sở tiếp thu và cải biến mô
hình của văn học Phương Tây. Đây là một phương pháp sáng tạo thích hợp được các nhà
văn áp dụng trong thời điểm giao thời. Để làm phong phú thêm cho văn học dân tộc, các
nhà văn đã tạo nên một thể loại văn học mới, chưa từng có tiền lệ trong văn học dân tộc
bằng việc mô phỏng nhưng có sự sáng tạo, tiếp biến cho phù hợp với hoàn cảnh và tâm
lý độc giả bản địa. Chính vì vậy truyện trinh thám Việt Nam vừa có dáng dấp của truyện
trinh thám Phương Tây nhưng lại có những nét đặc thù.
Mục tiêu chủ yếu của luận án này là làm rõ những đặc điểm của thể loại truyện

trinh thám Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX trên các vấn đề: lịch sử hình thành
và phát triển, quy luật vận động; các phương diện nội dung và nghệ thuật của thể loại...
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định như trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện tiến trình lịch sử của thể loại truyện
trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX .
- Tìm hiểu những điểm đặc trưng thể loại của truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX, thông qua việc phân tích, đánh giá các yếu tố cụ thể như thế giới hình


8
tượng (hình tượng nhân vật, không gian, thời gian), tổ chức tác phẩm (cốt truyện, kết
cấu), phương thức trần thuật (ngôn ngữ, giọng điệu…).
- Xác định vai trò, giá trị của thể loại truyện trinh thám đồng thời khái quát quy luật
vận động của nó trong tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu truyện trinh thám Việt Nam là một việc làm cần nhiều công sức, bởi
hiện tại trong giới khoa học vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về những vấn đề rất cơ
bản liên quan đến thể loại trinh thám (Định nghĩa thế nào là truyện trinh thám? Truyện
trinh thám ở Việt Nam xuất hiện lúc nào? Tác giả trinh thám đầu tiên là ai? Truyện trinh
thám có phải là thể loại văn học hay không?…). Chính vì thế, bên cạnh nhiệm vụ chính,
chúng tôi còn phải giải quyết những vấn đề liên quan khác, có tính chất lý thuyết, lý luận
về thể loại này. Chúng tôi coi đó cũng là những nhiệm vụ cần thiết được giải quyết trong
luận án.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn xuôi thuộc thể loại trinh thám
xuất hiện trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX. Tác phẩm đó cần đảm bảo các yêu
cầu cụ thể: về cốt truyện, phải có đủ hai yếu tố cơ bản nổi bật là các sự kiện làm nên một
vụ án và người điều tra (bao gồm nhân vật thám tử/ một người có nghĩa khí anh hùng/
một vị quan thanh liêm/ một thanh niên trí thức tiến bộ …). Về kết cấu, tác phẩm được tổ

chức theo mô thức “đố - giải đố”, truyện kết thúc khi vụ án được giải mã. Về văn bản,
tác phẩm được viết bằng văn xuôi quốc ngữ, gồm các ấn phẩm đã in (thành sách, đăng
trên báo chí). Trên cơ sở tiêu chí như vậy, luận án của chúng tôi khảo sát các kiểu truyện
trinh thám chủ yếu sau:
- Truyện trinh thám kỳ án: Gồm một số truyện trinh thám có yếu tố kinh dị, kỳ ảo
của Thế Lữ.
- Truyện trinh thám suy luận: gồm những truyện kể về nhân vật thám tử (chẳng hạn
truyện Lê Phong phóng viên của Thế Lữ; truyện thám tử Kỳ Phát, Huỳnh Kỳ của Phạm
Cao Củng…).
- Truyện trinh thám mang màu sắc ái tình - hành động - võ hiệp (cốt truyện có vụ
án và người điều tra vụ án). Ở nhóm này có khi tác phẩm được đề là “ái tình tiểu thuyết”,
“hành động tiểu thuyết”, “võ hiệp tiểu thuyết, “kỳ tình tiểu thuyết” … song do chúng đáp


9
ứng các tiêu chí của thể loại trinh thám nên chúng tôi vẫn đưa vào. Nhóm này gồm tác
phẩm của một số tác giả như Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Bửu Đình, Nam Đình Nguyễn
Thế Phương, Bùi Huy Phồn …
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống diện mạo truyện trinh thám, một thể loại
mới, xuất hiện trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chúng tôi sẽ tập trung
làm rõ những đặc trưng của thể loại văn học này, từ quá trình hình thành và phát triển,
cho đến những đặc điểm của hình tượng nghệ thuật, các kiểu cốt truyện và phương thức
trần thuật…
Về mặt văn bản, tác phẩm được chọn để khảo sát chủ yếu nằm trong khoảng thời
gian nửa đầu thế kỷ XX. Các văn bản này được in ấn trong một khoảng thời gian rất dài,
bao gồm những bản đã được in thành sách, đăng báo, tái bản… Cũng trong giai đoạn
này, mặc dù có một số tác phẩm mang yếu tố trinh thám được nhắc đến ở công trình của
các nhà nghiên cứu đi trước, nhưng do chưa tìm được đầy đủ văn bản nên chúng tôi
không đưa vào diện khảo sát. Mặt khác, do hạn chế trong khâu xử lý văn bản, nên luận

án chúng tôi không nghiên cứu các truyện trinh thám dịch, truyện trinh thám viết bằng
chữ quốc ngữ phát hành ở nước ngoài.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình
Truyện trinh thám Việt Nam là một hiện tượng rất đặc biệt của văn học nước nhà.
So với truyện trinh thám Phương Tây, nó có nhiều điểm đặc thù, khác biệt cả về nội
dung và hình thức nghệ thuật, lẫn vai trò, vị trí… trong đời sống. Để nhận thức về đối
tượng này, trong luận án chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình. Phương
pháp này được vận dụng để nhận diện, phân loại đối tượng một cách hiệu quả.
4.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Phương pháp cấu trúc – hệ thống giúp chúng tôi có thể tiếp cận đối tượng một cách
hợp lý, thuận lợi. Tác phẩm truyện trinh thám được đặt trong các mối quan hệ thuộc
nhiều cấp độ, mô thức tổ chức, hệ thống khác nhau…Từ đó có thể xác định được vai trò,
vị trí, đặc trưng… của thể loại truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.


