Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Đề tài: Nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.92 KB, 41 trang )

Đề tài: Nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường
Đại học Quy Nhơn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.

Năm 1994, Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD - Internation
Conference on Population Deverlopment ) tại Cairo, Ai Cập đã đánh dấu mốc quan trọng
trong sự thay đổi chính sách dân số ở các quốc gia, chương trình dân số chuyển hướng
sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dân số, trong đó trọng tâm là nội dung chăm sóc
sức khỏe sinh sản. Có thể nói, việc nghiên cứu sức khỏe sinh sản nói chung và nghiên
cứu sức khỏe sinh sản vị thành niên đã được tiến hành rất sớm trên thế giới, nhất là ở các
quốc gia phát triển. Hướng nghiên cứu sức khỏe sinh sản trong đối tượng thanh thiếu niên
ở nước ngoài thường tập trung nghiên cứu về những vấn đề cụ thể, nhạy cảm của sức
khỏe sinh sản như vấn đề nạo phá thai, sinh đẻ sớm, vấn đề quan hệ tình dục trước hôn
nhân, các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Ở châu Á khi mới bắt đầu, chương trình
Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản được coi là một bộ phận của chương trình kế hoạch
hoá gia đình và chỉ có giáo dục giới tính. Do đó, nhiều nước còn phản đối đưa Giáo dục
dân số - sức khỏe sinh sản vào trong các trường học. Trong Báo cáo chuẩn bị cho Hội
nghị dân số châu Á – Thái Bình Dương năm 2002 chỉ ra thực trạng nhận thức về sức
khỏe sinh sản của thanh thiếu niên còn nhiều hạn chế, phần lớn thanh niên trong khu vực
không sử dụng biện pháp tránh thai hoặc bao cao su khi sinh hoạt tình dục, nhu cầu tránh
thai không được đáp ứng đặc biệt cao ở Nam Á, tỷ lệ sinh con của vị thành niên khá cao,
họ không được tiếp cận với những chương trình kế hoạch hóa gia đìn. Thanh thiếu niên
thường không biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh dục và sinh sản như thế nào, rất
nhiều thanh niên cho rằng không thể có thai ở lần sinh hoạt tình dục đầu tiên, không biết
về các bệnh lây qua đường tình dục. Thực tế, nghiên cứu ở Indonexia, Philippines và Việt
Nam cho thấy chỉ khoảng 25-50% nữ vị thành niên 15-19 tuổi có thể nêu lên được 3 cách
phòng tránh HIV và hơn 2/3 có ít nhất một sự hiểu lầm quan trọng về HIV/ AIDS.


Ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động giáo dục dân số cũng đã


chuyển hướng sang giáo dục sức khỏe sinh sản nói chung và sức khỏe sinh sản cho vị
thành niên nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề về sức khỏe sinh sản ở Việt Nam còn nhiều hạn
chế, thông tin về về tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên hầu như
không có và việc thảo luận về tình dục thường bị cấm kỵ. Nhiều người lớn còn nghĩ rằng
việc đưa giáo dục sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên vào chương trình học sẽ khiến
lớp trẻ có quan hệ tình dục sớm hơn và nhiều hơn, các em không được tiếp xúc với những
thông tin về sức khỏe sinh sản, không có cơ hội trao đổi về vấn đề này. Vì vậy nhận thức
của lớp trẻ về sức khỏe sinh sản bao gồm tình dục, chức năng sinh sản , các biện pháp
tránh thai, quan hệ tình dục an toàn.... còn nhiều hạn chế. Theo thống kê có 40% thanh
thiếu niên cho biết họ không biết gì về các biện pháp tránh thai. Theo thống kê của Quỹ
dân số Liên hiệp quốc, Việt Nam là một trong năm nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế
giới và đứng đầu ở khu vực Đông Nam Á. Một năm trung bình có khoảng 1,2 triệu đến
1,6 triệu ca nạo phá thai mà trong đó có đến 300 đến 400 nghìn ca nạo phá thai ở tuổi vị
thành niên. Vì vậy, để nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho tuổi vị thành niên và
thanh niên, Đảng và nhà nước đã đề ra chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản trong
giai đoạn 2001 – 2010 : “ Bộ giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm xây dựng và chỉ đạo
thực hiện chương trình giáo dục về giới, về sức khỏe sinh sản”. Đây là bước đi rất có ý
nghĩa trong chiến lược giáo dục sức khỏe sinh sản nói chung và giáo dục sức khỏe sinh
sản. Cung cấp thông tin và giáo dục sức khỏe sinh sản giúp cho thanh niên có nhận thức
đúng đắn về vấn đề này, giúp cho thanh niên có có cuộc sống lành mạnh, hạnh phúc,
ngăn ngừa các nguy cơ nói trên.
Sinh viên trường Đại học Quy Nhơn là tầng lớp tri thức của xã hội, khi học ở
trường trung học phổ thông, sinh viên cũng đã được học những kiến thức cơ bản về sức
khỏe sinh sản về chức năng sinh sản, các biện pháp tránh thai, các con đường lây nhiễm
HIV, AIDS... Trường Đại học Quy Nhơn cũng đã đưa vấn đề này vào trong các chương
trình, các hội thi như “ Hội thi Tìm hiểu về sức khỏe sinh sản dành cho sinh viên thuộc
các trường đại học, cao đẳng trong toàn tỉnh” để các bạn SV trang bị cho mình những


kiến thức về giới tính, tình yêu và nâng cao nhận thức về các bệnh lây truyền qua đường

tình dục. Sinh viên có quan tâm nhưng sự hiểu biết về sức khỏe sinh sản còn hạn chế, mơ
hồ và thiếu chính xác. Sinh viên chưa trang bị cho bản thân được những kiến thức, kỹ
năng về quan hệ tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai, các bệnh lây qua đường tình
dục...dẫn đến những trường hợp mang thai ngoài ý muốn, mắc các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục và để lại nhiều hậu quả. Sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học
Quy Nhơn nói riêng là chủ nhân tương lai của đất nước, họ sẽ trở thành những nhà giáo,
kỹ sư, các bộ công chức với trình độ cao. Nhận thức và hành vi của họ sẽ ảnh hưởng đến
thế hệ sau này. Vì vậy, nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên trường Đại
học Quy Nhơn là vấn đề quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu “ Nhận thức về sức
khỏe sinh sản của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn ”.
2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức khỏe sinh sản, từ
đó đề xuất một số biện pháp cụ thể góp phần nâng cao nhận thức cho sinh viên.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về nhận thức sức khỏe sinh sản.
3.2 Xác định thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức khỏe sinh

3.

sản.
3.3 Đề xuất các biện pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản.
4. Giả thuyết nghiên cứu.

