Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Đánh giá thực trạng gây trồng và sinh trưởng rừng trồng bời lời đỏ ở xã húc và xã hướng linh, huyện hướng hóa, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.09 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Lâm Nghiệp

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI:
Đánh giá thực trạng gây trồng và sinh trưởng rừng trồng
Bời lời đỏ (Litsea glutinosa L.) ở xã Húc và xã Hướng Linh, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

Sinh viện thực hiện: Hoàng Văn Linh
Lớp: Lâm Nghiệp 46
Giáo viên hướng dẫn: Thạc Sĩ Phạm Cường
Bộ môn: Lâm Sinh

NĂM 2016
1


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của khoa Lâm Nghiệp, trường Đại học
Nông Lâm Huế và sự đồng ý của thầy giáo Phạm Cường tôi thực hiện
đề tài: “Đánh giá thực trạng gây trồng và sinh trưởng rừng trồng
Bời lời đỏ (Litsea glutinosa L.) ở xã Húc và xã Hướng Linh, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị”.
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các cá nhân và tổ chức. Tôi đã được các
quý thầy, cô giáo và tập thể cán bộ trường Đại học nông lâm Huế giúp đỡ tận
tình, đặc biệt là giảng viên trực tiếp hướng dẫn tôi, thầy Phạm Cường. Tôi cũng
nhận được sự giúp đỡ, chỉ dạy từ phía tập thể cán bộ UBND xã Húc và xã


Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu trường Đại học
nông lâm Huế đã tạo điều kiện cho tôi được học tập tại đây.
Xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Cường đã tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi vô cùng biết ơn các thầy cô khoa Lâm Nghiệp đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt khóa học.
Xin cảm ơn các chú, các bác, các anh, chị trong UBND xã Húc và xã
Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị và toàn thể bà con nhân dân
đã tạo điều kiện cho tôi được thực tập và hoàn thành khóa luận trong thời gian
cho phép.
Khóa luận được hoàn thành trong thời gian chưa dài và kinh nghiệm
của bản thân còn hạn chế nên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để
khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Huế, tháng 5 năm 2016
Sinh Viên
Hoàng Văn Linh

2


NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
KT-XH:

Kinh tế - xã hội

NTTS :


Nuôi trồng thủy sản

BCC :

Dự án “Hành lang bảo tồn đa
dạng sinh học tiểu vùng Mê Công mở
rộng” tỉnh Quảng Trị

ĐVT :

Đơn vị tính

NCKH:

Nghiên cứu khoa học

3


MỤC LỤC

4


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Rừng là nhân tố quan trọng giúp bảo vệ và điều hòa khí hậu. Tuy nhiên
hiện nay rừng đang còn gặp phải nhiều đe dọa lớn như hiện tượng chặt phá, cháy
rừng. Để cải thiện tình trạng đó Đảng và Nhà nước khuyến khích người dân
trồng rừng, trong đó có cây Bời lời đỏ. Huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
những năm gần đây có diện tích trồng bời lời khá lớn, trong đó có xã Húc và