10
4.3. Phương pháp lịch sử
Truyện trinh thám là một thể loại văn học được hình thành và phát triển trong một
giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Đây cũng là một sản phẩm văn hóa – văn học
mang tính lịch sử sâu sắc. Chính vì vậy, việc vận dụng phương pháp lịch sử là điều cần
thiết. Với việc vận dụng phương pháp này, chúng tôi có điều kiện để khảo sát một cách
cụ thể sự chi phối, ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xã hội đối với đời
sống văn học nói chung, thể loại truyện trinh thám nói riêng.
4.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận án nhằm làm nổi bật điểm tương
đồng, dị biệt giữa truyện trinh thám Việt Nam trong tương quan với truyện trinh thám
của các nền văn học khác (đặc biệt là văn học Phương Tây); nét đặc thù của truyện trinh
thám so với các thể loại khác (cùng thuộc phương thức tự sự); điểm riêng biệt độc đáo

giữa phong cách nghệ thuật của các nhà văn trinh thám tiêu biểu...
Ngoài các phương pháp vừa nêu trên, trong luận án này chúng tôi còn vận dụng các
phương pháp, thủ pháp đặc thù của tự sự học và thi pháp học để giải quyết vấn đề.
Truyện trinh thám Việt Nam là một hiện tượng văn học phức tạp. Nghiên cứu về
thể loại này đòi hỏi phải vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp mới có thể tiếp cận chân
lý nghệ thuật một cách thấu đáo. Bởi vì phương pháp nào cũng có những ưu điểm và hạn
chế nên các phương pháp sẽ bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án “Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX – từ đặc trưng thể loại”
của chúng tôi, có một số đóng góp mới cụ thể như sau:
1/. Nhận diện một cách đầy đủ, hệ thống diện mạo truyện trinh thám Việt Nam; mô
tả, trình bày đầy đủ quá trình hình thành, phương thức tiếp thu, tiếp biến của thể loại, từ
đó làm rõ vai trò và vị trí của truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân
tộc.
2/. Xác lập nội hàm khái niệm “truyện trinh thám Việt Nam”; phân tích các kiểu
truyện trinh thám nửa đầu thế kỷ XX; khái quát đặc điểm hình tượng nghệ thuật, đặc
điểm cốt truyện và phương thức trần thuật, những đặc trưng riêng của truyện trinh thám
Việt Nam trong giai đoạn này.


11
3/. Đánh giá một cách khách quan, khoa học về giá trị, vai trò, vị trí của thể loại
truyện trinh thám; đồng thời trình bày quy luật vận động của thể loại này trong tiến trình
lịch sử của văn học Việt Nam hiện đại.
Luận án cũng trình bày về những tác động, ảnh hưởng của thể loại truyện trinh
thám đối với người đọc trong việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ, nhân cách văn hóa của
cá nhân và cộng đồng.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án có bố cục như sau:
1/. MỞ ĐẦU: Trình bày lý do, mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và

những đóng góp mới của luận án.
2/. NỘI DUNG: Gồm 4 chương
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Trong
chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát các công trình nghiên cứu có nội dung liên
quan đến đề tài luận án. Trên cơ sở mô tả, phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu của
giới chuyên môn về thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX,
chúng tôi đi vào xác định những vấn đề trọng tâm luận án tập trung giải quyết.
Chương 2. Diện mạo truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nội dung chủ
yếu của chương này là phác thảo diện mạo truyện trinh thám trên cơ sở tìm hiểu khái
niệm, đặc điểm loại hình để xác định quy luật vận động của truyện trinh thám Việt Nam
trong tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Chương 3. Đặc điểm hình tượng nghệ thuật trong truyện trinh thám Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX. Trong chương này chúng tôi tiến hành nghiên cứu thế giới hình tượng
(chủ yếu là hình tượng nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật), để qua đó chỉ rõ
những nét đặc trưng riêng của thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Chương 4. Đặc điểm cốt truyện, phương thức trần thuật trong truyện trinh thám
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương này tập trung vào nhiệm vụ phân tích, làm rõ việc
tiếp thu, tiếp biến và sự vận dụng sáng tạo của nhà văn trinh thám Việt Nam trên hai
phương diện cơ bản nhất là cốt truyện và phương thức trần thuật trong tác phẩm.
3/. KẾT LUẬN
4/. TÀI LIỆU THAM KHẢO
5/. PHỤ LỤC


12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Truyện trinh thám Việt Nam ra đời vào đầu thế kỷ XX. Trong một quãng thời
gian rất dài, thể loại này thường bị coi là “văn chương hạng hai”, ít được giới nghiên
cứu chú ý. Đây là một thực tế rất dễ nhận thấy và do nhiều nguyên nhân khác nhau
chi phối, cả chủ quan lẫn khách quan. Trước hết là bởi truyện trinh thám ở giai đoạn
đầu chưa có những thành tựu thật sự nổi bật. Một trở ngại khác là do thị hiếu thẩm
mỹ của người Việt nửa đầu thế kỷ XX; họ chưa thể quen với hình ảnh nhân vật thám
tử điều tra dựa trên cơ sở tư duy logic, kết hợp với phương tiện khoa học hiện đại để
phá án. Hoạt động thám tử, điều tra vụ án theo lối phương Tây vẫn còn là những thứ
xa lạ đối với người Việt Nam vốn quen với lối truyện “kỳ án”, “công án”. Thế nên
người đọc thường cho rằng truyện trinh thám là kết quả của sự bịa đặt, hư cấu, do nhà
văn tự tưởng tượng ra. Đấy là chưa kể, do sự chi phối của quan niệm truyền thống,
văn chương đích thực phải là thứ văn chương dùng để “tải đạo”, “ngôn chí”, những
thứ vốn rất mờ nhạt đối với truyện trinh thám. Bởi vậy, thể loại này đương nhiên
không được chú trọng, không được đánh giá cao. Hoạt động sáng tác, nghiên cứu,
phê bình văn học trinh thám do vậy cũng có những đặc điểm riêng.
1.1.1. Giai đoạn trước 1945
Năm 1928, tác giả S.S Van Dine (1888 – 1939, bút danh của Willard
Huntington Wright), nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn Mỹ, đã đưa ra “Hai mươi
nguyên tắc của việc viết truyện trinh thám”. Ông cho rằng “Truyện trinh thám là một
dạng của trò chơi trí tuệ. Hơn nữa, có thể nói, đó còn là một sự thử thách mang tính
thể thao, trong đó tác giả cần phải đọ sức một cách trung thực với độc giả” [151]. Đây
được coi là những nguyên lý mẫu mực về mặt lý thuyết cho các nhà văn, nhà nghiên
cứu khi tìm đến truyện trinh thám.
Ở Việt Nam, những năm đầu thế kỷ XX, các nhà văn chủ yếu tiếp xúc với
truyện trinh thám phương Tây thông qua tác phẩm của các nhà văn như Edgar Allan
Poe, Conan Doyle, Agatha Christie... Họ coi tác phẩm của các nhà văn này như một