Sinh viên trường Đại học Quy Nhơn đã có những hiểu biết nhất định về sức khỏe sinh
sản nhưng còn chưa đầy đủ và thiếu tính chính xác. Nếu xây dựng được các chương trình
giáo dục sức khỏe sinh sản phù hợp cho sinh viên thì nhận thức của sinh viên về vấn đề
này sẽ được nâng cao.
5. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường đại học
Quy Nhơn .
Khách thể nghiên cứu chính: Sinh viên trường Đại học Quy Nhơn.
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
6.1 Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Quy Nhơn đã có những quan

tâm đến vấn đề sức khỏe sinh sản nhưng sự hiểu biết còn hạn chế, thiếu chính xác. Đề tài
này nghiên cứu trên phương diện nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản.
6.2 Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trên khách thể chính với số lượng
200 sinh viên, bao gồm 3 khối ngành: khối ngành tự nhiên, khối ngành xã hội, khối
ngành năng khiếu.
- Khách thể bổ trợ 10 giảng viên trường Đại học Quy Nhơn
6.3 Giới hạn về thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2015
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Căn cứ vào mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn và sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu liên quan về sức khỏe sinh

7.2.1

sản để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Xây dựng bộ công cụ điều tra, khảo sát để xác định
thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức khỏe sinh sản. Đây

7.2.2
7.2.3


là phương pháp nghiên cứu chính mà chúng tôi sử dụng trong đề tài.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Hỗ trợ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi để tìm hiểu sâu
hơn thực trạng nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn.
Phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả điều tra
8. Cấu trúc đề tài.
* Mở đầu:
- Lý do chọn đề tài.
- Mục đích nghiên cứu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Giả thuyết nghiên cứu.
- Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
- Phạm vi và giới hạn nghiên cứu.
- Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.


-

Cấu trúc đề tài.

Chương 1: Cơ sở lý luận về nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về nhận thức sức khỏe sinh sản.
1.1.1 Những nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản trong nước.
1.1.2 Những nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản trên thế giới.
1.2 Cơ sở lý luận về nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản.
1.2.1 Nhận thức
1.2.1.1 Khái niệm
1.2.1.2 Phân loại
1.2.1.3 Quá trình hình thành nhận thức
1.2.2 Sức khỏe sinh sản
1.2.2.1 Khái niệm

1.2.2.2 Nội dung cơ bản của sức khỏe sinh sản
1.2.3 Nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên
1.2.3.1 Đặc điểm tâm lý của sinh viên
1.2.3.2 Nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên.

Tiểu kết chương 1
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
2.1 Vài nét về khu vực và khách thể nghiên cứu.
2.1.1 Vài nét về khu vực nghiên cứu.
2.1.2
Vài nét về khách thể nghiên cứu
2.2 Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Tiểu kết chương 2
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn
3.1 Thực trạng về nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức khỏe
sinh sản.
3.2 Phân tích các yếu tố điển hình
3.3 Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức sức khỏe sinh sản cho sinh
viên trường Đại học Quy Nhơn.
Tiểu kết chương 3
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục


Chương 1 : Lý luận về nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức
khỏe sinh sản
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về nhận thức sức khỏe sinh sản
1.1.1 Những nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản trên thế giới


Việc nghiên cứu sức khỏe sinh sản nói chung và nghiên cứu sức khỏe sinh sản vị
thành niên được tiến hành rất sớm trên thế giới, hướng nghiên cứu thường tập trung vào
các vấn đề như nạo phá thai, sinh đẻ sớm, vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân, các
bệnh lây qua đường tình dục...
Năm 1965, Hội đồng dân số thế giới đã kêu gọi WHO đưa vấn đề sinh sản người
vào Chương trình hoạt động ( nghị quyết 18.49 của WHO) và yêu cầu thiết lập Chương
trình hoạt động liên quan đến sinh sản, sức khỏe sinh sản. Ở châu Mĩ La Tinh, chương
trình giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản bắt đầu từ những năm 1967 tại trường tổng hợp
Dell Valle ở Colombia..Cũng vào thời gian đó, Quỹ dân số của Liên Hiệp Quốc
(UNFPA) đã cho mọi người thấy được sự cần thiết của Giáo dục dân số – sức khỏe sinh
sản và bắt đầu tài trợ cho chương trình này. UNESCO một cơ quan quan trọng của Liên
Hiệp Quốc cũng biểu lộ sự đồng tình với chương trình Giáo dục dân số – sức khỏe sinh
sản và đã tổ chức hội nghị đầu tiên về Giáo dục dân số – sức khỏe sinh sản năm 1967.
Năm 1968, Đại hội đồng UNESCO xác định mục tiêu của UNESCO trong lĩnh
vực Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản là: làm cho mọi người hiểu biết hơn về trách


nhiệm hệ trọng mà sự gia tăng dân số đặt ra cho mỗi cá nhân, quốc gia, thế giới. Năm
1970, một nhóm chuyên gia đã tổ chức hội nghị về dân số và giáo dục gia đình tại
Bangkok Thái Lan do UNESCO khu vực châu Á bảo trợ. Kết quả của hội nghị này có tác
động tích cực đến việc thúc đẩy chương trình Giáo dục dân số – Sức khỏe sinh sản trong
khu vực. Các nhà giáo dục đến từ 13 nước thành viên của châu Á đều đã nhất trí cao
trong việc vạch ra các tư tưởng chiến lược để soạn thảo chương trình, vạch ra nội dung để
đưa vào chương trình học ở nhà trường trong các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội.
Ở châu Á khi mới bắt đầu, chương trình Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản được
coi là một bộ phận của chương trình kế hoạch hoá gia đình và chỉ có giáo dục giới tính.
Do đó, nhiều nước còn phản đối đưa Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vào trong các
trường học. Các nhà chức trách về giáo dục thì cho rằng nếu giáo dục dân số chỉ là điều
chỉnh mức sinh thì nội dung của nó phải nói về tái sản xuất dân số và các biện pháp tránh

thai. Đến năm 1969, hội thảo quốc gia lần thứ nhất về Giáo dục dân số - sức khỏe sinh
sản đã đánh dấu một bước tiến đáng kể trong việc đưa giáo dục dân số vào hệ thống
trường phổ thông ở Ấn Độ. Năm 1985 ở Ấn độ, Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản đã
được triển khai ở 34 trường đại học trong chương trình đào tạo cử nhân và 18 trường đại
học trong chương trình đào tạo thạc sĩ.
Tại Trung Quốc và Sri Lanka, giáo dục giới tính truyền thống gồm đọc về đoạn
sinh sản trong các cuốn sách giáo khoa sinh học. Tại Sri Lanka họ dạy trẻ em khi chúng
đã 17–18 tuổi. Tuy nhiên, năm 2000 một chương trình năm năm mới được Hội kế hoạch
hoá gia đình Trung Quốc đưa ra để "khuyến khích giáo dục giới tính trong thiếu niên
Trung Quốc và thanh niên chưa lập gia đình" tại mười ba quận đô thị và ba hạt. Nó bao
gồm những cuộc thảo luận về tình dục bên trong quan hệ con người cũng như mang thai
và ngăn ngừa HIV.
Xuất phát từ kết quả các cuộc khảo sát đa quốc gia về thăm dò thái độ của giới trẻ
trong quan hệ tình dục tại châu Âu vào những năm đầu thế kỷ 21 cho thấy mức độ đáng


