Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đánh giá hiệu quả công tác giao đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện hương sơn, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.07 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Tài nguyên đất & Môi trường nông nghiệp

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

Các giải pháp phát triển nhà ở trên địa bàn thành phố huế đến năm
2020

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Mạnh Cường

Lớp

: QLTTBĐS 45

Thời gian thực tập

:Từ 05/01/2015 – 08/05/2015

Địa điểm thực tập

:Sở Xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế

Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Trọng Tấn
Bộ môn


: Quy hoạch và kinh tế đất

NĂM 2015


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất...........................................................................................36
Bảng 4.2. Cơ cấu sử dụng đất của huyện Hương Sơn..........................................................38
Bảng 4.4. Kết quả giao đất lâm nghiệp của huyện Hương Sơn đến tháng 12/2014............41
Bảng 4.5. Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp của huyện năm 2014....................................43
Bảng 4.6. Hiện trạng sử dụng đất của 3 xã nghiên cứu năm 2014......................................45
Bảng 4.7. Cơ cấu đất lâm nghiệp của 3 xã điều tra...............................................................46
Bảng 4.8. Kết quả giao đất lâm nghiệp cho cá nhân hộ gia đình tính đến 12/2014 của 3 xã
nghiên cứu...............................................................................................................................47
Bảng 4.9. Kết quả giao đất lâm nghiệp của 3 xã qua các năm..............................................48
Bảng 4.10. Số liệu điều tra nông hộ về hiệu quả kinh tế của công tác giao đất lâm nghiệp
..................................................................................................................................................49
Bảng 4.11. Số liệu điều tra về hiệu quả xã hội của công tác giao đất lâm nghiệp...............50
Bảng 4.12. Tổng hợp ý kiến của người dân sau khi được giao đất lâm nghiệp...................54


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ cơ cấu đất lâm nghiệp của Việt Nam năm 2012.............23
Sơ đồ: Vị trí huyện Hương Sơn..........................................................................26


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Kí tự viết tắt

Giải thích

1

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

2

CN - TTCN

Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Đất đai tham gia vào hoạt động
của đời sống kinh tế xã hội, nó là nguồn vốn, nguồn lực quan trọng của đất
nước, không những vậy đất còn mang những đặc tính vốn có như cố định về vị
trí, giới hạn về không gian, vô hạn về thời gian sử dụng đất. Vì vậy, đất đai là tài
nguyên luôn được chú trọng.
Nếu sử dụng đất một cách đúng đắn và quản lý tốt thì sẽ đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của chúng ta, ngược lại nếu quản lý yếu kém thì rừng sẽ nhanh chóng

xuống cấp cả về số lượng lẫn chất lượng. Vì thế, việc bảo vệ và sử dụng bền
vững đất lâm nghiệp giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Xác định được tầm
quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn, phù hợp
trong công tác quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên đất. Giao đất lâm nghiệp
cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất
lâm nghiệp theo quy hoạch và kế hoạch là một chủ chương chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước từ nhiều năm nay nhằm gắn lao động với đất đai, tạo động
lực phát triển sản xuất lâm nghiệp từng bước ổn định và phát triển tình hình kinh
tế xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng.
Hương Sơn là huyện miền núi nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tĩnh, có
tổng diện tích tự nhiên là 110.414,78 ha. Trong đó đất lâm nghiệp là 84,417ha
chiếm 76,5% diện tích đất của toàn huyện. Nền kinh tế của huyện còn gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình sử dụng ổn định,
lâu dài có vai trò rất to lớn trongviệc phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Xuất
phát từ những vấn đề trên, được sự đồng ý của khoa và sự phân công của nhà
trường cùng sự giúp đỡ của cô giáo Th.S Nguyễn Thị Lan Hương, em tiến hành
thực hiện đề tài “Đánh giá hiệu quả công tác giao đất lâm nghiệp trên địa bàn
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Tìm hiểu công tác giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân trên
địa bàn huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

1


- Xác định những thuận lợi và khó khăn trong công tác giao đất lâm nghiệp.
- Đánh giá ảnh hưởng của công tác giao đất lâm nghiệp đến hiệu quả sử
dụng đất trên địa bàn huyện.
- Đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giao

đất góp phần cho việc quản lý sử dụng quỹ đất này được hoàn thiện hơn.
1.2.2 Yêu cầu
- Nắm vững điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Hương Sơn,
những thuận lợi và khó khăn của huyện.
- Nắm được quỹ đất và hiện trạng sử dụng đất đặc biệt là quỹ đất lâm
nghiệp được giao cho các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện.
- Thu thập các tài liệu, số liệu đầy đủ, đảm bảo độ tin cậy cao.
- Xây dựng được số liệu báo cáo một cách chính xác và hiệu quả.
- Nắm được các văn bản, chính sách, nghị định, quyết định, công văn có
liên quan đến công tác giao đất.
- Kết quả nghiên cứu phải phản ánh một cách trung thực, khách quan và
đầy đủ về chính sách giao đất của huyện.
- Các giải pháp đề xuất phải phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao.

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm đất đai, tính chất và đặc điểm của đất đai
2.1.1.1. Khái niệm đất đai
Theo Đôcutraiep thì: “Đất là vật thể tự nhiên được hình thành do tác động
tổng hợp của năm yếu tố: sinh vật, khí hậu, đá mẹ, địa hình và thời gian, đối với
trồng trọt thì có thêm yếu tố con người.”
Đất là lớp ngoài cùng của vỏ trái đất, có khả năng cho sản phẩm cây trồng để
nuôi sống con người, mọi hoạt động của con người gắn liền với lớp bề mặt đó theo
thời gian và không gian nhất định.
Đất lâm nghiệp: là đất đang có rừng tự nhiên hoặc đang có rừng trồng đạt tiêu
chuẩn rừng, đất khoanh nuôi phục hồi rừng (đất đã có rừng bị chặt phá, khai thác,