13
thứ khuôn mẫu trong lĩnh vực truyện trinh thám để học hỏi, mô phỏng theo. Trong

quá trình tìm tòi, thử nghiệm để sáng tác một thể loại hoàn toàn mới mẻ như vậy, các
nhà văn Việt Nam đã tạo ra một kiểu truyện trinh thám với những đặc điểm riêng. Đó
là những tác phẩm mà cốt truyện xoay quanh việc điều tra một vụ án (thường là cái
chết bí ẩn, một vụ mất cắp), có nhân vật thám tử (chuyên nghiệp hoặc không chuyên);
và trong suốt quá trình điều tra, cả tác giả và độc giả cùng khám phá bí mật cho đến
kết thúc câu chuyện, vụ án được làm sáng tỏ. Đây cũng là những những nguyên tắc
cơ bản của truyện trinh thám Phương Tây mà các nhà văn Việt Nam đã vận dụng.
Bên cạnh đó, họ còn biết kết hợp với kiểu truyện “kỳ án”, “công án” rất phổ biến
trong văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc. Sự kết hợp này đã tạo nên một thể
loại truyện trinh thám “hỗn hợp”, được pha trộn yếu tố vụ án – ái tình – hành động –
võ hiệp rất độc đáo.
Tuy nhiên, trên thực tế, hiện tượng này lại chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu
một cách đầy đủ. Có thể nói cho đến giữa thế kỷ XX, ở Việt Nam vẫn chưa có một
công trình nghiên cứu quy mô nào về thể loại truyện trinh thám được công bố. Những
gì được gọi là nghiên cứu thực ra chỉ là những nhận xét, lời bàn sơ lược về một số
hiện tượng cụ thể; đó thường là các bài giới thiệu, phân tích về nội dung, nghệ thuật
trong tác phẩm của một số cây bút như Thế Lữ, Phạm Cao Củng… do chính các nhà
văn thực hiện.
Trong “Lời giới thiệu” Vàng và máu, Khái Hưng đã nhận xét về hiện tượng kết
hợp “bút pháp” phương Tây và phương Đông ở các truyện trinh thám kinh dị của Thế
Lữ. Nhà văn lý giải như sau: “Tác giả những truyện Vàng và máu và Một đêm trăng
đã tỏ ra có óc khoa học của Edgar Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh, hai nhà
viết những truyện ghê gớm huyền hoặc, làm cho độc giả yếu bóng vía phải rùng mình
lúc đêm khuya” [51, tr.416]. Đưa ra đánh giá này, Khái Hưng dường như chỉ căn cứ
vào các truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ ở giai đoạn đầu (Vàng và máu, Một
đêm trăng xuất hiện vào năm 1934). Thực ra, khái quát như vậy về Thế Lữ là chưa
đầy đủ bởi ông còn có cả loạt truyện trinh thám suy luận (tập trung nhất là truyện về
nhân vật thám tử Lê Phong) xuất hiện từ năm 1937.



14
Trong khi đó, Dương Quảng Hàm lại có cái nhìn khác về tác phẩm Vàng và máu,
Bên đường thiên lôi của Thế Lữ. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến “chủ đích” của tác giả
khi sáng tác truyện trinh thám kinh dị:
Ông thường công kích những điều mê tín dị đoan. Muốn đạt chủ đích ấy, ông
đặt những câu chuyện có vẻ rất rùng rợn làm cho người đọc ghê sợ, rồi đến đoạn
kết, ông đem cái lẽ khoa học ra mà giải thích các việc đã xảy ra một cách rất
đơn giản, tự nhiên. Chính vì thế, các câu chuyện có sức hấp dẫn kỳ lạ, làm cho
người đọc thích thú [45, tr.9].
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Tập II (1943), cũng
dành một phần để nói về truyện trinh thám Việt Nam. Ông đặc biệt chú ý đến Phạm Cao
Củng, theo tác giả, Phạm Cao Củng là tiêu biểu nhất trong số các cây bút theo đuổi thể
loại văn học này. Vũ Ngọc Phan cho rằng :
Trong các tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng,
chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao Củng là có phần đặc sắc hơn..., các truyện trinh
thám của Bùi Huy Phồn mang tính chất “hoạt kê” ... cách điều tra, phán đoán sự
việc mà ông miêu tả trong truyện còn đơn giản, nhiều yếu tố ngẫu nhiên, vô lý
[89, tr.53].
Có thể thấy Vũ Ngọc Phan đã đánh giá cao sự sáng tạo của Phạm Cao Củng trong
việc tiếp biến một thể loại văn học có nguồn gốc từ phương Tây. Ở đây cái nhìn của ông
đối với Thế Lữ có phần gần gũi với Khái Hưng. Theo Vũ Ngọc Phan thì “Về tiểu thuyết,
tuy loại truyện trinh thám của Thế Lữ chưa thành công, nhưng về những truyện ghê sợ,
ông đã chứng tỏ là một tiểu thuyết gia có biệt tài, nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ
ở đây đã lên tới trình độ cao” [89, tr.54]. Điều đáng lưu ý là Vũ Ngọc Phan tuy đề cao
khả năng của Thế Lữ trong các tác phẩm trinh thám kinh dị (ông gọi là “truyện ghê sợ”)
nhưng không hiểu vì sao ông lại không thừa nhận sự thành công của Thế Lữ trong loạt
tác phẩm viết về thám tử Lê Phong.
Đối với các tác giả chỉ viết một vài truyện mang màu sắc trinh thám như Thúy Am
(Anh hùng tương ngộ, Cái hầm bí mật, Người hay ma), Cuồng Sĩ (Ai giết quan tòa), Vũ
Đình Tuyết (Mảnh giấy bí mật, Con ma đeo kính Vuông khăn đẩm máu), một số tác

phẩm do Tân Dân Quán xuất bản không ghi tên tác giả như Con khỉ giết người, Xác chết
chạy đi đâu … hầu như rất ít hoặc không được các nhà nghiên cứu nhắc đến.