Hướng Linh. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Đánh giá thực trạng gây trồng và
sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ ở xã Húc và xã Hướng Linh, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị” để nghiên cứu.
• Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng gây rừng và sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ tại
xã Húc và xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất Bời lời đỏ tại
xã Húc và xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
•Dữ liệu phục vụ
- Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn các hộ sản xuất Bời lời
đỏ trên địa bàn xã Húc và Hướng Linh
- Số liệu thứ cấp: Số liệu thứ cấp được thu thập qua các văn kiện, báo cáo
kinh tế-xã hội của hai xã Húc và xã Hướng Linh.
•Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê mô tả, thống kê so sánh, xử lý điều tra sinh trưởng
- Phỏng vấn trực tiếp
•Kết quả nghiên cứu nổi bật
Đề tài tìm hiểu và đánh giá về gây trồng và sinh trưởng rừng thu được một
số kết quả sau: Tổng diện tích rừng trồng ở huyện Hướng Hóa đến năm 2014 là
1.333,48 ha. Trong đó xã Húc có 85ha rừng, xã Hướng Linh có 75 ha. Quá trình
điều tra các hộ dân thuộc hai xã nhận thấy diện tích rừng trồng do người dân đầu
tư là 85 ha, do dự án đầu tư là 75 ha. Trong khi diện tích rừng ngày càng tăng
lên qua các giai đoạn. Đến giai đoạn 2011-2015 đã trồng thêm 95 ha rừng, mật
độ rừng trồng tương đối cao, nhất là ở độ tuổi 5,6 với 2300 cây/ha. Rừng Bời lời
đỏ đều sinh trưởng qua các năm về chiều cao, thể tích, độ dày vỏ và đường kính
do đó năng suất và sản lượng cũng thay đổi hàng năm. Bên cạnh những hạn chế
5


còn gặp phải trong kỹ thuật trồng rừng, nghiên cứu góp phần đưa ra một số giải

pháp nhằm định hướng gây trồng cho người dân trong những năm tới và đề xuất
một số kiến nghị với chính quyền địa phương để đem lại hiệu quả cao cho rừng
trồng Bời lời đỏ.

6


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Con người sống được là nhờ vào sự quang hợp của cây và rừng là nhân tố
đóng góp một phần to lớn trong bảo vệ và điều hòa khí hậu. Những năm gần đây
hiện tượng rừng tự nhiên bị phá hoại rất lớn, điển hình như ở Tây Nguyên bình
quân mỗi năm có 1.478 ha rừng bị mất do khai thác và chặt phá trái phép[1]. Do
đó Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách phát triển rừng sản
xuất để góp phần tăng độ che phủ cho đất rừng, một trong số đó có các dự án
liên quan đến cây Bời lời đỏ, vì những giá trị thiết thực mà chúng mang lại cho
người dân. Hiện nay Bời lời đỏ được trồng nhiều ở các tỉnh miền Trung, Tây
Nguyên và ngày càng được nhân rộng nhiều về diện tích.
Hướng Hóa là một huyện miền núi phía Tây tỉnh Quảng Trị có vùng đất
thích hợp để trồng nhiều loại cây dài ngày khác nhau như: cà phê, quế, keo, bời
lời, sưa, trẩu….Trước đây, hầu hết người dân trong huyện đều trồng bời lời
trắng tuy nhiên giá trị kinh tế mà nó mang lại chưa cao vì vỏ cây bời lời trắng
bám chặt vào thân nên khó lột, quá trình tái sinh vỏ diễn ra chậm, chất lượng
keo thấp và không được thị trường ưa chuộng. Nhưng từ khi cây Bời lời đỏ xuất
hiện, hiệu quả kinh tế mà nó mang lại cao gấp nhiều lần so với bời lời trắng nên
người dân đã tiến hành mở rộng diện tích và đem lại những kết quả vượt trội.
Trong số các xã thuộc huyện Hướng Hóa về phía Nam có xã Húc, về phía
Tây có xã Hướng Linh cũng đang tiến hành trồng và nhân rộng cây Bời lời đỏ là
cây mang lại rất nhiều giá trị, ngoài việc thu hoạch vỏ cây, người ta còn có thể

sử dụng gỗ cây để làm đồ gia dụng hoặc tận dụng thân cây, lá cây cho những
mục đích khác. Bời lời đỏ không chỉ có giá trị về kinh tế mà nó còn có giá trị về
mặt môi trường cũng như xã hội, một mặt tăng thu nhập cho người dân mặt khác
còn giúp giảm thiểu sự suy thoái rừng đang diễn ra hiện nay và góp phần tăng
cường độ che phủ.
Bên cạnh đó để đảm bảo thời gian thu hoạch và việc sinh trưởng, phát triển
của cây Bời lời đỏ thì cần thiết phải trải qua một giai đoạn tương đối dài từ 5 tới
7 năm. Đòi hỏi người dân phải có những kỹ thuật và phương pháp riêng. Giúp
cho vườn Bời lời đỏ sinh trưởng tốt, tránh được những rủi ro nhất định.