hoả hoạn nay được đầu tư phục hồi rừng), đất để trồng mới (đất có cây rừng mới
chưa đạt tiêu chuẩn rừng hoặc đất đã được giao để trồng mới rừng) bao gồm đất
rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
+ Đất rừng sản xuất: là đất được sử dụng vào mục đích lâm nghiệp theo quy
định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, bao gồm đất có rừng tự nhiên sản
xuất, đất khoanh nuôi phục hồi rừng sản xuất, đất rừng trồng sản xuất.
+ Đất rừng phòng hộ: là đất để sử dụng vào mục đích phòng hộ đầu nguồn,
bảo vệ đất, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường sinh thái, chắn gió, chắn cát,
chắn song ven biển theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, bao
gồm đất có rừng tự nhiên phòng hộ, đất có rừng trồng phòng hộ, đất khoanh nuôi
phục hổi rừng trồng phòng hộ, đất trồng rừng phòng hộ.
+ Đất rừng đặc dụng: là đất được sử dụng vào mục đích nghiên cứu, thí
nghiệm khoa học, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, vườn quốc gia, bảo vệ
di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh, bảo vệ môi trường sinh thái theo quy
định của pháp luật về bảo vệ và phát triên rừng, bao gồm đất rừng tự nhiên đặc
dụng, đất có rừng trồng đặc dụng, đất khoanh nuôi phục hồi rừng trồng đặc dụng,
đất trồng rừng đặc dụng.
2.1.1.2 Đặc điểm về đất đai
- Diện tích đất đai có hạn. sự giới hạn đó do toàn bộ diện tích bề mặt trái đất
cũng như diện tích đất đai của mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ bị giới hạn. Sự giới hạn

3


đó còn thể hiện ở chỗ nhu cầu sử dụng đất đai của các ngành kinh tế quốc dân trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng. Do diện tích đất đai có giới hạn
nên người ta không thể tuỳ ý thay đổi được diện tích. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu
quản lý đất đai phải chặt chẽ, quản lý về số lượng, chất lượng đất, cơ cấu đất đai
theo mục đích sử dụng cũng như cơ cấu sử dụng đất đai theo các thành phần kinh
tế... và xu hướng biến động của chúng để có kế hoạch phân bổ và sử dụng đất đai

có cơ sở khoa học. Đối với nước ta mà nói, diện tích đất bình quân trên đầu người
vào loại thấp so với các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, ở Việt Nam vấn đề quản lý và
sử dụng đất đai tiết kiệm, hiệu quả và bền vững lại càng đặc biệt quan trọng, quyết
định tới sự phát triển của cả đất nước.
- Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng không thể thiếu của môi trường sống và là địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai
được sử dụng cho các ngành, lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Việc mở rộng
các khu công nghiệp, các khu chế xuất, các đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát
triển các loại hình nông nghiệp,… đều phải sử dụng đất đai. Để đảm bảo cân đối
trong việc phân bổ đất đai cho các ngành, các lĩnh vực, tránh sự chồng chéo và lãng
phí, cần coi trọng công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai và cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử
dụng đất đai.
Đất đai có vị trí cố định, tính chất cơ học, sinh học, hoá học và vật lý trong đất
cũng không đồng nhất. Đất đai được phân bố trên diện rộng và cố định ở từng nơi
cụ thể. Do vị trí cố định và gắn liền với các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, khí
hậu, cây trồng,…) và các điều kiện khác như kinh tế, kết cấu hạ tầng, công nghiệp
trên các vùng và các khu vực nên đặc điểm và tính chất đất mang những nét riêng
biệt. Vì vậy, việc sử dụng đất đai vào mỗi ngành kinh tế cần phải nghiên cứu kĩ
lưỡng tính chất của đất cho phù hợp. Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng đất
đai phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế và chất lượng đất của từng vùng để
mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững. Để đẩy mạnh việc sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp, nhà nước đã đưa ra những chính sách đầu tư, thuế, … cho phù
hợp với điều kiện đất đai của từng vùng trong cả nước.
- Trong nông nghiệp, nếu sử dụng đất đai một cách hợp lý thì sức sản xuất của
nó tăng lên đáng kể. Sức sản xuất của đất đai tăng lên kéo theo sự phát triển của lực
lượng sản xuất, sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, với việc thực hiện phương thức canh
tác hợp lý. Sức sản xuất của đất đai thể hiện tập trung qua độ phì của đất. vì vậy
cần phải sử dụng các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng đất cũng như độ

phì nhiêu để đạt hiệu quả cao và tiết kiệm trong sử dụng đất.
4


2.1.2 Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với
đất đai; đó là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất; phân phối và phân
phối lại quỹ đất theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám sát quá trình quản lý và
sử đụng đất; điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
2.1.3. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về đất đai
Được thể hiện qua các văn bản chính sách liên quan như:
- Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
- Luật đất đai 2003
2.1.4. Đối tượng, mục đích, yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai
2.1.4.1. Đối tượng của quản lý nhà nước về đất đai
Tại điều 13 của Luật đất đai năm 2003, căn cứ vào mục đích sử dụng, đất
đai được phân thành 3 loại:
- Đất nông nghiệp.
- Đất phi nông nghiệp.
- Đất chưa sử dụng.
2.1.4.2. Mục đích quản lý nhà nước về đất đai
- Bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người sử dụng.
- Bảo đảm sử dụng hợp pháp vốn đất nhà nước.
- Tăng cường hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
- Bảo vệ đất, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sống.
2.1.4.3. Yêu cầu của công tác quản lý đất đai là
Yêu cầu quản lý Nhà nước về đất đai là phải đăng kí thống kê đất để Nhà
nước nắm chắc được toàn bộ diện tích, chất lượng đất đai ở mỗi đơn vị hành

chính từ cơ sở đến trung ương.
2.1.4.4. Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai
- Đảm bảo toàn bộ vốn đất đai hiện có của quốc gia, không được quản lý riêng
từng vùng.