15
Ngoài các bài viết về tác giả cụ thể vừa kể trên, một số nhà nghiên cứu, nhà văn
cũng đề cập đến những vấn đề chung của thể loại trinh thám. Nhà văn Nguyễn Công
Hoan cũng có thái độ không mấy thiện cảm về truyện trinh thám. Tác giả giễu cợt nhân
vật “thám tử” trong truyện Cái lò gạch bí mật (với đề từ: Truyện trinh thám An Nam),
một kẻ có cái gì đó không bình thường: “Trinh độ này thích đọc truyện trinh thám Tây,
và cả ngày, lúc nào anh cũng có vẻ bí mật, hay nhận xét từng cái cử chỉ cỏn con của
người khác, và hay suy xét tâm lý người ta bằng những câu vụn vặt mà anh nghe lóm
được. Anh muốn làm nhà trinh thám thứ nhất của nước Việt Nam” [155, tr.3]. Kết thúc
truyện, tang vật mà nhà thám tử tìm thấy sau nhiều ngày theo dõi kẻ tình nghi: “Tang vật
đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn khoanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu hình búp
măng, màu vàng, mà ở đuôi là có hơi ngắn, thôi thối … [155, tr.3].
Nhìn chung, hầu hết những công trình nghiên cứu về truyện trinh thám trong giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX chỉ tập trung vào hai tác giả ở miền Bắc, nhưng chủ yếu tập
trung vào nhóm truyện kinh dị. Mặc dù có biểu dương sự sáng tạo của nhà văn Việt Nam
trong việc tiếp thu thể loại văn học phương Tây, nhưng lại không thực sự coi trọng giá trị
của thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam.
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Lịch sử Việt Nam, kể từ 1945 đến 1975 vận động theo một tiến trình rất đặc biệt.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
đánh dấu một giai đoạn lịch sử: chấm dứt sự hiện hữu của chế độ thực dân – phong kiến.
Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, lịch sử dân tộc lại bước vào một hoàn cảnh mới: từ
1945 đến 1954, nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp; từ 1954, đất nước chia đôi thành
Miền Nam và Miền Bắc. Từ đây, mỗi miền là một thể chế chính trị, có nền kinh tế, đời
sống văn hóa riêng; và tương ứng với đó là một nền văn học phát triển theo những
đường hướng, đặc điểm riêng. Tình trạng này kéo dài đến 1975, khi đất nước được thống

nhất.
Ở Miền Bắc, để đáp ứng yêu cầu thực tế của đời sống, các nhà văn đã tạo nên
một nền văn học mới – văn học Cách mạng. Trong hoàn cảnh cả xã hội dốc sức
cho hai nhiệm vụ chính là xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống
nhất nước nhà, văn học cũng được huy động như một nguồn lực để phục vụ sự
nghiệp chung. Văn chương được coi là vũ khí chiến đấu chứ không còn là phương


16
tiện giải trí. Chính vì vậy mà thể loại truyện trinh thám ở miền Bắc, để có thể thích
nghi với hoàn cảnh mới, đã chuyển sang một dạng khác, đó là trinh thám tình báo,
phản gián theo ảnh hưởng văn học các nước Xã hội chủ nghĩa (tiêu biểu là Liên
Xô, Trung Quốc). Lối truyện trinh thám phổ biến chặng đầu thế kỷ XX đã không
còn. Thay vào đó là sự “biến dạng” của thể loại để trở thành các tiểu phẩm dưới
hình thức “câu chuyện cảnh giác”, “chuyện vì an ninh tổ quốc”. Ngoài ra, còn có
các truyện trinh sát – hình sự viết về chiến công phá án của lực lượng công an
hoặc một số truyện tình báo được dịch từ nước ngoài. Trong bối cảnh đó, không
khó lý giải tình trạng thưa vắng các công trình nghiên cứu về thể loại truyện trinh
thám.
Ở Miền Nam, kể từ năm 1954, truyện trinh thám cũng hầu như không phát
triển; thật hiếm có những sáng tác mới thuộc thể loại này được xuất bản. Chính vì
vậy mà tình hình nghiên cứu truyện trinh thám cũng không có gì đáng kể. Tuy
nhiên, trong các công trình nghiên cứu văn học sử dùng cho học đường, một số
nhà nghiên cứu (phần lớn là các giáo sư đại học) cũng có đề cập đến các tác giả,
tác phẩm trinh thám.
Tác giả Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên (1965), đã
dành 11 trang đánh giá về mảng truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám của Thế
Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ mới còn có một Thế
Lữ văn xuôi đặc sắc. Tuy nhiên, truyện trinh thám của Thế Lữ cũng có nhược điểm:
“Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật những

người hiếm quá... Cao quá cả ở cách viết săn sóc chải chuốt, cách lập luận khoa học tỷ
mỷ, vì vậy không phổ biến trong độc giả trung bình.... Các tác phẩm trinh thám của ông
có nhiều tình tiết phi lý, không gian và thời gian truyện ngắn và hẹp một cách khiên
cưỡng [77, tr.214]. Phạm Thế Ngũ cho rằng “thể loại tiểu thuyết này ngay bản chất của
nó, không có lợi thú văn học lắm.” [77, tr.214].
Tác giả Lê Huy Oanh đã đi sâu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng cốt truyện và
nghệ thuật kể chuyện trong truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ và kết luận:
“Vàng và máu là một kỳ công nghệ thuật đáng được khâm phục. Ở đó, bao nhiêu li
kì rùng rợn được dàn dựng công phu, hấp dẫn” [86, tr.55].


17
Bên cạnh các tác giả truyện trinh thám gốc miền Bắc như Thế Lữ, Phạm Cao Củng,
một tác giả miền Nam là Phú Đức cũng được nhắc đến. Một số cây bút như Thượng Sỹ,
Vũ Bằng, Ngọa Long… đã đề cập đến nhiều vấn đề trong sáng tác của nhà văn Phú Đức
và khẳng định “chỉ với cái tên tác giả Phú Đức là đủ đảm bảo, đủ lôi kéo bạn đọc rồi;
nhưng phải nhìn nhận là trong tất cả tiểu thuyết của Phú Đức thì chỉ có bộ Châu về hiệp
phố là hay hơn hết” [102, tr.25].
Nhìn chung, so với trước, giai đoạn 1945 – 1975, truyện trinh thám không phát
triển và có thể nói là lịch sử thể loại đã bị đứt đoạn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng tác phẩm trinh thám không còn giữ được sức cuốn hút mạnh mẽ như trước; bản
thân các nhà văn cũng không dành nhiều tâm sức để sáng tác. Ngay cả những người vốn
sở trường trong địa hạt truyện trinh thám cũng không còn duy trì mạch thể loại: Thế Lữ
chuyển sang viết kịch, Bùi Huy Phồn làm thơ và viết tiểu thuyết, Phạm Cao Củng và các
nhà văn Nam Bộ không có nhiều sáng tác mới… Đương nhiên, tình hình nghiên cứu
truyện trinh thám cũng không thể khởi sắc được.
1.1.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Sau năm 1975, đất nước hòa bình thống nhất, lịch sử chuyển sang một giai đoạn
mới. Tuy vậy, đời sống văn học vẫn chưa có những biến chuyển mang tính đột phá. Văn
học vẫn tiếp tục mạch vận động như cũ, từ cảm hứng chủ đạo cho đến phương pháp sáng