báo động về quan hệ tình dục không được bảo vệ cũng như kiến thức, hiểu biết về các
biện pháp tránh thai còn thiếu hụt trong giới trẻ. Bên cạnh đó, các chương trình giáo dục
sức khỏe, giới tính trong hệ thống nhà trường không đủ để cung cấp thông tin một cách
toàn diện về vấn đề này. Điều đó dẫn đến hàng năm có tới 1/3 trong số 205 triệu trường
hợp mang thai trên thế giới là mang thai ngoài ý muốn, 36% độ tuổi vị thành niên cho
biết có quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp bảo vệ, trong khi tỷ lệ bệnh lây truyền
qua đường tình dục cao nhất ở độ tuổi dưới 25.
Nghiên cứu của Dahlback (2003) và Owolabi (2005) ở châu Phi cho thấy vị thành
niên thiếu kiến thức về nguy cơ bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục bao gồm cả HIV/
AIDS. Nghiên cứu với vị thành niên Uganda (2006) thấy tỉ lệ nữ mắc bệnh Lậu là 4,5 %,
trùng roi là 8 % và 4% bị giang mai, 15,2% huyết thanh dương tính HIV. Tỉ lệ nam tương
ứng là 4,7 %, 0%, 2,8 % và 5,8%. Nghiên cứu ở Châu Phi (2001) cho thấy nhiều thanh
thiếu niên không biết có thai trong quan hệ tình dục lần đầu, vị thành niên nhận thức
được về biện pháp tránh thai nhưng quan hệ tình dục không an toàn vẫn cao do không

chủ động sử dụng các biện pháp tránh thai và bạn tình từ chối sử dụng.Nghiên cứu về
nạo phá thai tuổi vị thành niên ở Thụy Điển (2005) cho thấy vị thành niên đồng tình với
nạo phá thai nhưng thiếu kiến thức về nạo phá thai.
Nghiên cứu ở vị thành niên một số nước châu Á, Thái Bình Dương (2007) cho
thấy 13% nữ và 4 % nam từng mắc bệnh lây qua đương tình dục, trong đó 33% có quan
hệ tình dục trước 15 tuổi và 55% có nhiều bạn tình. Yếu tố liên quan với mắc bệnh liên
quan đường tình dục là nữ có nhiều bạn tình, đã từng quan hệ tình dục để nhận tiền hay
quà. Khảo sát liên quan đến nhận thức sinh sản ở châu Á - Thái Bình Dương năm 2012
của Merck Serono (Đức) tiến hành trên 1.000 phụ nữ tại 10 quốc gia trong khu vực cho
thấy thực trạng về lỗ hổng kiến thức sức khỏe sinh sản của người dân. Năm 2009 tại Bắc
Kinh diễn ra Hội nghị Châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 5 về sức khỏe sinh sản, sức khỏe
tình dục và quyền sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục và Ban điều hành Tổ chức các đối
tác về Dân số và Phát triển. Hội nghị chỉ ra thực trạng trong nhận thức về sức khỏe sinh
sản của thanh niên “ mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng nhiều thanh niên vẫn chưa


nhận thức đầy đủ về quyền sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục và họ có nguy cơ dễ bị
tổn thương, bị bóc lột, có thai ngoài ý muốn .
Năm 2013, tại Băng Cốc, Thái Lan diễn ra Hội nghị Dân số Châu Á - Thái Bình
Dương (APPC) lần thứ 6 được tổ chức bởi Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á - Thái Bình
Dương (ESCAP) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), đề ra các mục tiêu tăng
cường dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đến người dân, đặc biệt là đối tượng thanh
thiếu niên. Báo cáo “Làm mẹ khi chưa trưởng thành: Thách thức mang thai ở tuổi vị
thành niên” cho thấy hàng năm thế giới có hơn 7 triệu em gái ở các quốc gia nghèo sinh
con trước 18 tuổi, trong đó khoảng 2 triệu ca là các bà mẹ dưới 14 tuổi. Các bà mẹ chưa
trưởng thành này sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng và kéo dài về mặt sức
khỏe và xã hội do việc mang thai sớm.
Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) cho biết, mỗi năm có khoảng 16 triệu em gái
tuổi 15-19 sinh con; cứ 10 trẻ vị thành niên (VTN) thuộc nhóm này thì 9 đã lập gia đình.
Các biến chứng khi mang thai và khi sinh tiếp tục là những nguyên nhân hàng đầu gây tử

vong mẹ với các em gái 15-19 tuổi ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Trên toàn
cầu, cứ 3 nữ thanh niên tuổi 20-24 thì có 1 người (khoảng 70 triệu người) kết hôn trước
tuổi 18. Ngoài ra còn có chương trình “Sáng Kiến Sức Khoẻ Sinh sản Thanh Thiếu niên
châu Á”, một chương trình khu vực nhằm thúc đẩy cải thiện tình trạng sức khoẻ sinh sản
của vị thành niên, thanh niên.và lây nhiễm HIV”
1.1.2

Những nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản trong nước
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây các công trình nghiên cứu trên đối tượng

sinh viên về sức khỏe sinh sản ở các trường Đại học khá nhiều, chủ yếu tập trung vào các
vấn đề cụ thể của sức khỏe sinh sản. Có thể kể ra một vài nghiên cứu sau đây:
Đề tài “Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về
sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình” của tác giả Đinh Thị
Thanh Nga tiến hành điều tra 653 học sinh, thuộc nhóm tuổi 16, 17, 18 của 3 trường
THPT trên địa bàn huyện Yên Khánh. Nghiên cứu cho thấy, nhận thức về dấu hiện tuổi


dậy thì của các em tương đối tốt, hiểu biết về nguyên nhân và thời điểm có thai của các
em còn nhiều hạn chế, chưa chính xác, công tác tuyên truyền sức khỏe sinh sản trên địa
bàn chưa được quan tâm đúng mức và chưa đạt hiệu quả cao. Các em còn thiếu hiểu biết
về quan hệ tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai và các bệnh lây qua đường tình dục.
Đề tài còn nghiên cứu thái độ của các em về bạn tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và
thái độ có thai trước hôn nhân. Nghiên cứu cho thấy hành vi quan hệ tình dục và có thai
trước hôn nhân trên địa bàn có dấu hiệu gia tăng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống,
sức khỏe và tương lai của các em sau này. Đề tài cũng đã đưa ra một số kiến nghị nhằm
nâng cao thái độ của học sinh về sức khỏe sinh sản.
Tiểu luận “ Vị thành niên và sức khỏe sinh sản vị thành niên trên báo chí” qua
khảo sát trên báo Tiền Phong đã nêu lên thực trạng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục sức
khỏe sinh sản. Trong các tờ báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình thì nội dung đề cập đến