5


- Nội dung tài liệu quản lý không phụ thuộc vào mục đích sử dụng.
- Số liệu phải đảm bảo cả số lượng và chất lượng, loại, hạng phục vụ cho
mục đích sử dụng của loại đó.
- Phải thể hiện theo hệ thống và phương pháp thống nhất trong toàn quốc. Những
quy định, biểu mẫu phải được thống nhất trong cả nước, trong ngành địa chính.
- Tài liệu trong quản lý đất phải đơn giản phổ thong trong cả nước, đảm
bảo tính pháp luật, phải đầy đủ đứng thực tế.
- Phản ánh được những điều kiện riêng biệt của từng địa phương. Những
điều kiện riêng lẻ phải được tổng hợp ở phần phụ lục để nhà nước đầu tư cái
chung và cái riêng mỗi vùng.
- Quản lý đất phải khách quan, chính xác, đúng kết quả và số liệu từ thực tế.
- Quản lý Nhà nước về đất đai phải trên cơ sở pháp luật, luật đất đai và các
văn bản, biểu mẫu quy định, hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chuyên
môn từ Trung ương đến cơ sở.
- Phải tiết kiệm mang lại hiệu quả kinh tế cao [9].
2.1.5. Phương pháp quản lý đất đai
Phương pháp quản lý Nhà nước về đất đai là tổng thể những cách thức
tác động có chỉ định của nhà nước lên hệ thống đất đai và chủ sử dụng đất nhằm
đạt được mục tiêu đề ra trong những điều kiện cụ thể không gian và thời gian
nhất định. Các phương pháp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước
về đất đai nói riêng có vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý. Nó thể hiện
cụ thể mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với đối tượng và khách thể quản lý.

Mối quan hệ giữa Nhà nước với các đối tượng và khách thể quản lý rất đa dạng
và phức tạp. Vì vậy các phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi tuỳ theo
tình huống cụ thể nhất định, tuỳ theo vào đất đai của từng đối tượng. Các
phương pháp quản lý Nhà nước về đất đai được hình thành từ các quản lý Nhà
nước nói chung. Bao gồm các phương pháp chủ yếu sau:
- Các phương pháp thu thập thông tin về đất đai: Phương pháp thống kê,
phương pháp toán học, phương pháp điều tra xã hội học.
- Các phương pháp tác động đến con người: Phương pháp hành chính,
phương pháp kinh tế, phương pháp tuyên truyền giáo dục [9].
2.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
Theo điều 22 Luật đất đai sửa đổi 2013 nội dung quản lý Nhà nước về đất
6


đai bao gồm những nội dung sau:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện các văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây
dựng giá đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất.
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Thống kê, kiểm kê đất đai.
- Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai và giá đất.

- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định
của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý
và sử dụng đất đai.
- Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.
2.1.7. Khái niệm giao đất
Theo khoản 1 điều 4 luật đất đai 2003 quy định: “Nhà nước giao đất là việc
Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có
nhu cầu sử dụng đất”.
- Mục đích của việc giao đất
+ Đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích có hiệu
quả. Giao đất là một nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, công nhận quyền sử
dụng đất của người được công nhận. Người sử dụng đất sử dụng đúng mục đích
7


ghi trong hồ sơ xin giao đất. Tính hợp pháp của quyền sử dụng đất tạo điều kiện
cho chủ sử dụng đất yên tâm đầu tư vốn, công sức nhằm khai thác tốt tiềm năng
đất đai, cải tạo bối bổ đất đai, phát triển sản xuất, thực sự coi đất đai như là tài
sản của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
+ Xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất, làm căn cứ
pháp lý để giải quyết mọi quan hệ đất đai đúng pháp luật.
+ Làm cơ sở để người sử dụng đất thực hiện các quyền: Chuyển đổi.
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn, bảo lãnh quyền sử dụng
đất theo đúng pháp luật phù hợp với sự vận động vốn có của quan hệ đất đai
trong thực tiễn cuộc sống [10].
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình chung về quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp của một số

nước trên thế giới
2.1.1.1. Chính sách đất đai của Trung Quốc
Trong những năm qua việc khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên rừng
ở Trung Quốc được điều chỉnh bởi hàng loạt các văn bản chính sách pháp luật
đất đai. Do vậy, quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp ở Trung Quốc đã phát triển
và đạt được những kết quả tốt.
Đã cải thiện được môi trường sinh thái và nâng cao sản xuất gỗ. Đất canh
tác được Nhà nước bảo hộ đặc biệt, khống chế nghiêm ngặt việc chuyển đổi mục
đích đất nông nghiệp sang đất khác. Mỗi hộ nông dân chỉ được dung một nơi
làm đất ở với diện tích giới hạn trong định mức quy định tại địa phương. Đất
thuộc sở hữu tập thể thì không được chuyển nhượng, cho thuê vào mục đích phi
nông nghiệp. Đối với đất lâm nghiệp trước những năm 1970, Chính phủ Trung
Quốc đã chỉ đạo nông dân trồng cây bằng biện pháp hành chính, nên hiệu quả
trồng rừng thấp, giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích của người dân chưa có sự phối
kết hợp. Bước sang giai đoạn cải cách nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã
quan tâm khuyến khích hỗ trợ nông dân kinh doanh lâm nghiệp. Trung Quốc
luôn coi trọng việc áp dụng luật pháp để phát triển lâm nghiệp, bảo vệ rừng và
làm cho lâm nghiệp hoạt động có hiệu quả. Hiến pháp Trung Quốc đã quy định
"Nhà nước phải tổ chức thuyết phục nhân dân trồng cây bảo vệ rừng". Kể từ
năm 1984 Luật Lâm nghiệp quy định “…xây dựng rừng, lấy phát triển rừng làm
cơ sở, phát triển mạnh mẽ việc trồng cây mở rộng phong trào bảo vệ rừng, kết
hợp khai thác rừng trồng...”. Từ đó ở Trung Quốc toàn xã hội tham gia công tác
lâm nghiệp, Chính phủ chỉ đạo cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo mỗi cấp
8


hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch của cấp mình, quá trình thực hiện chính sách này
nếu tốt sẽ được khen thưởng, ngược lại sẽ bị xử lý.
Giai đoạn từ năm 1979 - 1992 Trung Quốc đã ban hành 26 văn bản về
Pháp luật, Nghị định, Thông tư và Quy định liên quan đến công tác quản lý bảo

vệ tài nguyên rừng. Đầu năm 1980 Trung Quốc ban hành Nghị định về vấn đề
bảo vệ tài nguyên rừng, một trong những điểm nổi bật của Nghị định này là thực
hiện chủ trương giao cho chính quyền các cấp từ TW đến cấp tỉnh, huyện, tiến
hành cấp chứng nhận quyền chủ đất rừng cho tất cả các chủ rừng là những tập
thể và tư nhân. Luật Lâm nghiệp đã xác lập các quyền của người sử dụng đất
(chủ đất) quyền được hưởng hoa lợi trên đất mình trồng, quyền không được
phép xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp và lợi ích của chủ rừng, chủ đất rừng.
Nếu tập thể hay cá nhân hợp đồng trồng rừng trên đất đồi trọc của Nhà nước hay
của tập thể, cây đó thuộc về chủ cho hợp đồng và được xử lý theo hợp đồng.
Bên cạnh đó quá trình quy hoạch đất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi bảo vệ nguồn
nước, phát triển công nghiệp, dân số và giao thông nhằm sử dụng đất có hiệu
quả ở miền núi được Chính phủ Trung Quốc quan tâm. Trung Quốc từng bước
đưa sản xuất nông, lâm nghiệp vào hệ thống phát triển nông thôn để tăng trưởng
kinh tế, loại bỏ nghèo nàn. Bắt đầu từ năm 1987, Nhà nước đã thực hiện chương
trình giúp đỡ nhân dân thoát khỏi nghèo nàn trong những huyện nghèo, có thu
nhập bình quân đầu người dưới 200 nhân dân tệ. Các huyện nghèo ở miền núi là
đối tượng quan trọng thích hợp để phát triển lâm nghiệp. Trung Quốc đã thực
hiện chính sách phát triển trại rừng, kinh doanh đa dạng, sau khi thực hiện cấp
GCNQSDĐ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Từ đó các trại rừng kinh
doanh hình thành bước đầu đã có hiệu quả. Lúc đó ngành lâm nghiệp được coi
như công nghiệp có chu kỳ dài nên được Nhà nước đầu tư hỗ trợ các mặt như:
- Vốn, khoa học kỹ thuật, tư vấn xây dựng các loại rừng, hỗ trợ dự án
chống cát bay.
- Mỗi năm Chính phủ trích 10% kinh phí để đầu tư cho quá trình khai
khẩn đất phát triển nông, lâm nghiệp, hỗ trợ các hộ nông dân nghèo.
- Quy định trích 20% tiền bán sản phẩm lại để làm vốn phát triển nông,
lâm nghiệp [8].
2.1.1.2. Chính sách đất đai ở Thái Lan
Tại Thái Lan Luật ruộng đất được ban hành năm 1954 đã thúc đẩy mạnh
mẽ chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Luật ruộng đất đã công nhận toàn bộ

đất đai bao gồm đất khu dân cư đều có thể được mua, tậu lại từ cá thể. Các chủ
9


đất có quyền tự do chuyển nhượng, cầm cố một cách hợp pháp, từ đó Chính phủ
có được toàn bộ đất trồng (có khả năng trồng trọt được) và nhân dân đã trở
thành người làm công trên đất ấy. Bước sang năm 1974 Chính phủ Thái Lan ban
hành chính sách cho thuê đất lúa, quy định rõ việc bảo vệ người làm thuê, thành
lập các tổ chức người địa phương làm việc theo sự điều hành của trại thuê
mướn, Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Đối với đất
rừng, để đối phó với vấn đề suy thoái đất, xâm lấn rừng, bắt đầu từ năm 1979,
Thái Lan thực hiện chương trình giấy chứng nhận quyền hoa lợi, trong rừng dự
trữ Quốc gia. Theo chương này, mỗi mảnh đất được chia làm hai miền. Miền từ
phía dưới nguồn nước là miền đất có thể dùng để canh tác nông nghiệp, miền ở
phía trên nguồn nước thì lại hạn chế và giữ rừng, còn miền đất phù hợp cho canh
tác mà trước đây những người dân đã chiếm dụng (dưới 2,5 ha) thì được cấp cho
người dân một giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Đến năm 1976 đã có
600.126 hộ nông dân có đất được cấp giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi.
Cùng với chương trình này, đến năm 1975 Cục Lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan
đã thực hiện chương trình làng lâm nghiệp nhằm giải quyết cho những hộ gia
đình được ở trên đất rừng, quá trình thực hiện chương trình này đã thành lập
được 98 làng lâm nghiệp với 1 triệu hộ gia đình tham gia. Chương trình làng
lâm nghiệp được quy định một cách chặt chẽ, mỗi hộ gia đình trong làng được
cấp từ 2 - 4 ha đất và được hưởng quyền sử dụng, thừa kế, nhưng không được
bán, mua hay chuyển nhượng diện tích đất đó. Quá trình sản xuất của làng được
sự hỗ trợ của Nhà nước về điều kiện cơ sở hạ tầng, tiếp thị và đào tạo nghề. Đi
cùng với chương trình này là việc thành lập các hợp tác xã nông, lâm nghiệp
hoạt động dưới sự bảo trợ của ban chỉ đạo Hợp tác xã. Cục Lâm nghiệp Hoàng
gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài hạn cho các Hợp tác xã yêu cầu và thành lập
nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả đầu tư trên đất được giao đó. Thái Lan tiến