7


Chính vì những lí do đó tôi chọn đề tài: “Đánh giá thực trạng gây trồng
và sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ ở xã Húc và xã Hướng Linh, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị” để nghiên cứu.

8


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Giới thiệu về loài cây Bời lời đỏ
2.1.1 . Đặc điểm sinh vật học của cây Bời lời đỏ
Bời lời đỏ có tên khoa học là Litsea glutinosa (Lour. C.B Rob) [1] còn gọi
được gọi bởi các tên khác là Bời lời nhớt, Bời lời dầu, nhớt mèo, mò nhớt, là
một loài thực vật thuộc chi Litsea của họ Nguyệt quế (Lauraceae) [2]
Theo Pharmacognosy Res, Bời lời đỏ là một cây thường xanh kích thước
trung bình phát triển đến độ cao khoảng 6 đến 10m. Nó thuộc họ Nguyệt quế
(Lauraceae). Ở Ấn Độ nó được tìm thấy chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Lá và chất

nhầy từ vỏ của cây được sử dụng làm keo dính. Phân bố từ Ấn Độ, Trung Quốc,
Malaisia, và miền bắc Australia. Ở Ấn Độ nó được tìm thấy chủ yếu ở vùng
Đông Bắc.[20]
2.1.2. Đặc điểm hình thái và sinh thái của cây Bời lời đỏ
Về đặc điểm hình thái thì cây Bời lời đỏ là loài cây gỗ trung bình, có thể
cao tới 10m. Vỏ thân nâu hoặc xám, mỏng, trong có chất nhớt. Cành trưởng
thành hình trụ, nhẵn; cành non có cạnh, nhiều lông. Lá mọc so le, thường mọc
thành cụm ở đầu cành, kích thược rất thay đổi, dài 7 – 20 cm, rộng 4 – 10 cm,
hình bầu dục hay thuôn dài, phía đáy lá tròn hoặc nhọn, đầu nhọn hay tù; cuống
lá có lông; phiến lá dai, khó vò, khó giã nát, khi vò tiết ra chất nhớt. Hoa mọc
thành cụm, đơn tính cùng gốc, màu vàng nhạt. Quả mọng, hình cầu, màu đen.
Về đặc điểm sinh thái thì cây Bời lời phân bố ở độ cao 600–700 m (so với
mực nước biển), mọc nhiều ở nơi thấp trong rừng thứ sinh, thường gặp ở cửa
rừng và ven khe suối lớn. Cây ưa sáng mọc nhanh, khả năng tái sinh hạt, chồi
mạnh, thích hợp đất sét pha, ẩm, thường mọc nơi đất có tầng dày, nhiều mùn.
Bời lời có thể trồng bằng nhiều phương pháp: Trồng bằng chồi rễ của cây mẹ;
trồng bằng cây con tái sinh trong rừng; trồng bằng hạt gieo thẳng hoặc trồng
bằng cây con ươm trong bầu [3].
2.1.3. Giá trị sử dụng của cây Bời lời đỏ
Bời lời đỏ là cây đa mục đích. Vỏ Bời lời có chứa tinh dầu thơm, được
chiết xuất tinh dầu dùng trong y học, làm hương thơm, nguyên liệu làm keo dán
trong công nghiệp, sơn. Ngoài ra Bời lời đỏ còn được dùng làm nhang đốt trong
tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Gỗ Bời lời đỏ có màu nâu vàng, cứng và
9


không mối mọt có thể sử dụng đóng đồ dùng, làm nguyên liệu giấy, làm gỗ củi.
Lá có thể làm thức ăn gia súc… [21].
Trong tài liệu "Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, tập II (1999)" đã mô tả cây
Bời lời đỏ và một số công dụng của nó như vỏ có tác dụng làm dịu đau, chữa