vấn đề sức khỏe sinh sản nói chung chiếm tỉ lệ ít, nội dung về giáo dục sức khỏe sinh sản
càng ít hơn. Tiểu luận đã nêu lên được vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền kiến
thức sức khỏe sinh sản, những kết quả đạt được của báo Tiền Phong trong công tác tuyên
truyền, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, phản ánh được thực trạng và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác tuyên truyền, giáo dục sức khỏe sinh
sản vị thành niên trên báo chí, từ đó có những biện pháp thích hợp khi tuyên truyền giáo
dục liên quan đến lứa tuổi vị thành niên.
Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với công trình nghiên cứu về “Khảo sát nhận thức
của sinh viên đại học sư phạm về SKSS” vào năm 2004 ở 1440 SV thuộc bốn trường đại
học sưmphạm: Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vinh đại diện cho các
trường đại học sư phạm ở bốn miền Bắc, Trung, Nam và miền núi phía Bắc, đã cho thấy
thực trạng mức độ nhận thức của sinh viên đại học sư phạm còn rất hạn chế, không đồng
đều. Có sự chênh lệch mức độ nhận thức của sinh viên đại học sư phạm theo giới tính,
năm học, học lực, ngành học về nội dung cốt lõi của sức khỏe sinh sản: khái niệm sức
khỏe sinh sản, đối tượng sức khỏe sinh sản, nội dung sức khỏe sinh sản, giới tính, tình
bạn, tình yêu và hôn nhân, tình dục an toàn, mang thai, nạo phá thai, các biện pháp tránh


thai, bệnh lây qua đường tình dục và HIV/AIDS. Đồng thời, qua nghiên cứu đó, tác giả
cũng đề xuất một số biện pháp tác động sư phạm nhằm phát triển nhận thức của sinh viên
đại học sư phạm về sức khỏe sinh sản.
Tìm hiểu về nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên có đề tài nghiên cứu “
Nhận thức của sinh viên trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản” của tác giả
Trần Thanh Nguyên năm 2007, nghiên cứu trên 332 sinh viên Đại học Tiền Giang.
Nghiên cứu cho thấy thực trạng nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên Đại học
Tiền Giang đa số đã có nhận thức phù hợp nhưng chưa đầy đủ, nhận thức về nạo phá thai
và các bệnh lây qua đường tình dục của sinh viên nữ cao hơn sinh viên nam, đa số sinh
viên đã có hiểu biết nhất định về tình dục và tình dục an toàn, nguyên nhân ảnh hưởng
đến nhận thức của sinh viên trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản. Đề tài cũng
đã đưa ra được một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh

viên Đại học Tiền Giang như phát huy tính tích cực nhận thức của chính sinh viên, cung
cấp thông tin, kiến thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên, phát huy vai trò của gia đình
trong giáo dục sức khỏe sinh sản, tổ chức các câu lạc bộ sinh viên để làm công tác tuyên
truyền, giáo dục về sức khỏe sinh sản, kết hợp các lực lượng giáo dục trong giáo dục,
chăm sóc sức khỏe sinh sản, tăng cường sự chỉ đạo của ngành giáo dục – đào tạo và nhà
trường trong giáo dục sức khỏe sinh sản...
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà với công trình nghiên cứu “ Biện pháp quản lý nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục sức khỏe sinh sản cho sinh viên trường Đại học Kinh tế Đại học Huế năm 2010, tiến hành ở 340 sinh viên 4 khóa thuộc 4 khoa của trường Đại
học Kinh tế - Đại học Huế, đã nêu lên thực trạng công tác giáo dục sức khỏe sinh sản cho
sinh viên của trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế. Qua nghiên cứu cho thấy, công tác
giáo dục sức khỏe nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản được nhà trường thực hiện phong
phú, đa dạng, có mối quan hệ thiết thực với cuộc sống. Tuy nhiên, những nội dung chưa
được chú trọng và đồng bộ. Hình thức giáo dục được lồng ghép vào nhau, với các hình
thức khác nhau, nhưng chưa đem lại hiệu quả. Công tác kế hoạch hóa gia đình còn thiếu


đồng bộ, chưa thường xuyên và kịp thời. Nghiên cứu cũng đã đưa ra một số giải pháp để
quản lý công tác sức khỏe sinh sản cho sinh viên trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế.
Trong nghiên cứu “ Khảo sát đánh giá nhận thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh
sản của vị thành niên – thanh niên 15 – 24 tuổi vùng ven biển, đầm phá, vạn đò tỉnh Thừa
Thiên Huế năm 2010” của tác giả Tôn Thất Chiểu, tiến hành khảo sát 1000 vị thành niên,
thanh thiếu niên. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số thanh thiếu niên đều có những hiểu
biết nhất định về tuổi dậy thì, nhận thức đúng về điều kiện có thai, tuy nhiên có 74% trả
lời sai về thời điểm dễ thụ thai. Các em đã có hiểu biết vầ các biện pháp tránh thai phổ
biến, có nhận thức đúng đắn về 3 con đường lây nhiễm cơ bản của HIV là qua quan hệ
tình dục không an toàn (58,5%), qua đường máu (64,0%) và lây nhiễm từ mẹ sang con
(58,3%). Phần lớn vị thành niên có thái độ đúng đắn về quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Trong nghiên cứu, tác giả cũng đưa ra được các yếu tố liên quan đến nhận thức, thái độ,
hành vi về sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên và đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp nâng cao nhận thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản cho vị thành niên,

thanh niên.
Nhằm mục đích nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và mong muốn đáp ứng
nhu cầu của học sinh trong việc cung cấp kiến thức sức khỏe sinh sản, tác giả Phạm Thị
Hồng đã thực hiện đề tài “ Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản của
học sinh trung học phổ thông tại trường THPT Trương Định – Hoàng Mai – Hà Nội”
năm 2011. Qua nghiên cứu cho thấy, nhận thức của học sinh về các biện pháp tránh thai
phổ biến khá cao, các em rất quan tâm đến kiến thức sức khỏe sinh sản. Học sinh trường
THPT Trương Định có những hiểu biết cơ bản về các bệnh lây qua đường tình dục phổ
biến, tuy nhiên các em còn thiếu hiểu biết được các bệnh lây qua đường tình dục khác,
một số em hiểu sai về các biện pháp tránh thai và nạo hút thai là biện pháp tránh thai.
Nhu cầu học kiến thức sức khỏe sinh sản tại trường là rất cao, có đến 70% các em rất
mong muốn được học, 20% mong muốn học. Nội dung mà các em quan tâm là tổng hợp
kiến thức sức khỏe sinh sản vị thành niên bao gồm: sự thay đổi cơ thể, biết cách vệ sinh
cơ quan tình dục, phân biệt được tình yêu và tình dục, hiểu biết về các bệnh lây qua