hành giao được trên 200.000 ha đất gắn liền với rừng cho cộng đồng dân cư
sống gần rừng, diện tích mỗi hộ gia đình được nhận trồng rừng từ 0,8 ha đến 8
ha [8].
2.1.1.2 Chính sách đất đai ở Inđônêxia
Nhà nước Inđônêxia quy định mỗi hộ nông dân ở gần rừng được nhận
khoán 2.500 m2 đất để trồng cây, hai năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu
trên diện tích đó và được quyền hưởng toàn bộ sản phẩm, không phải nộp thuế.
Quá trình sản xuất của nông dân được Công ty Lâm nghiệp hỗ trợ giống, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật dưới hình thức cho vay. Sau khi thu hoạch người
nông dân phải hoàn trả lại giống đã vay, còn phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
10


chỉ phải trả 70%, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó. Bên cạnh đó,
thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm Nhà nước còn tổ chức hướng
dẫn kỹ thuật, tập huấn làm nghề cho người dân, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng
tại nơi họ sinh sống. Từ đó, việc quản lý rừng và đất rừng ở Inđônêxia bước đầu
đã thu được những kết quả đáng kể [8].
2.2.2. Tình hình chung về quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp ở nước ta qua
các thời kỳ
2.2.1.1. Giai đoạn 1945 - 1954
Do hoàn cảnh còn kháng chiến nên cuộc cải cách ruộng đất chưa thể triển
khai rộng khắp; cho đến trước khi hòa bình lập lại (tháng7/1954) mới bắt đầu
đợt 1 cải cách ruộng đất trong các vùng tự do ở 53 xã thuộc các tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa... Thành quả bước đầu đã tác động tích cực đến
tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ ngoài mặt trận và đời sống nông dân ở
những nơi tiến hành cải cách ruộng đất được cải thiện một bước. Về cơ bản trên
toàn miền Bắc sau cải cách ruộng đất, chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân và
phong kiến đã chuyển thành chế độ sở hữu ruộng đất cá thể của nông dân [8]
2.2.1.2. Giai đoạn 1954 - 1975

Mặt khác, chính sách ruộng đất của Nhà nước ta từ khi bắt đầu hợp tác
hóa năm 1958 về sau, đã thể hiện nhất quán một chế độ công hữu bao gồm sở
hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Quyền sở hữu cá thể về ruộng đất dần bị thu
hẹpvà hầu như được xóa bỏ hoàn toàn, theo các thời kỳ hợp tác hóa - tập thể hóa
ngày càng cao, nhưng tất cả nằm trong quyền quản lý tối cao của Nhà nước.
Thực chất của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp là tập thể hóa các tư liệu sản
xuất chủ yếu của nông dân, hàng đầu là ruộng đất và sức lao động [8].
2.2.1.3. Giai đoạn 1976 - 1986
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, đảng đặc biệt
chú trọng xây dựng sự thống nhất về cơ cấu kinh tế - xã hội.
- Quyết định số 272/CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng Chính phủ "Về
chính sách đối với Hợp tác xã mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp,
xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư".
- Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/1/1981 của Ban chấp hành Trung ương
đảng "Về cải tiến công tác khoán mở rộng các công tác khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp".

11


- Quyết định số 184/HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng "Về
đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể nông dân trồng cây rừng".
- Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban chấp hành Trung ương
đảng "Về đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo
phương thức nông lâm kết hợp". Ngày 18/01/1984, Ban bí thư ban hành Chỉ thị
35 về khuyến khích phát triển kinh tế gia đình: “về đất, cho phép các hộ gia đình
nông dân tận dụng mọi nguồn lực đất đai mà Hợp tác xã, nông, lâm trường chưa
sử dụng hết để đưa vào sản xuất”. Đối với miền núi, Ban bí thư đã ban hành Chỉ
thị 29 ngày 21/11/1983 và Chỉ thị 56 ngày 29/01/1985 về giao đất, giao rừng
cho hộ nông dân và việc củng cố quan hệ sản xuất ở miền núi. Trung ương nhận

định: “do những hạn chế về cơ chế quản lý cũ, thế mạnh của miền núi không
được phát huy, tài nguyên đồi rừng ngày càng cạn kiệt, đời sống của nông dân
vẫn nghèo nàn và lạc hậu...” Trung ương chủ trương thực hiện việc giao đất,
giao rừng đến hộ nông dân, gắn quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích vật chất để
khuyến khích nông dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc; nông dân được
quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày... đối với
vùng núi cao không nhất thiết tổ chức Hợp tác xã mà phát triển kinh tế hộ gia
đình và thiết lập quan hệ Nhà nước - nông dân theo đơn vị bản, buôn [8].
2.2.1.4. Giai đoạn 1986 – 1994
- Ở Trung ương
Thời kì đổi mới của Việt Nam bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI ănm 1986, thay đổi hệ thống kế hoạch hóa tập trung thành kinh tế thị trường
nhiều thành phần do nhà nước lãnh đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ
đó, chính sách đổi mới dần được diều chỉnh. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình
đổi mới bắt đầu sơm hơn nhiều. Năm 1981, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
ra chỉ thị 100/CT-TW mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động mà
thực chất là khoán đến hộ gia đình sản xuất nông nghiệp. Tiếp theo chỉ thị
100/CT-TW, để tăng vai trò kinh tế của hộ gia đình nông dân, Bộ chính trị đã đề
ra nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp với nội dung cơ bản là
giải phóng triệt để sức sản xuất nhằm khai thác hợp lý tiềm năng lao động, đất
đai, lấy hộ gia đình làm kinh tế tự chủ. Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các
luật và các chính sách về lâm nghiệp:
Luật bảo vệ và phát triển rừng được ban hành năm 1991 đã đưa ra khuôn
khổ ban đầu về các chính sách liên quan đến các vấn đề giao đất lâm nghiệp cho
các đối tượng để sử dụng lâu dài vào mục đích phát triển lâm nghiệp.
12


Các quyết định, nghị định liên quan giao khoán đất cho tổ chức, hộ gia đình
cá nhân sử dụng vào mục đích nông, lâm nghiệp (Quyết định số 202 TTg năm