bệnh. Vỏ giã nát đắp lên vết thương, nơi xưng bỏng, ngoài ra vỏ còn dùng để sắc
thước uống chữa bệnh đường ruột lỵ. Nước dùng ngâm vỏ Bời lời dùng bôi dầu
cho tóc bóng mượt. Quả chứa 45% chất béo dạng sáp gồm hầu hết là laurin và
olein điều chế xà phòng, gỗ làm giấy, lá làm thức ăn cho trâu bò. Tất cả các bộ
phận của cây, nhiều nhất ở bộ phận vỏ có chứa chất nhầy (keo) và một ít tinh
dầu nên người ta dùng vào công nghệ keo dán, kỹ nghệ làm giấy, phụ gia bê
tông. Gỗ dùng làm đồ gia dụng, làm giấy, làm nhà tạm, ...
Cây Bời lời đỏ trồng sau 7 đến 8 năm là cho thu hoạch. Vỏ, lá cây được
thương lái mua để làm bột nhang, nấu keo dùng trong công nghiệp; thân cây
được dùng trong công nghiệp chế biến gỗ, đồ gia dụng, cây Bời lời đỏ được tận
dụng hầu như từ cành đến gốc. Thời điểm hiện nay vỏ tươi có giá 6.000
đồng/kg, giá 1m3 gỗ khoảng 400.000 đồng, mỗi héc ta trồng Bời lời đỏ trung
bình thu được khoảng 40 triệu đồng/năm và nếu khai thác hợp lý sẽ cho thu
hoạch trong nhiều năm [4].
Ở tỉnh Quảng Trị, theo ông Nguyễn Cửu Tuấn, Phó Trạm Khuyến nôngKhuyến ngư huyện Đakrông (năm 2014) thì việc trang bị cho người dân kỹ thuật
trồng cây Bời lời đỏ kết hợp với các loại cây trồng khác không những thu lợi
nhuận cao hơn mà còn tạo điều kiện cho cây Bời lời đỏ sinh trưởng phát triển
tốt. Hiện nay, tại xã Tà Rụt, người dân cũng đang phát triển trồng và khai thác
cây Bời lời đỏ cho hiệu quả cao. Việc phát triển cây Bời lời đỏ rất thuận lợi ở
những vùng đồi núi, quỹ đất hoang hóa còn nhiều. Trong thời gian tới theo ông
Tuấn thì diện tích cây Bời lời đỏ trên địa bàn toàn huyện sẽ phát triển nhiều, bởi
giống cây Bời lời đỏ đã và đang cho thấy hiệu quả hơn so với các giống cây trồng
khác. Người dân nay đã được trang bị kỹ thuật ươm giống cây nên đã chủ động
được nguồn giống có chất lượng. Việc phát triển trồng cây Bời lời đỏ trong thời
gian tới hứa hẹn là một loại cây giúp cho huyện Đakrông thoát nghèo bền vững
[4].