đường tình dục, cách sử dụng bao cao su đúng cách, các biện pháp tránh thai... Đề tài
cũng đưa ra được một số nguyên nhân chính cản trở việc trao đổi thông tin về sức khỏe
sinh sản như khó tiếp cận với thông tin, ngại tìm hiểu về vấn đề này và người thân không
sẵn sàng chia sẻ. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp để nâng cao
nhận thức sức khỏe sinh sản và đáp ứng nhu cầu của học sinh trong việc cung cấp kiến
thức sức khỏe sinh sản.
Trong đề tài “ Khảo sát kiến thức sức khỏe sinh sản – tiền hôn nhân cho nhóm đối
tượng là vị thành niên – thanh niên và các cặp nam, nữ chuẩn bị kết hôn năm 2011” của
tác giả Đặng Phi Yến, qua khảo sát 420 vị thành niên/thanh niên từ 15-24 tuổi và nam nữ
chuẩn bị kết hôn tại 07 điểm triển khai mô hình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu cho thấy nhìn chung, kiến thức về nạo phá thai còn thấp, chỉ có 39% vị thành
niên/thanh niên và nam nữ chuẩn bị kết hôn biết được nạo phá thai là một giải pháp thụ
động nhằm giải quyết những thai nghén ngoài ý muốn và chỉ nạo phá thai sau khi đã
được cán bộ y tế chuyên ngành sản – phụ khoa và kế hoạch hóa gia đình tư vấn một cách

thấu đáo và trước khi được nạo phá thai, thai phụ phải được kiểm tra sức khỏe toàn diện
và làm các xét nghiệm cần thiết. Vẫn còn 9% vị thành niên/thanh niên và nam nữ chuẩn
bị kết hôn trả lời nạo phá thai là một trong những biện pháp tránh thai phổ biến và 6% trả
lời nạo phá thai chỉ cần những thủ thuật đơn giản, bất kỳ cơ sở y tế nào cũng có thể thực
hiện được. Phần lớn vị thành niên, thanh niên đã biết đến những bệnh lây truyền qua
đường tình dục, nhưng kiến thức cụ thể còn hạn chế. Hiểu biết của vị thành niên, thanh
niên về vấn đề vô sinh chưa cao, điều này sẽ dẫn đến tình trạng chủ quan, không cần đi
khám sẽ làm cho thời gian cần cho việc phát hiện sớm và điều trị sớm sẽ giảm dần và cơ
hội muốn sinh con càng giảm. Mặc dù đa số các đối tượng vị thành niên, thanh niên đã có
kiến thức về tình dục an toàn và các biện pháp tránh thai hiện đại nhưng chỉ ở mức độ
trung bình. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị như tăng cường chỉ đạo và hỗ trợ tích
cực các hoạt động của Mô hình tại các điểm, các điểm cần triển khai lồng ghép các hoạt
động của Mô hình đặc biệt là nội dung tư vấn, truyền thông giáo dục với các hoạt động


truyền thông của các sự kiện khác nhằm tăng cường kiến thức và kỹ năng của vị thành
niên, thanh niên và cặp nam-nữ chuẩn bị kết hôn...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã phản ánh được thực trạng mức độ nhận
thức của vị thành niên, thanh niên về những vấn đề cốt lõi của sức khỏe sinh sản, các biện
pháp nâng cao nhận thức về các vấn đề của sức khỏe sinh sản như tình dục an toàn, các
biện pháp tránh thai, các bệnh lây qua đường tình dục...
Với đề tài “ Nhận thức của sinh viên trường Đại học Quy Nhơn về sức khỏe sinh
sản” chúng tôi mong muốn qua việc nghiên cứu nắm bắt được thực trạng nhận thức về
sức khỏe sinh sản của sinh viên. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận
thức cho sinh viên về vấn đề này.
1.2 Cơ sở lý luận
1.2.1 Nhận thức
1.2.1.1 Khái niệm

Theo quan điểm triết học: “ Nhận thức là quá trình tái tạo lại hiện thực khách quan

trong tư duy con người, nó được quy định bởi các quy luật phát triển của xã hội và gắn
liền cũng như không thể tách rời thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, hướng tới
chân lý khách quan”.
Theo từ điển Giáo dục học: “ Nhận thức là quá trình hay là kết quả phản ánh và tái
tạo lại hiện thực vào tư duy con người”.
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam": “Nhận thức là quá trình biện chứng của sự
phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không
ngừng tiến đến gần khách thể”.
Theo Từ điển Tâm lý học: “ Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong
ý thức của con người. Nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, chúng
có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở, mục đích và tiêu chuẩn của nhận thức, là
thực tiễn xã hội”.


Theo Nicky Hayes: “Nhận thức là tất cả cách hiểu thông tin tiếp nhận qua các giác
quan của cơ thể”.
Theo Robert.S. Feldman: “Nhận thức là quá trình tinh thần bậc cao qua đó chúng
ta hiểu thế giới, xử lý thông tin, phán đoán, quyết định và chia sẻ hiểu biết với người
khác”.
Theo Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uẩn, Hoàng Thị Thu Hiền: “Nhận thức là
quá trình phản ánh hiện thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con
người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình”.
Tổng hợp những khái niệm trên, nhóm chúng tôi đưa ra khái niệm về nhận thức
như sau: “Nhận thức là quá trình phản ánh sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan
vào bộ não con người”.
1.2.1.2 Phân loại

Nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, là mức độ nhận thức thấp nhất của con
người. Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bề ngoài sự vật, hiện

tượng khi chúng đang trực tiếp tác động tới chúng ta. Trong nhận thức cảm tính có 2 mức
độ: cảm giác và tri giác. Nhận thức cảm tính có được nhờ sự hoạt động của các giác quan
nhận biết của con người, như thính giác, thị giác, xúc giác. Nó được tiến hành thông qua
ba hình thức nhận biết quan trọng là cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là hình thức
đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan và là nguồn gốc của tri thức. Theo Lênin,
cảm giác tư tưởng, ý thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo một cách
thức đặc biệt.
Cảm giác là một liên hệ trực tiếp của ý thức với thế giới bên ngoài, là sự biến thể,
chuyển hoá của năng lượng tác động bên ngoài thành yếu tố của ý thức, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Tri giác nảy sinh trên cơ sở phối hợp, bổ sung lẫn nhau của
nhiều cảm giác, đưa lại cho chủ thể nhận thức sự hiểu biết tương đối đầy đủ hơn về đối