1994 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định 01/CP năm 1995 của chính phủ).
Cùng với chính sách gioa khoán đất rừng Nhà nước đã ban hành một số
chính sách nhằm khuyến khích sử dụng đất trồng rừng và bảo vệ rừng như
Quyết định số 264/CT ngầy 22/07/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ
trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi, bồi ven biển và mặt
nước, quyết định này sau đó trở thành chương trình 327 [1].
- Ở cấp địa phương
Trong giai đoạn từ năm 1986-1994 đã có chuyển biến mạnh mẽ và đạt kết
quả khả quan về công tác giao đất giao rừng. Chương trình 327 đã giành phần
lớn ngân sách cho việc giao đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình ở nhiều vùng
trong cả nước. Trong giai đoạn này có một số hướng dẫn cho công tác giao đất
lâm nghiệp như sau:
+ Mỗi hộ trong vùng dự án của chương trình sẽ được giao khoán một số
diện tích đất để trồng rừng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh rừng tùy theo quỹ đất
đai và khả năng từng hộ.
+ Ngoài diện tích đất đã được giao cho mục đích lâm nghiệp, mỗi hộ có thể
nhận được 500m2 đất để trồng cây lương thực ngắn ngày hoặc dài ngày hay chăn
thả gia súc.
+ Đối với đất được giao khoán để bảo vệ, Nhà nước trả công 30,000 –
50,000 đồng/ha/năm, đầu tư hỗ trợ trồng rừng năm là 1.2 triệu đồng/ha.
+ Nhà nước còn cho vay vốn không lãi để hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp dài
ngày, cây ăn quả, cây đặc sản, chăn nuôi đại gia súc, mỗi hộ được vay không
quá 1.5 triệu/hộ/năm, qua 4 năm thực hiện, đến cuối năm 1996 chương trình 327
đã đạt được những kết quả đáng kể. Giao khoán bảo vệ rừng đến hộ: 1.6 triệu ha
(466,768 hộ).
Trong thời gian này, khoảng 55% trên tổng số diện tích đất lâm nghiệp đã
được giao khoán cho các hộ gia đình hoặc các đơn vị kinh tế khác trong đó 40%
diện tích này thuộc về các hộ gia đình nghĩa là khoảng 22% trong tổng số diện
tích đất lâm nghiệp của các tỉnh trên đã được giao hoặc khoán cho các hộ, cso
khoảng 19% số hộ của các tỉnh đã nhận đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất (nhiều trường hợp có số lâm bạ) hoặc hợp đồng bảo vệ [1].

13


2.2.1.5. Giai đoạn từ 1993 - 2003
Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 14/7/1993.
đây là một bộ Luật quan trọng thể hiện chủ trương chính sách lớn của đảng và
Nhà nước ta về đất đai cụ thể hoá điều 17 và 18 Hiến pháp 1992 Nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật đất đai năm 1993 trong quá trình
thực hiện vẫn còn bộc lộ một số bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
của xã hội [4].
Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001 đề cập
nhiều vấn đề đổi mới khác như Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về
việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử
dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Những quy định về giao đất lâm nghiệp
- Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Những quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ
chức, hô gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
được thể hiện ở điều 18 Hiến pháp 1992, điều 1, điều 20 Luật đất đai năm 1993,
các điều 2, 28, 33, 36 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, Luật đất đai năm
1993 và Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001. Nghị định 02/CP ngày
15/01/1994, Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ và
một số văn bản dưới luật có liên quan khác, đã được thể hiện bằng các quy định
cụ thể về: Quỹ đất được giao, căn cứ quyết định giao, thời hạn giao và hạn mức
được giao.
- Đối tượng giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài
+ Các tổ chức như Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc
dụng, các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, các trạm trại, xí

nghiệp giống lâm nghiệp, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, trường
học, trường dạy nghề.
+ Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp mà
nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó, được
UBND xã nơi có đất lâm nghiệp xác nhận.
+ Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất theo Nghị định 02/CP
từ trước ngày 01/11/1999 thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn đã được
giao và được cấp GCNQSDĐ [6].

14


- Căn cứ để quyết định giao đất lâm nghiệp Căn cứ để quyết định giao đất
được quy định tại điều 19 Luật đất đai, điều 10 Luật bảo vệ rừng và phát triển
rừng và điều 4 của Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994, Nghị định 163/1999/NĐCP ngày 16/11/1999 của Chính phủ.
+ Giao đất lâm nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, khoanh định rõ các loại đất, quy hoạch đất lâm nghiệp xác định các loại
rừng trên từng địa bàn cụ thể.
+ Căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương.
+ Căn cứ vào nhu cầu, khả năng sử dụng đất lâm nghiệp của các tổ chức
được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay trong dự án quản lý xây dựng khu
rừng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, đơn xin giao đất lâm
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác nhận.
+ Căn cứ vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hàng năm của Nhà nước
(đối với trường hợp việc giao đất lâm nghiệp có gắn với thực hiện các dự án đầu
tư hỗ trợ bằng vốn của Nhà nước.
- Thời hạn giao đất lâm nghiệp sử dụng ổn định lâu dài
+ Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao được quy định theo quy hoạch
kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
+ Tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân là 50 năm, hết thời hạn quy định nếu

người sử dụng vẫn có nhu cầu và sử dụng đất đúng mục đích thì Nhà nước giao tiếp.
+ Kết quả của chính sách giao đất lâm nghiệp đã có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến việc sử dụng đất và đời sống kinh tế: Nhờ có chính sách giao đất lâm nghiệp
dẫn đến việc sử dụng đất hợp lý hơn và mức độ thâm canh cao hơn. Từng hộ đã
chủ động sản xuất và có hộ đã biết cách làm giàu thông qua việc chuyển đổi cơ
cấu cây trồng. Từ làm rẫy thuần tuý sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao
và phát triển chăn nuôi tạo ra những mô hình điển trong sản xuất nông nghiệp.
+ Chính sách giao đất lâm nghiệp cũng tác động đến xã hội và môi
trường: Việc giao đất đã làm cho mảnh đất có chủ thực sự, người dân có ý thức
hơn trong việc bảo vệ rừng được giao, có thêm thu nhập. Công tác khoanh nuôi,
+ Chính sách giao đất lâm nghiệp cũng tác động đến xã hội và môi trường: Việc
giao đất đã làm cho mảnh đất có chủ thực sự, người dân có ý thức hơn trong
việc bảo vệ rừng được giao, có thêm thu nhập. Công tác khoanh nuôi, bảo vệ
rừng và màu xanh rừng ngày càng nhiều hơn, giữ được rừng, bảo vệ nguồn