10



2.2. Cơ sở lí luận
2.2.1 Sinh trưởng rừng trồng
2.2.1.1. Khái niệm sinh trưởng
Theo D.A. Xabinin, sinh trưởng là quá trình tạo mới các yếu tố cấu trúc
của cây một cách không thuận nghịch (các thành phần mới của tế bào, tế bào
mới cơ quan mới…), thường dẫn đến tăng về số lượng, kích thước, thể tích, sinh
khối của chúng. Tuy nhiên không nên quan niệm sự sinh trưởng chỉ là sự biến
đổi về lượng một cách đơn thuần, vì không phải bao giờ sự sinh trưởng cũng dẫn
đến sự biến đổi kích thước và khối lượng. Chẳng hạn, lúc tạo yếu tố của cấu trúc
mới của nhân, tế bào tạm ngừng lớn lên, khi hạt trương nước thì trọng lượng
chất khô không tăng, lúc ra hoa cây ngừng sinh trưởng về kích thước…Nói
chung sự sinh trưởng của cây thể hiện ở những đặc điểm sau:
- Sự tăng về khối lượng và kích thước của cơ thể hoặc của từng cơ quan
(sự tăng trưởng chiều cao cây, chiều dài cành, tăng diện tích lá, …)
- Sự tăng thêm về khối lượng cơ quan, số lượng tế bào (cây mọc thêm
cành, cành ra thêm lá, số lượng tế bào ở mô phân sinh tăng lên…)
- Tăng thể tích của tế bào, đặc biệt là tăng khối lượng chất nguyên sinh (tế
bào sau khi phân chia xong thì tiến hành quá trình giãn tế bào để tăng kích thước
của tế bào và tăng khối lượng chất nguyên sinh của tế bào)
- Tăng các yếu tố cấu trúc của tế bào (các bào quan bên trong tế bào được hình
thành ).
- Tăng khối lượng chất khô của cây. Chẳng hạn ở thời kỳ chín hạt cây
ngừng tăng về kích thước của các cơ quan, nhưng cây vẫn tích lũy thêm các chất
hữu cơ về hạt.[22]
2.2.1.2. Khái niệm rừng
Có nhiều cách khái niệm rừng khác nhau nhưng hầu hết đều khái niệm dựa
vào phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí:
Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã
sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành
phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt

giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác.

11


Theo Morozov 1930: “Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn
nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí
quyển”.
Theo M.E.Tcachenco 1952: “Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý,
trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh
vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh
hưởng lẫn nhau với hoàn cảnh bên ngoài.
Theo I.S.Mê lê Khôp 1974: “Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên,
là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu. Rừng cũng có thể hiểu bằng một
cách khác là đất đủ rộng có cây cối mọc lâu năm”.
Từ những khái niệm trên chúng tôi cho rằng: rừng là một hệ thống quần xã
sinh vật đó là nơi sinh sống của tất cả các loại cây, động vật, vi sinh vật khác
nhau và chúng có mối quan hệ sinh học ảnh hưởng lẫn nhau.[23]
2.2.1.3. Vai trò của rừng
Nguyễn Thị Hồng Lợi - Phòng Tài nguyên & Môi trường TX. Phú Thọ viết
bài Vai trò của rừng - xin đừng thờ ơ với rừng chỉ rõ: “Rừng giữ không khí
trong lành: do chức năng quang hợp của cây xanh, rừng là một nhà máy sinh
học tự nhiên thường xuyên thu nhận CO2 và cung cấp O2. Đặc biệt ngày nay
khi hiện tượng nóng dần lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính, vai trò của rừng
trong việc giảm lượng khí CO2 là rất quan trọng. Rừng điều tiết nước, phòng
chống lũ lụt, xói mòn: rừng có vai trò điều hòa nguồn nước giảm dòng chảy bề
mặt chuyển nó vào lượng nước ngấm xuống đất và vào tầng nước ngầm. Khắc
phục được xói mòn đất, hạn chế lắng đọng lòng sông, lòng hồ, điều hòa được
dòng chảy của các con sông, con suối (tăng lượng nước sông, nước suối vào
mùa khô, giảm lượng nước sông suối vào mùa mưa). Rừng bảo vệ độ phì nhiêu

và bồi dưỡng tiềm năng của đất: ở vùng có đủ rừng thì dòng chảy bị chế ngự,
ngăn chặn được nạn bào mòn, nhất là trên đồi núi dốc tác dụng ấy có hiệu quả
lớn, nên lớp đất mặt không bị mỏng, mọi đặc tính lý hóa và vi sinh vật học của
đất không bị phá hủy, độ phì nhiêu được duy trì. Rừng lại liên tục tạo chất hữu
cơ.”[21]
2.2.2. Sinh trưởng của các cơ quan.
2.2.2.1. Sinh trưởng của rễ
- Rễ được tạo thành từ miền sinh trưởng rễ. Trong rễ đang sinh trưởng có 4
miền khác nhau. Chóp rễ là miền phôi thai, tiếp theo là miền kéo dài, miền lông
hút và cuối cùng là miền phân nhánh của rễ. Các miền riêng biệt có quá trình