tượng phản ánh. Biểu tượng là hình ảnh của đối tượng nhận thức với những thuộc tính,
mối liên hệ nổi bật của nó được lưu giữ và tái hiện lại trong đầu óc chủ thể. Biểu tượng
thể hiện năng lực ghi nhận, lưu giữ, tái hiện thông tin của bộ óc con người. Chính những
thông tin này là những dữ liệu căn cứ làm tiền đề cơ bản cho việc hình thành các khái
niệm, phạm trù.
Nhận thức cảm tính cung cấp những hiểu biết ban đầu về đối tượng nhận thức,
nhưng những hiểu biết đó mới chỉ dừng lại ở những nét bề ngoài của đối tượng. Từ
những tri thức trực quan, cảm tính bề ngoài đó, người ta chưa thể phân biệt hoặc xác định
được cái bản chất và không bản chất, cái tất nhiên và ngẫu nhiên, tính phổ biến và cá biệt.
Hơn nữa, nhận thức cảm tính luôn có giới hạn nhất định, vì sự hoạt động của các giác
quan nhận biết không thể lan rộng ra ngoài ngưỡng của cảm giác. Trên thực tế, con người
không thể nhìn thấy mọi không gian, màu sắc, nghe được mọi âm thanh, ngửi và nếm
được tất cả mùi vị hay tiếp xúc được với những khối lượng cực lớn, cực nhỏ. Trong khi
đó, nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bắt bản chất của đối tượng trong tính tất yếu và
tính quy luật của nó. Để làm được như vậy, nhận thức phải chuyển lên một giai đoạn,
trình độ cao hơn - nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính là mức độ cao hơn của nhận thức cảm tính. Đặc điểm nổi bật

của nhận thức lý tính là phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối liên hệ bản chất
của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Nhận thức lý
tính bao gồm tư duy và tưởng tượng.
Nhận thức lý tính có được nhờ sự hoạt động của tư duy trừu tượng, nó được tiến
hành qua ba hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và
thuộc tính bản chất, phổ biến của một lớp các sự vật hiện tượng nào đó. Nó là dữ liệu cơ
bản tạo thành nội dung của ý thức, tư duy con người, đồng thời, là những viên gạch xây
dựng nên lâu đài của tri thức khoa học nhân loại. Phán đoán là sự liên kết các khái niệm
tạo thành một mệnh đề có cấu trúc ngôn ngữ chặt chẽ nhằm khẳng định hay phủ định một


thuộc tính, mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Suy luận phản ánh quá trình vận
động của tư duy đi từ những cái đã biết đến việc nhận thức những cái chưa biết một cách
gián tiếp, dựa trên cơ sở sử dụng những tri thức đã có.
Nhiệm vụ của nhận thức lý tính là cải biến những tri thức cảm tính và kết quả là
sáng tạo nên các khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý... Tất cả chúng là những trừu
tượng khoa học phản ánh các mặt, các mối liên hệ bản chất, tất yếu của thế giới hiện
thực. Nói cách khác, nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) mang lại cho chủ thể nhận
thức những hình ảnh về bản chất của đối tượng nhận thức, thể hiện qua các khái niệm,
phạm trù, quy luật...
1.2.1.3 Quá trình hình thành nhận thức.

Nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt
động, con người nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản
thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ rõ thái độ và hành động đối với thế giới xung
quanh và đối với chính bản thân mình. Có thế nói rằng, nhờ có nhận thức mà con người
làm chủ được tự nhiên, làm chủ được xã hội, làm chủ được chính bản thân mình. Trong
việc nhận thức thế giới con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức khác nhau, từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mức độ thấp nhất là nhận thức cảm tính, bao gồm

cảm giác và tri giác. Trong đó, con người phản ánh những cái bên ngoài, những cái đang
trực tiếp tác động đến giác quan của mỗi người. Mức độ cao hơn là nhận thức lý tính, bao
gồm tư duy và tưởng tượng trong đó, con người phản ánh những cái bản chất bên trong,
những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính có mối quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau và chi phối lẫn
nhau.
V.L.Lenin đã tổng kết quy luật chung nhất của hoạt động nhận thức như sau: “ Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Sự
thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.


Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn
thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại,
nhận thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát đem
lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận
thức, dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần kinh cao cấp. Giữa chúng có sự tác động
qua lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác
động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn. Quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận thức cảm tính) và
chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò của nhận thức lý tính).
Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn: Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra,
khẳng định chân lý hay là sai lầm. Ngoài ra, mục đích của nhận thức là để định hướng
cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một
chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu trình nhận thức
tiếp theo lại bắt đầu và cứ như thế mãi mãi.
1.2.2 Sức khỏe sinh sản
1.2.2.1 Khái niệm

Theo tổ chức WHO: “Sức khỏe sinh sản là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh
thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới bộ máy sinh sản chứ không phải là không
có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó”.
Tương tự như vậy, sức khoẻ sinh sản là trạng thái khoẻ mạnh, hoàn hảo về thể
chất, tinh thần và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống sinh sản, chức
năng sinh sản và quá trình sinh sản chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hay tổn
thương ở bộ máy sinh sản. Sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó có cả
khía cạnh liên quan đến sức khoẻ tình dục. Hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá


trình sinh sản của con người được hình thành, phát triển, và tồn tại trong suốt cuộc đời.
Sức khoẻ sinh sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với cả nam giới và nữ giới. Quá trình
sinh sản và tình dục là một quá trình tương tác giữa hai cá thể, nó bao hàm sự tự nguyện,
tinh thần trách nhiệm và sự bình đẳng.
1.2.2.2 Nội dung cơ bản của sức khỏe sinh sản.
Sức khỏe sinh sản là sự thể hiện các trạng thái về thể chất, tinh thần và xã hội liên
quan đến hoạt động và chức năng sinh sản của mỗi người. Theo quan niệm này, sức khỏe
sinh sản có nội dung rộng lớn. Sau Hội nghị Dân số và phát triển tại Cairo – Ai Cập
(1994), trong chương trình hành động sau hội nghị Quỹ dân số Liên hiệp quốc (UNFPA)
đã mô tả sức khỏe sinh sản gồm các nội dung sau:
- Kế hoạch hóa gia đình: Tư vấn, giáo dục, truyền thông và cung cấp dịch vụ kế hoạch
hóa gia đình an toàn, hiệu quả và chấp nhận tự do lựa chọn của khách hàng, kể cả nam
giới.
- Sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn: Giáo dục sức khỏe và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và
trẻ sơ sinh bao gồm cả chăm sóc trong lúc có thai, khi đẻ và sau khi đẻ.
- Phòng tránh phá thai và phá thai an toàn thông qua các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình
mở rộng và có chất lượng. Chú trọng sức khỏe sinh sản vị thành niên ngay từ lúc bước
vào tuổi hoạt động tình dục và sinh sản.
- Phòng ngừa và điều trị bệnh viêm nhiễm đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua
đường tình dục, HIV/AIDS.