15


nước. Tình trạng di dân tự do được hạn chế đáng kể, người sử dụng đất đã có
quỹ đất để xây dựng kế hoạch luân canh cây trồng [7].
Những quy định về giao đất lâm nghiệp
Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp. Những quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ
chức, hô gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
được thể hiện ở Điều 18 Hiến pháp 1992, Điều 1, Điều 20 Luật đất đai năm
1993, các Điều 2, 28, 33, 36 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, Luật đất
đai năm 1993 và Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001. Nghị định 02/CP ngày
15/01/1994, Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ và
một số văn bản dưới luật có liên quan khác, đã được thể hiện bằng các quy định
cụ thể về: Quỹ đất được giao, căn cứ quyết định giao, thời hạn giao và hạn mức

được giao [12].
* Đối tượng giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài
- Các tổ chức như Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng,
các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, các trạm trại, xí nghiệp
giống lâm nghiệp, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, trường học,
trường dạy nghề.
- Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp mà
nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó, được Uỷ
ban nhân dân xã nơi có đất lâm nghiệp xác nhận.
- Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất theo Nghị định 02/CP từ
trước ngày 01/11/1999 thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn đã được
giao và được cấp GCNQSDĐ.
* Quỹ đất lâm nghiệp để giao, cho thuê
- Gồm toàn bộ đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa có rừng
đã được quy hoạch để trồng cây gây rừng khoanh nuôi, bảo vệ thảm thực vật,
không phân biệt độ dốc được tính vào quỹ đất lâm nghiệp để giao cho hộ gia
đình, cá nhân quản lý, sử dụng ổn định lâu dài.
- Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng đất lâm nghiệp, từng loại rừng đã
quy hoạch để giao đất, cho thuê đất cho từng đối tượng cụ thể:
+ Nhà nước giao cho các tổ chức (ban quản lý, các doanh nghiệp lâm
nghiệp, nông nghiệp) quản lý, sử dụng ổn định lâu dài: Toàn bộ đất lâm nghiệp
là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu và rất xung yếu; Rừng
16


phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu và các loại rừng phòng hộ khác tập trung, xa
khu dân cư; Đất lâm nghiệp là rừng sản xuất tập trung, xa khu dân cư; Đất lâm
nghiệp dự trữ quốc gia.
+ Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài những
loại đất lâm nghiệp sau: Đất có rừng tự nhiên, rừng trồng, đất để trồng rừng mà

hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng hợp pháp, do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đã giao trong những năm trước đây; Đất có rừng hoặc chưa
có rừng thuộc phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu, rừng chắn gió, chắn cát, chắn
sóng lấn biển đã ổn định, rừng sản xuất nằm xen kẽ trong các khu dân cư, gần
vùng dân cư, đất chưa có rừng của rừng bảo vệ sinh thái.
+ Nhà nước giao cho các Chi cục kiểm lâm trực tiếp quản lý các vùng đất
lâm nghiệp chưa giao được cho các chủ cụ thể.
* Căn cứ để quyết định giao đất lâm nghiệp
Căn cứ để quyết định giao đất được quy định tại Điều 19 Luật Đất đai, Điều
10 Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng và Điều 4 của Nghị Định 02/CP ngày
15/1/1994, Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ [5],[7].
- Giao đất lâm nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
khoanh định rõ các loại đất, quy hoạch đất lâm nghiệp xác định các loại rừng
trên từng địa bàn cụ thể.
- Căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương.
- Căn cứ vào nhu cầu, khẳ năng sử dụng đất lâm nghiệp của các tổ chức
được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay trong dự án quản lý xây dựng
khu rừng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, đơn xin giao đất
lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác
nhận.
- Căn cứ vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hàng năm của Nhà nước
(đối với trường hợp việc giao đất lâm nghiệp có gắn với thực hiện các dự án đầu
tư hỗ trợ bằng vốn của Nhà nước).
* Thời hạn giao đất lâm nghiệp sử dụng ổn định lâu dài
- Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao được quy định theo quy hoạch
kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.

17



- Tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân là 50 năm, hết thời hạn quy định nếu
người sử dụng vẫn có nhu cầu và sử dụng đất đúng mục đích thì Nhà nước giao
tiếp [12].
* Hạn mức đất được giao
Giao đất lâm nghiệp không phải hạn mức, tuỳ thuộc vào quỹ đất của từng
địa phương, trước tiên là địa bàn xã, trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đai, quy
hoạch các loại rừng, nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
kết hợp với yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với từng loại rừng với yêu cầu cụ
thể để giải quyết hạn mức giao cho từng đối tượng, dựa trên nguyên tắc mọi tổ
chức, hộ gia đình cá nhân có nhu cầu, khả năng sử dụng đất lâm nghiệp hoặc
theo nhiệm vụ được giao quản lý của dự án. Đảm bảo cho các đối tượng thực sự
có đất để bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái tạo rừng, mở rộng diện tích trồng rừng
mới, đảm bảo cho các thành phần kinh tế có nhu cầu khả năng sử dụng đất lâm
nghiệp để xây dựng cơ cấu kinh tế miền núi theo hướng chuyển sang cơ cấu
kinh tế hàng hoá, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, phát huy
thế mạnh lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả [12].
Giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp
* Đối tượng được giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm
nghiệp
- Nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh, công ty, xí nghiệp,
trạm trại, trực tiếp sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Các ban quản
lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được
phép giao khoán phần đất lâm nghiệp đã được Nhà nước giao để sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, cho các đối tượng sau [11]:
+ Hộ gia đình, cá nhân hoặc một nhóm hộ gia đình là công nhân viên chức
đang làm việc ngay trong đơn vị giao khoán.
+ Hộ gia đình, cá nhân đã làm việc cho các doanh nghiệp nay nghỉ hưu,
nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp và thành viên trong gia
đình họ đến tuổi lao động có nhu cầu nhận khoán.
+ Hộ gia đình, cá nhân cư trú tại địa phương được Uỷ ban nhân dân cấp xã