tác, nghệ thuật thể hiện. Trong hoạt động nghiên cứu, nhận thức về văn học, các dòng
văn học không nằm trong hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực và hiện thực xã hội chủ
nghĩa tiếp tục bị phê phán một cách nghiêm khắc. Tác giả Vũ Đức Phúc, trong một bài
viết với tựa đề “Truyện trinh thám” (1981), đã dành nhiều trang giới thiệu lịch sử hình
thành truyện trinh thám thế giới, với những tác gia tiêu biểu như Honoré de Balzac,
Charles Dickens, E. Allan Poe …. Theo tác giả, điều đáng kể trong truyện trinh thám
chính là hiện thực xã hội (tư bản) mà nhà văn đã tập trung phản ánh, mô tả với tinh thần
phê phán. Đánh giá về truyện trinh thám Việt Nam, nhà nghiên cứu đưa ra một kết luận
khá bất ngờ: “Truyện trinh thám có ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội” [91, tr.36]. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong “Lời giới thiệu” Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
1930 – 1945, đã phân chia truyện của Thế Lữ chi tiết hơn, tác giả viết: “Ông được biết
trước hết là ở loại truyện kinh dị (...) rồi loại truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và
nhất là truyện trinh thám, ông là một trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở


18
nước ta” [55, tr.423]. Ông xếp sáng tác của Thế Lữ thành nhiều nhóm khác nhau, trong
đó đáng chú ý là “truyện kinh dị”, “truyện trinh thám”, “truyện đường rừng”. Nguyễn
Hoành Khung đánh giá về văn nghiệp của Thế Lữ cả hai giai đoạn trước và sau cách
mạng tháng Tám: Thành công nhất của nhà văn vẫn là truyện trinh thám. Đồng thời, tác
giả cũng nhận định về thể loại truyện trinh thám Việt Nam: Chính cái “phụ đề” ghi bên
cạnh tên truyện “Truyện trinh thám An Nam” của nhà văn Nguyễn Công Hoan, cho thấy
cái nhìn khắt khe về thể loại truyện trinh thám Việt Nam của nhà văn hiện thực Nguyễn
Công Hoan. Bình luận về truyện ngắn này, Nguyễn Hoành Khung cho rằng “Thiên
truyện thường được xem như một ngón đòn “đả kích khá trúng thứ văn chương” hiện
đại, “lai căng toàn những chuyện ly kỳ rẻ tiền” [54, tr.7]. Nhà văn trinh thám “hoạt kê”
Bùi Huy Phồn, trong “Đôi lời tâm sự cùng bạn đọc” in trong tác phẩm Lá huyết thư (tái
bản năm 1989) nhận định:
“Trong những năm cuối thập kỷ 20 đầu thập kỷ 30 bên cạnh những tiểu
thuyết ... chứa chan lòng yêu nước thương nòi, chúng ta còn bị một thứ bịnh

dịch điên loạn về các loại truyện phong thần, kiếm hiệp, dao bay, trinh thám ...
tung ra từ bốn phương tám hướng để ngu dân, đầu độc đông đảo thanh niên hồi
bấy giờ, thứ bịnh dịch cũng không kém phần nguy hiểm như các thứ truyện
trinh thám rẻ tiền, truyện về những vụ án hình sự đương ăn dỗ tiền và mê hoặc
con em chúng ta ngày nay” [ 93, tr. 6].
Từ năm 1986 trở đi, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Đây
cũng là lúc các nhà nghiên cứu bắt đầu có sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá về
các hiện tượng văn học. Thể loại truyện trinh thám do vậy cũng được nghiên cứu một
cách thận trọng, với một thái độ khách quan, khoa học hơn. Ít thấy những lời phê phán
gay gắt dành cho thể loại văn học này như trước đây; thậm chí có những tác giả đặt lại
vấn đề, xác định lại vai trò, vị trí của truyện trinh thám trong đời sống văn học. Trong bối
cảnh đó, xuất hiện rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến
thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Nhà thơ Tế Hanh trong bài “Thương tiếc nhà thơ Thế Lữ”, cho rằng: “Thế Lữ thích
viết những truyện li kì nhưng cấu trúc lúc nào cũng rõ ràng, khoa học như Vàng và máu,
Bên đường thiên lôi (...). Ở anh, cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ ràng trong thơ,
trong truyện, trong báo chí, sân khấu” [45, tr.382 - 383].


19
Phan Trọng Thưởng với bài viết “Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong”, nhận xét:
Chỉ sau khi tập Mấy vần thơ ra đời được ít lâu, Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh
vực văn xuôi với hai sở trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh
thám như Vàng và máu (Đời nay-1937), Bên đường thiên lôi (1936); Mai
Hương và Lê Phong (1937). Với Vàng và máu (tiểu thuyết kinh dị), ông có thể
được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Điều đáng chú ý
là sự thay đổi thể loại ở Thế Lữ đồng thời cũng kéo theo cả thế giới nghệ thuật
trong sáng tác của ông. Nếu như ở thơ Mới ông thích cõi tiên, ở truyện trinh
thám ông thích cõi đời thì ở truyện li kỳ, rùng rợn, ông thích cõi âm [112, tr.13].
Nhà nghiên cứu đã không quên đề cao đóng góp quý báu của Thế Lữ trong việc mở ra