- Tình dục: thông tin, giáo dục và tư vấn về tình dục, sức khỏe sinh sản, huy động nam
giới có trách nhiệm trong mỗi hành vi tình dục và sinh sản..
- Tư vấn và điều trị vô sinh.


Đến tháng 5 năm 2004, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thông qua Chiến lược toàn
cầu về sức khỏe sinh sản để đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đó xác định 5
khía cạnh ưu tiên của sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, gồm:
- Cải thiện việc chăm sóc tiền sản, chăm sóc sinh nở, chăm sóc hậu sản và chăm sóc trẻ
sơ sinh;
- Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ chất lượng cao bao gồm cả dịch vụ triệt sản;
- Loại bỏ việc phá thai không an toàn;
- Chống lại các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, trong đó có HIV, các
bệnh nhiễm trùng đường sinh sản, ung thư cổ tử cung và các bệnh phụ khoa khác;
- Thúc đẩy sức khoẻ tình dục ngày một tốt hơn.
[Dẫn theo Giáo trình chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, tài liệu đào
tạo sơ cấp Dân số y tế (2011), Hà Nội]
Nhưng mỗi khu vực, quốc gia lại có những vấn đề ưu tiên cho riêng mình. Thực tế
ở Việt Nam khi đề cập đến nội dung của sức khỏe sinh sản theo Chuẩn quốc gia về Chăm
sóc SKSS, Bộ Y tế nội dung chủ yếu của SKSS gồm các vấn đề sau:
-

Chăm sóc phụ nữ khi mang thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ trong khi sinh và sau khi sinh.
Kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp tránh thai.
Nạo hút thai an toàn và giảm tác hại của việc nạo hút thai.
Phòng tránh các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh LTQĐTD, nhiễm HIV/AIDS.
Chăm sóc SKSS vị thành niên
Có thể nói: nội dung cơ bản của SKSS gây tác động tới vấn đề sức khỏe – cụ thể là

các vấn đề sức khỏe có liên quan đến hệ sinh sản hoặc là các vấn đề sức khỏe có liên

quan tới giống nòi. Ở Việt Nam, vấn đề SKSS đặt ra chủ yếu là tình trạng mang thai ở
tuổi thiếu niên, các bệnh LTQĐTD, sự phân biệt chống lại trẻ em gái và phụ nữ và bạo
lực đối với phụ nữ. Ở nhà trường phổ thông, nội dung SKSS phải tập trung vào việc giúp
học sinh hiểu biết và có những quyết định đúng đắn hơn đối với các vấn đề này. Trong


các công trình nghiên cứu về SKSS, các tác giả cũng thường đề cập đến các nội dung cốt
lõi của SKSS nêu trên như: thuật ngữ, khái niệm SKSS, vấn đề giới và giới tính, tình bạn,
tình yêu, hôn nhân, tình dục an toàn, mang thai, nạo phá thai, biện pháp tránh thai, bệnh
LTQĐTD và HIV/AIDS.
Như vậy, với những nội dung trên, khái niệm SKSS trước hết là một khái niệm
rộng không chỉ giới hạn ở sức khỏe người mẹ mà là sức khỏe người phụ nữ nói chung,
nhưng cũng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến quá trình sinh sản của nam nữ và
nhấn mạnh nhiều đến việc tự quyết định của phụ nữ với sinh đẻ. Vấn đề này hiện nay ở
nhiều loại đối tượng trong đó có cả SV và người lớn vẫn cho rằng SKSS là vấn đề chỉ
dành cho những người đã lập gia đình và có con. Họ đồng nhất vấn đề SKSS với việc
sinh đẻ của các sản phụ và thậm chí còn cho rằng việc cung cấp kiến thức về SKSS chẳng
khác nào “vạch đường cho hươu chạy”….
Khái niệm SKSS có ý nghĩa xã hội và rất nhân bản vì nó giúp nâng cao những yêu
cầu bảo vệ chức năng đặc thù của phụ nữ là mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Chức năng
đặc thù này xét về mặt đạo lý và giá trị được xem là chức năng xã hội vì nó quan tâm đến
cả hai giới mặc dù hiện nay vấn đề ưu tiên trong SKSS là dành ưu tiên cho phụ nữ nhưng
chính bản thân nam giới đôi khi cũng không được hưởng đầy đủ về SKSS như vấn đề vô
sinh ở nam giới, rối loạn chức năng tình dục của nam giới….mà hiện nay ở nước ta ít có
cơ sở y tế và thầy thuốc chuyên khoa chữa trị. Do vậy nói đến SKSS phải là “tình trạng
khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên quan đến hoạt động
và chức năng của bộ máy sinh sản” và cần phải chú ý việc chăm sóc SKKS đến cả hai
giới mặc dù có thể một giới nào đó được ưu tiên chăm sóc nhiều hơn.
Từ những nội dung trên, có thể nói rằng: “SKSS là bộ phận quan trọng và điển
hình của đời sống giới tính, gắn bó mật thiết với những yếu tố khác của đời sống giới

tính”. Theo các nội dung trên về SKSS, có thể được trình bày ở nhiều tài liệu khác nhau,
theo những cách viết khác nhau nhưng tất cả đều phác họa những vấn đề cơ bản về
SKSS.


Vấn đề quan trọng theo chúng tôi là cần xác định đúng nội dung cần thực hiện
đảm bảo phù hợp ở mức cao cho từng loại đối tượng, xem xét các vấn đề ưu tiên khi giới
thiệu, giảng dạy, giáo dục, tư vấn, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng thanh thiếu niên
trong đó có SV.
1.2.3 Nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên
1.2.3.1 Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi sinh viên :
Những đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên bị chi phối bởi những đặc điểm
về thể chất, môi trường, vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và hoạt động. Đây là
một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia vào cuộc sống tinh
thần của xã hội. Lứa tuổi này có đặc điểm tâm lý rất phong phú và đa dạng. Dưới đây là
một số đặc điểm cơ bản về sự phát triển tâm lý lứa tuổi thanh niên sinh viên:
-

Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới
Bước chân vào trường đại học, một cuộc sống học tập và xã hội mới ngày càng

mở rộng ra trước mắt sinh viên. Trong môi trường mới này, để hoạt động học tập có kết
quả đòi hỏi các em phải có sự thích nghi với các hoạt động diễn ra trong trường đại học.
Quá trình thích nghi này chủ yếu tập trung ở các mặt:
+ Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.
+ Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học.
+ Môi trường sinh hoạt mở rộng.
+ Nội dung và cách thức giao tiếp phong phú và đa dạng.
Sinh viên cần có thời gian nhất định để thích ứng với tất cả những vấn đề trên. Sự
thích ứng này ở mỗi sinh viên không hoàn toàn như nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm tâm lý

cá nhân và môi trường sống cụ thể của các em quy định. Có những sinh viên dễ dàng và
nhanh chóng hoà nhập với môi trường xã hội mới, nhưng lại gặp khó khăn trong việc


thích ứng với phương pháp và cách thức học mới. Có người cảm thấy ít khó khăn trong
việc tiếp thu tri thức, dễ vượt qua cách học chuyên sâu ở đại học nhưng lại lúng túng,
thiếu tự tin trong việc hoà nhập với bạn bè và các nhóm hoạt động trong lớp, trong
trường. Một số sinh viên hoà đồng, cỏi mở còn một số khác lại thận trọng, khép kín.Việc
giải quyết các mâu thuẫn trên một cách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của thanh niên sinh viên.
-