xác nhận.
+ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các địa phương khác có vốn đầu tư vào
sản xuất theo quy hoạch của các đơn vị giao khoán.
* Giao đất lâm nghiệp đựơc tiến hành trên cơ sở
18


- Quỹ đất lâm nghiệp đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
giao cho các đơn vị khoán.
- Dự án khả thi hoặc dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Vốn, lao động của bên nhận khoán.
- Các chính sách đầu tư hỗ trợ vốn của Nhà nước và các chính sách lao
động khác có liên quan.
- Đảm bảo lợi ích của bên giao khoán, bên nhận khoán.
- Giao khoán đất gắn liền với cây trồng, vật nuôi và giá trị tài sản khác trên
đất.
- Việc giao khoán và nhận khoán phải thông qua hợp đồng.
* Thời hạn giao khoán đất lâm nghiệp
- Rừng phòng hộ và đặc dụng là 50 năm.
- Rừng sản xuất: Tuỳ theo chu kỳ kinh doanh.
* Nội dung giao khoán đất lâm nghiệp tùy theo từng loại rừng
- Rừng phòng hộ: Khoán các khâu bảo vệ rừng, khoanh nuôi, tái sinh
rừng, trồng rừng mới theo quy hoạch. Nhà nước cấp kinh phí hàng năm để trả
cho bên nhận khoán.
- Rừng đặc dụng: Khu vực cần bảo tồn nguyên vẹn chỉ khoán cho các hộ
sống xen kẽ trong khu vực bảo tồn để bảo vệ rừng. Khu vực cần phục hồi tái
sinh thì khoán bảo vệ và gây trồng rừng mới, được Nhà nước cấp kinh phí.
- Rừng sản xuất: Khoán bảo vệ, khoanh nuôi phục hồi đối với đất có rừng
tự nhiên. Còn đất trống thì khoán đất để người nhận khoán tự bỏ vốn trồng, khi
khai thác phải bán sản phẩm theo hợp đồng, nếu Nhà nước bổ vốn thì bên nhận

khoán phải hoàn trả vốn và bán sản phẩm cho bên giao khoán.
Quyền và nghĩa vụ của người được giao đất lâm nghiệp
- Tổ chức, hộ gia đình cá nhân được giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn
định, lâu dài vào sản xuất lâm nghiệp không phải trả tiền sử dụng đất trên toàn
bộ diện tích được giao, được cấp GCNQSDĐ. Hộ gia đình cá nhân được chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất lâm nghiệp
được giao. Các tổ chức được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong thời
hạn được giao để liên doanh với các tổ chức và cá nhân trong nước, ngoài nước

19


để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó thì không được sử dụng đất sai mục đích,
không được bỏ hoang [2].
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao khoán đất phải chủ động sản
xuất và được hưởng thành quả lao động kết quả đầu tư trên đất nhận khoán. Bên
nhận khoán được bồi thường thiệt hại khi bên giao khoán vi phạm hợp đồng.
Ngoài ra bên nhận khoán phải thực hiện một số nghĩa vụ sau:
+ Nộp cho bên giao khoán các khoản như Thuế sử dụng đất, giá trị cây
trồng, vật nuôi và các công trình trực tiếp phục vụ sản xuất trên đất giao khoán
do vốn bên khoán đã đầu tư theo hợp đồng.
+ Thanh toán với bên giao khoán các khoản vay bằng tiền, vật tư hoặc các
khoản dịch vụ ứng trước.
+ Bán sản phẩm sản xuất ra trên đất nhận khoán cho bên giao khoán theo
hợp đồng.
+ Sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy hoạch của bên giao khoán, bảo vệ
cải tạo đất không làm thoái hoá đất.
+ Bồi thường thiệt hại cho bên giao khoán khi vi phạm hợp đồng.
+ Trả lại đất khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy định
của Pháp luật.

- Kết quả của chính sách giao đất lâm nghiệp đã có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến việc sử dụng đất và đời sống kinh tế: Nhờ có chính sách giao đất lâm nghiệp
dẫn đến việc sử dụng đất hợp lý hơn và mức độ thâm canh cao hơn. Từng hộ đã
chủ động sản xuất và có hộ đã biết cách làm giàu thông qua việc chuyển đổi cơ
cấu cây trồng. Từ làm rẫy thuần tuý sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao
và phát triển chăn nuôi tạo ra những mô hình điển trong sản xuất nông nghiệp.
- Chính sách giao đất lâm nghiệp cũng tác động đến xã hội và môi trường:
Việc giao đất đã làm cho mảnh đất có chủ thực sự, người dân có ý thức hơn
trong việc bảo vệ rừng được giao, có thêm thu nhập. Công tác khoanh nuôi, bảo
vệ rừng và màu xanh rừng ngày càng nhiều hơn, giữ được rừng, bảo vệ nguồn
nước. Tình trạng di dân tự do được hạn chế đáng kể, người sử dụng đất đã có
quỹ đất để xây dựng kế hoạch luân canh cây trồng.
2.2.1.6. Giai đoạn từ năm 2003 trở lại đây
Tại kỳ họp Quốc hội Khoá IX kỳ họp thứ IV ngày 26/11/2003 ban hành
Luật số 13/2003/QH11 thay thế Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung

20


×