khuynh hướng văn chương mới cho nhóm Tự lực văn đoàn.
Tác giả Hoàng Minh Châu đã tỏ ra đồng tình với nhận định trên, khi cho rằng:
“Nhưng có lẽ các nhà văn hiện nay và cả độc giả, nếu có dịp đọc lại những truyện
trinh thám của Thế Lữ - nhà thơ, ắt sẽ ngạc nhiên mà kêu rằng … viết truyện trinh
thám được như ông không phải dễ!” [13, tr.28].
Tác giả Hoài Việt khẳng định: “Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng
tượng, giàu mộng mơ nhưng ông lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa
học” [123, tr.109].
Nhà nghiên cứu Nam Chi lại cho rằng: “Thế Lữ viết truyện trinh thám, truyện li
kì dù hay dù dở đều phải hợp lý… hợp lý trong tình tiết thì phải thuận lý trong câu
văn. Thế Lữ đã đưa vào trong tiểu thuyết Việt Nam cấu trúc câu văn Tây phương,
minh bạch khúc chiết mà vẫn giữ được dáng dấp mềm mại của câu nói Việt Nam”
[135]. Đây là một trong những nhận định sâu sắc về nghệ thuật viết truyện trinh thám
của Thế Lữ.
Trong Thế Lữ - Tác gia và tác phẩm của Phạm Đình Ân, với bài viết “Thế Lữ
và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe”, tác giả Kim Oanh đã so sánh, chứng
minh năm truyện trinh thám của Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng mẫu hình của nhà văn Mỹ
Edgar Poe và kết luận: “Chất duy lý khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính
chất ma quái huyền bí của Bồ Tùng Linh và cái kỳ ảo hoang đường của truyện truyền
kỳ dân gian Việt Nam là thành màu sắc truyện trinh thám Thế Lữ” [5, tr.12].
Tác giả Hoài Anh cho rằng: “Thế Lữ cả thơ và truyện đều có hơi hướng Poe,
nặng về duy mỹ mà không đau khổ đến mức bệnh hoạn, tuyệt vọng như Baudelaire”


20
[2, tr.13]. Riêng Đỗ Lai Thúy khẳng định: “Thế Lữ là người khởi điểm của những
khởi điểm”, tên tuổi của ông gắn liền với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam và
ông cũng là một trong những người đặt nền móng cho thể loại truyện trinh thám Việt
Nam.
Nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ tiếp tục đề cao về mảng truyện trinh thám của Thế

Lữ: “Loại sáng tác này cho ta thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc quan sát sắc
bén, có trí tưởng tượng dồi dào, cho nên dù ít đề cập đến vấn đề gì quan trọng về xã
hội và nhân sinh nó vẫn được đón nhận và được tìm đọc một cách lý thú. Cho đến
nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, không thấy có tên tuổi nào đáng được xếp cạnh
Thế Lữ trong loại sáng tác khá độc đáo này” [57, tr.55-56].
Trong số các công trình, bài viết về truyện trinh thám và truyện đường rừng của
Thế Lữ, lời nhận xét, bình phẩm của Văn Giá trong “Lời tựa” (tái bản) là một cách
nhìn khá mới mẻ về truyện trinh thám:
Ở cả hai loại trên, Thế Lữ đều có những đóng góp xuất sắc, chúng ta nhận ra
một thời đại dân chủ trong văn học, chỉ có dân chủ trong sáng tạo, trong cảm
quan của tác giả, trong sự ganh đua, thể nghiệm bạo dạn và tự tin của nhà
nghệ sĩ, chúng ta mới thấy sự bùng nổ của nhiều thể loại văn học đến thế, và
cũng chỉ có dân chủ, nên ở mỗi thể loại mới có những đỉnh cao đẹp đẽ và kỳ
thú đến thế [39, tr.13].
Từ đó, tác giả đưa ra kết luận, cái tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm là do tài năng của
người nghệ sĩ kết hợp với tinh thần dân chủ, tự do sáng tạo.
Về những sáng tác của Phạm Cao Củng, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu đã so
sánh kết cấu truyện của Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh ở Trung Quốc. Bà cho
rằng:
Có thể nói đây là sự gặp gỡ đầu tiên giữa Trình Tiểu Thanh và Phạm Cao
Củng – hai tiểu thuyết gia trinh thám không hề quen biết, không hề có thông
tin gì nhau – về kết cấu của truyện trinh thám. Tiếp đó hai ông cũng gặp gỡ
nhau ở chỗ xây dựng nhân vật chính là một thám tử có trình độ vận dụng lý
luận học và óc quan sát để phân tích sự việc, gỡ dần ra đầu mối chính [12, tr.
28].
Đồng thời, Thy Ngọc trong “Truy tìm truyện trinh thám Việt Nam” đánh giá cao
tinh thần Việt hóa cốt truyện của Phạm Cao Củng. Tác giả cho rằng: “Phạm Cao


21

Củng dù là học hỏi phương Tây, nhưng ông ấy cũng biết “thổi” cho nhân vật một tính
cách Việt, tâm hồn Việt, đời sống Việt cùng những phẩm chất được ưa chuộng ở
phương Đông, như trọng nghĩa khí, tình cảm, đạo đức, coi thường tiền bạc, không
hành động vì thù lao” [147].
Đồng tình với ý kiến trên của Thy Ngọc, Phạm Tú Châu nêu rõ:
Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu thuyết trinh thám suy luận của Phạm
Cao Củng là tuy vay mượn một thể loại văn học phương Tây nhưng ông đã
Việt Nam hóa rất tài tình, cộng thêm phần sáng tạo riêng có. Những nhân
vật và khung cảnh trong truyện của ông đều có tính chất Việt Nam, hợp với
trình độ người Việt hiện thời, không nhặt nhạnh những mẩu truyện ly kỳ
của Tây phương và cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt lai Pháp [24,
tr.12].
Nhà văn Trần Thanh Hà trong bài viết “Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam phải
thoát ra khỏi lối tả chân” đã đưa ra nhận định một cách khái quát: Truyện trinh thám
Việt Nam ra đời muộn so với trinh thám phương Tây hẳn một thế kỷ (tính từ Edgar
Allan Poe cho đến cuốn trinh thám đầu tiên của Phạm Cao Củng in năm 1936). Nó có
khởi đầu khá rôm rả với mấy xê-ri của Phạm Cao Cũng và Thế Lữ, nhưng bị đứt đoạn
do chiến tranh [145].
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đánh giá cao
các tác phẩm trinh thám của Thế Lữ. Đồng thời, tác phẩm của Phạm Cao Củng bước
đầu cũng được giới nghiên cứu nhận định và phổ biến rộng rãi để người đọc có cái
nhìn đa chiều về tài năng của hai nhà văn trinh thám đích thực. Tuy nhiên, nổi bật
nhất vẫn là những khám phá mới về những tác phẩm mang màu sắc trinh thám – ái
tình – hành động mà trước đây người đọc ít được tiếp cận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đã có cái nhìn rất mới về văn học Nam Bộ,
trong đó có tiểu thuyết trinh thám. Theo tác giả: “Truyện trinh thám Nam Bộ phát
triển rất sớm, ảnh hưởng truyện kỳ án võ hiệp của Trung Quốc và phù hợp với tính
cách của người dân Nam Bộ nên được hưởng ứng rất rộng rãi” [121, tr.137].
Một số nhà nghiên cứu khác như Đoàn Lê Giang, trong công trình “Văn học
quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỉ XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên

cứu”, đã khái quát, giới thiệu về diện mạo của các tác giả, tác phẩm truyện trinh thám