Sự phát triển hoạt động nhận thức của sinh viên
Một trong những quá trình tâm lý cao cấp diễn ra trong hoạt động học tập của sinh

viên và nói lên đặc trưng căng thẳng, mạnh mẽ của hoạt động trí óc là quá trình nhận
thức. Trong hoạt động học tập của sinh viên các quá trình nhận thức luôn diễn ra từ mức
độ đơn giản đến phức tạp. Điều này thể hiện sự phát triển, tính có chọn lọc cao và độc lập
sáng tạo trong nhận thức của các em.
Hoạt động nhận thức của sinh viên thực sự là loại hoạt động trí tuệ đích thực,
cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Hoạt động trí tuệ này lấy những sự kiện của quá
trình nhận thức cảm tính làm cơ sở, song các thao tác trí tuệ đã phát triển ở trình độ cao
và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế, uyển chuyển và linh hoạt theo từng tình
huống có vấn đề. Do vậy, đa số sinh viên lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề mà
giáo viên trình bày. Trong quá trình tiến hành hoạt động học tập, tính chất chọn lọc của
tri giác ở sinh viên rất cao. Sinh viên thường tri giác những tài liệu học tập liên quan tới
hứng thú nhận thức và có ích cho hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh đó, các quá trình trí
nhớ thường diễn ra trong suốt quá trình học tập của sinh viên. Nhờ có trí nhớ, sinh viên
tích luỹ được tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp tương lai.
Quá trình tư duy diễn ra rất căng thẳng trong suốt quá trình học tập của sinh viên.

Tư duy ở sinh viên gắn liền với các phẩm chất nhân cách độc lập. Quá trình tư duy của
sinh viên khác về chất so với các lứa tuổi trước. Các em biết tự đặt ra vấn đề, tự tìm cách
giải quyết vấn đề theo nhiều phương hướng khác nhau, có ý chí theo đuổi mục đích đến
cùng và có khả năng tự đánh giá kết quả tìm được. Phẩm chất tư duy sáng tạo cũng được


bộc lộ trong hoạt động học tập của sinh viên. Các em biết vượt ra khỏi giới hạn những tài
liệu cơ bản, tìm thấy mối liên hệ mới giữa các đối tượng. Sinh viên biết huy động hợp lý,
rộng rãi các tri thức và kinh nghiệm để giải quyết vấn đề.
Những đặc điểm nêu cho thấy sự phát triển về chất trong hoạt động nhận thức của
sinh viên. Điều này góp phần quan trọng trong việc lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp tương lai và giúp sinh viên thích ứng với môi trường xã hội mới đang rộng
mở trước mắt.
-

Sự phát triển động cơ học tập của sinh viên
Động cơ học tập là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ học tập bị chi

phối bởi nhiều yếu tố khác nhau. Có thể đó là những yếu tố tâm lý của chính bản thân
mình như hứng thú, lý tưởng, niềm tin … hay là những yếu tố nằm bên ngoài bản thân
chủ thể như nội dung, phương pháp dạy học, bạn bè …
Lĩnh vực động cơ học tập của sinh viên đại học rất phong phú, đa dạng và thường
bộc lộ rõ tính hệ thống. Trong đó, việc học tập của họ không chỉ bị chi phối bởi một động
cơ mà thường là một số động cơ nào đó. Dựa vào mục đích học tập, người ta chia động
cơ học tập của sinh viên thành 5 loại: động cơ xã hội, động cơ nhận thức khoa học, động
cơ nghề nghiệp, động cơ tự khẳng định mình và động cơ vụ lợi. Ngoài ra còn có những
động cơ mang tính chất đồng nhất xã hội do ảnh hưởng trực tiếp của bố mẹ, thầy cô hay
bạn bè.
-


Sự phát triển tình cảm của sinh viên:
Sự phát triển của sinh viên được đặc trưng bằng “ thời kỳ bão tạp và căng thẳng” .

Đây là thời kì đầy xúc cảm đối với cá nhân. Có nhiều tình huống mới nảy sinh trong cuộc
sống của họ, đòi hỏi họ phải phán đoán và quyết định những còn thiếu kinh nghiệm và
hiểu biết xã hội. Vì vậy, việc nảy sinh những tình cảm không thích hợp khi phải ứng xử
trước tình huống đó.


Tình bạn cùng giới, khác giới ở tuổi sinh viên tiếp tục phát triển theo chiều sâu.
Một mặt các bạn vẫn giữ mối quan hệ bạn bè phổ thông trung học nhưng mặt khác tiếp
tục có thêm những tình bạn mới nhưng không kém phần bền vững, sâu sắc. Điều đó đã
làm phong phú thêm tâm hồn, nhân cách của sinh viên rất nhiều. Tình yêu ở tuổi sinh
viên đạt đến hình thái chuẩn mực cùng những biểu hiện phong phú, đặc sắc. Nhìn chung,
tình yêu đôi lứa ở tuổi sinh viên rất đẹp, lãng mạn, đầy chất thơ... Nhưng trong lĩnh vực
này, sinh viên gặp phải những mâu thuẫn nội tại, đôi khi họ gặp phải không ít những khó
khăn khi giải quyết, đôi khi bế tắc, bi kịch. Do vậy, đa số sinh viên chọn con đường học
tập, học nghề, tu dưỡng trong thời gian học hơn là chọn con đường tình yêu quá sớm và
điều đó giúp họ càng vững vàng, chín chắn hơn trong cuộc sống.
-

Sự phát triển của tự ý thức của sinh viên:
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của

sinh viên. Nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi sinh viên. Quá
trình này phong phú và phức tạp.
Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi sinh viên là một quá trình lâu dài, trải qua nhiêu
mức độ khác. Ở tuổi thanh niên, quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và
có nhiều đặc thù riêng: sinh viên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc thù riêng:
Sinh viên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo quan

điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của mình. Đặc điểm quan trọng của tự ý thức
của sinh viên là sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động địa vị mới mẻ trong tập thể, những quan điểm mới về thế giới xung quanh buộc sinh viên
phải ý thức của những đặc điểm nhân cách của mình. Nội dung của tự ý thức cũng khá
phức tạp, không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tạo mà còn nhận thức về vị
trí của mình trong xã hội và trong tương lai.
1.2.3.2 Nhận thức về sức khỏe sinh sản của sinh viên.


×