22
ở miền Nam những năm đầu thế kỷ XX, và đã khẳng định: “Những phát hiện gần đây
cho thấy Biến Ngũ Nhy mới là nhà văn trinh thám đầu tiên và sớm nhất của Việt
Nam” [42, tr.3].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân thừa nhận một thực tế rằng “Loại truyện
trinh thám hành động của Phú Đức, Nam Đình ở trong Nam đã kích thích các nhà văn
ngoài Bắc viết loại sách tương tự, vì nó ăn khách quá trời” [142]. Tác giả Nguyễn Thị
Thanh Xuân với bài viết “Phú Đức - Một mẫu hình nhà văn Nam Bộ đặc biệt đầu thế
kỷ XX”, đã phân tích khá chi tiết về cách đặt nhan đề, cách xây dựng nhân vật trong
truyện trinh thám của Phú Đức và kết luận “nhân vật trong truyện trinh thám của Phú
Đức còn hơi gượng” [125, tr.19-23]
Tác giả Lê Tiến Dũng, Hồ Khánh Vân trong bài “Bửu Đình - Nhà tiểu thuyết
Nam Bộ” cho rằng: “Màu sắc trinh thám trong tiểu thuyết Bửu Đình in đậm ở tình
huống truyện, còn ở tình tiết truyện thì màu sắc này không rõ nét như các tác phẩm
trinh thám. Bao giờ Bửu Đình cũng xây dựng tác phẩm dựa trên tình huống có tính vụ
án. Một vụ giết người, một vụ mất cắp…, tình huống truyện này thành cái khung bọc
quanh tác phẩm, và toàn bộ cốt truyện được triển khai theo tình huống ấy để hướng
đến mục đích cuối cùng là “phá án”. Thế nhưng, so với những tác phẩm trinh thám
khác thì tính trinh thám của Bửu Đình chỉ dừng lại ở mức độ khởi đầu… tình tiết
trong tiểu thuyết trinh thám của Bửu Đình không đạt đến độ chín muồi của nghệ thuật
tiểu thuyết trinh thám” [27, tr.4].
Nhận xét về sáng tác của Biến Ngũ Nhy, các tác giả Nguyễn Kim Anh, Hà
Thanh Vân, Nguyễn Thị Trúc Bạch cho rằng:
Tác phẩm Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy được coi là cuốn tiểu thuyết
trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại, nó mang dáng dấp của
một tiểu thuyết phương Tây hiện đại và giá trị của nó trong văn học sử đã
được ghi nhận và thành quả của Biến Ngũ Nhy, người đi tiên phong mở

đường trong lãnh vực này đã được một số cây bút sau ông như Phú Đức,
Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Sơn Vương … ở Nam Bộ và Thế Lữ, Phạm
Cao Củng … ở miền Bắc nối tiếp [4, tr.163].
Cũng trong công trình Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Hà
Thanh Vân nhận định: Tiểu thuyết Nguyễn Thế Phương hầu hết thuộc thể loại trinh


23
thám li kì, hấp dẫn. Yếu tố li kì và hiện đại được ông nhấn mạnh. Và phong cách viết
của ông rất gần với nhà văn Phú Đức, tuy nhiên văn phong không thật sắc sảo, dường
như những tiểu thuyết này được viết để đăng báo dài kỳ ông không mấy quan tâm
trau chuốt ngôn từ … nhiều chi tiết còn bất hợp lý, tỏ ra dễ dãi, không thuyết phục
người đọc…. Có thể nói, ông cùng với Biến Ngũ Nhy, Phú Đức và một số tác giả
khác đã có công xây dựng một dòng tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp, kỳ tình, phiêu
lưu mạo hiểm làm phong phú thêm bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của tiểu thuyết
Nam bộ đầu thế kỷ XX [4, tr.439].
Theo nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn thì Biến Ngũ Nhy, Nam Đình Nguyễn Thế
Phương và Phú Đức là những nhà văn trinh thám sớm nhất của Việt Nam: “Trước
1945, Châu về hiệp phố của Phú Đức có lẽ là bộ tiểu thuyết được độc giả Nam kỳ say
mê nhất, và là bộ tiểu thuyết có độ dài kỉ lục mà chưa tác phẩm nào có thể vượt qua.
Tác phẩm được khởi đăng trên Trung lập báo năm 1926” [85, tr.37]. Xét về cấu trúc
và độ dài, Nam Đình là một “kiện tướng”, tác phẩm của ông luôn pha trộn giữa chất
trinh thám và ái tình, văn phong mộc mạc, nhưng tình tiết khá hấp dẫn. Võ Văn Nhơn
cho rằng: “Các tác phẩm chính của Lê Hoàng Mưu hầu hết đều thuộc thể loại trinh
thám hấp dẫn và li kì” [85, tr.26-35] .
Nhị Linh trong bài viết “Văn học trinh thám Nam Bộ đầu thế kỷ XX” nêu vấn
đề: Do những cách ngăn về địa lí và những đặc thù về lịch sử, nên văn học sử Việt
Nam dường như vẫn còn bỏ sót hoặc “làm lơ” các nhà văn tiền phong, có nhiều đóng
góp vào thể loại văn học trinh thám, viễn tưởng, phiêu lưu ở Nam Bộ đầu thế kỉ XX.
Tại cuộc Hội thảo “Văn học trinh thám có phải là văn học” ở Hội chợ sách lần

thứ 6 do Công ty Nhã Nam tổ chức tại Sài Gòn từ ngày từ 15.03 đến 20.03.2010,
Nguyễn Minh Hoàng, đã khái quát: “Làm sao không nể, đọc và hồi hộp như quả bom
nổ chậm. Ai cho rằng truyện trinh thám chỉ cốt để giải trí nhưng tôi lại nghĩ khác,
chính nó là thước đo của một nền văn học” [148]. Tác giả Cao Việt Dũng lý giải: Nếu
coi những cuốn truyện hình sự vẫn được bán hoặc cho thuê đầy rẫy trên thị trường
hiện nay là truyện trinh thám thì bạn đã hạ thấp thể loại này, những người hâm mộ
chân chính của văn học trinh thám đích thực sẽ dễ dàng kể ra nền tảng trinh thám của
vô số tác phẩm lớn, cả văn học lẫn điện ảnh.


24
Nhà nghiên cứu kiêm dịch giả Nguyễn Tiến Văn thì đưa ra nhận định: Văn học
trinh thám đã từng có một lịch sử phát triển khá lâu và lớn mạnh tại Việt Nam, có thể kể,
đó là từ dòng trinh thám của Trung Quốc thông qua những câu chuyện dạng Bao Công,
đến dòng trinh thám châu Âu tràn vào Việt Nam những năm trước 1945. Các tác phẩm
trinh thám đáp ứng được nhiều yêu cầu của bạn đọc như tâm lý an lòng, sự trừng phạt
đối với tội ác…Nhà báo Yên Ba lại không đồng tình với ý kiến trên nên. Trong bài viết:
“Từ thám tử Kỳ Phát đến điệp viên Nguyễn Thành Luân", tác giả cho rằng: Sách trinh
thám ở Việt Nam không có một lịch sử lâu dài. Lý do là vì chữ quốc ngữ mãi đến những
năm đầu tiên của thế kỷ XX mới dần được truyền bá và hoàn thiện, theo đó văn học chữ
quốc ngữ cũng mới được hình thành. Theo tác giả thì nếu tạm coi việc ra đời tiểu thuyết
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách do nhà in Nam Kỳ (Hà Nội) xuất bản năm 1925 như là
cuốn tiểu thuyết đầu tiên theo đúng nghĩa của nó trong nền văn học chữ quốc ngữ Việt
Nam, thì văn học trinh thám phải đợi hơn mười năm sau mới có cuốn tiểu thuyết đầu tiên
với hai nhân vật thám tử Kỳ Phát và Lê Phong phóng viên của Phạm Cao Củng và Thế
Lữ đã làm say mê người đọc Bắc Hà một thời.
Mặc dù tác phẩm Mảnh trăng thu của Bửu Đình, được xuất bản năm 1930, tác
phẩm đã mang những yếu tố trinh thám vụ án (có giết người, truy tìm thủ phạm), thế
nhưng tác giả cũng chỉ đề là “ái tình tiểu thuyết”, kể về truyện tình ái của một lớp
thanh niên thời bấy giờ lồng trong khung cảnh của một vụ án... [144]. Trong Hội

thảo, các diễn giả không chỉ đề cập đến đặc trưng thể loại, vai trò của truyện trinh
thám mà còn nhấn mạnh những đóng góp của truyện trinh thám như là một thể loại
văn học. Đồng thời, Hội thảo còn đặt vấn đề về nguồn gốc truyện trinh thám Việt, tác
giả và tác phẩm trinh thám Việt đầu tiên? Mặc dù có một số ý kiến chưa thống nhất
về cách đánh giá nhưng Hội thảo đã đem đến cho độc giả những cái nhìn mới cùng sự
quan tâm đặc biệt về thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Vấn đề thể loại cũng thu hút được nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê
bình. Tác giả Thy Ngọc đã băn khoăn: “Cái gọi là “dòng văn học trinh thám Việt
Nam” chỉ là một vạch rất đỗi mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn học nước nhà”
[147]. Nhà văn Trần Thanh Hà nhận định: “Ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa phương
Tây, một số nhà văn đã mô phỏng các cốt truyện hình sự - điều tra trong truyện trinh
thám nước ngoài, làm manh nha một thể loại mới: tiểu thuyết trinh thám Việt Nam”


25
[145]. Tiểu Quyên trong “Đánh giá tiểu thuyết trinh thám Việt giai đoạn hiện nay”
cho rằng: Không có nhiều tác phẩm văn học thuộc thể loại trinh thám, kỳ ảo, đời sống
văn học Việt đang bỏ trống sân chơi này cho dòng sách truyện trinh thám, kỳ ảo của
văn học thế giới ào ạt tràn vào [142].
Khi bàn về vai trò của thể loại trinh thám trong đời sống, Văn Giá đưa ra những
nhận định khá thuyết phục:
Ngày nay nhìn vào những mảng văn học này, chúng ta rộng lòng hơn khi đón
nó và trên thực tế sẽ bổ ích cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc với những tác phẩm
văn học mà ở đó không phải lúc nào cũng chăm chăm đi tìm bằng được ý nghĩa
xã hội một cách thô thiển và vị tất đã thấy! Thể loại tự nó không có lỗi, cái quan
trọng là người sử dụng nó như thế nào và đạt đến trình độ nào, cũng như người
thưởng thức với thái độ và khả năng khám phá ra sao mà thôi [39, tr.13].
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu
phê bình, sưu tầm và giới thiệu tác phẩm ít nhiều liên quan đến các tác giả và tác
phẩm truyện trinh thám như: Văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX (1900-1945) của Hoài

Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp (1988), Phác thảo quan hệ văn học Pháp và văn
học Việt Nam hiện đại của Hoàng Nhân (1988), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
do Cao Xuân Mỹ sưu tầm (tập 1, 2), Mai Quốc Liên giới thiệu (1999), Giáo trình lịch
sử Văn học Việt Nam của Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Báo chí với văn học giai đoạn
1932-1945 của Lê Thị Đức Hạnh (2001), Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX do
Mai Quốc Liên (chủ biên), Nguyễn Văn Lưu và Nguyễn Cừ (sưu tầm, biên soạn 2002), Lược khảo văn học Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại của Bùi Đức Tịnh
(2005), Văn học miền Nam nơi miền đất mới (tập 1,2) của Nguyễn Q. Thắng…
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy một số luận án Tiến sĩ, có đề
cập đến những vấn đề liên quan đến luận án như: Sự hình thành và vận động của thể
loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX của Tôn Thất Dụng (1993), Đóng góp của Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam của Lê Ngọc
Thúy (2001), Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX của Cao Xuân Mỹ (2001), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX của Võ Văn Nhơn (2008).


×