12


sinh trưởng đặc trưng riêng, có hoạt động sinh lý, trao đổi chất phù hợp chức
năng miền đó đãm nhận.
- Phần đầu tiên của rễ là chóp rễ xảy ra sự phân bào mạnh mẽ mà không tăng
kích thước của tế bào, phần này dài khoảng 1,5mm. Tiếp theo phần chóp rễ là phần
mà các tế bào lớn lên về thể tích, vùng này có chiều dài khoảng 2,5mm. Trong
4mm của vùng sinh trưởng này tiến hành các quá tình phân chia và lớn lên của tế
bào. Miền tiếp theo là miền các tế bào phân hóa mà không lớn lên nữa.
- Trong rễ đang sinh trưởng, ở vùng đầu tiên của bao rễ người ta tìm thấy
một nhóm tế bào đặc biệt có hàm lượng acid nucleic thấp, không có khả năng
tổng hợp AND, do vậy các tế bào này không phân chia, các tế bào này có nhiệm
vụ bảo vệ cho chóp rễ.
- Thành phần hóa học ở các miền sinh trưởng khác nhau của rễ rất khác
nhau. Lượng nước trong tế bào tăng theo sự sinh trưởng, lượng đường củng tăng
dần theo sự sinh trưởng từ chóp rễ vào đến thân rễ. Hàm lượng protein tăng từ
chóp rễ đến miền kéo dài, từ đó lại giảm dần đến thân rễ. Hàm lượng cellulose
tăng theo quá trình sinh trưởng. Cường độ hô hấp có thay đổi, tăng lên ở miền

kéo dài và sau đó lại giảm.
- Quá trình sinh trưởng của rễ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên trong
và bên ngoài. Các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và thoáng khí có ý nghĩa quan trọng
đến quá trình sinh trưởng của rễ. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của rễ
thấp hơn nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của thân và phụ thuộc vào nhóm
sinh thái.
- Trong điều kiện đất đủ ẩm rễ sinh trưởng tốt, khi đất khô tới mức héo thì
rễ ngừng sinh trưởng. Khi đất đủ nước (có tưới tiêu) thì rễ tập trung sinh trưởng
ở vùng đất mặt, khi đất thiếu nước thì rễ ăn sâu và lan rộng để tìm nguồn nước.
- Nồng độ O2 trong đất có ảnh hưởng đến sinh trưởng của rễ. Khi nồng độ
O2 giảm đến 10% thì sự sinh trưởng của rể bắt đầu giảm và rễ ngừng sinh trưởng
khi nồng độ O2< 5%.
- Các chất điều hòa sinh trưởng có tác dụng kích thích quá trình sinh
trưởng của rễ (Auxin)
2.2.2.2. Sinh trưởng của thân
- Sự sinh trưởng của thân được thực hiện bởi hai loại mô khác nhau. Sự
tăng chiều cao của thân do sự sinh trưởng của mô phân sinh ngọn, còn sự tăng
chiều ngang của thân là do sự sinh trưởng của mô phân sinh tượng tầng.
13


- Do kết quả của sự phân chia tế bào phân sinh là xuất hiện các tế bào
không phân chia để hình thành các mô riêng biệt. Ở các mô phân sinh ngọn
nguyên bì sẽ phát triển thành biểu bì, tiền tượng tầng tạo mô dẫn và mô phân
sinh chính sẽ tạo nên nhu mô.
- Thân cây lớn lên nhờ chóp ngọn. Các cành phát triển ra từ chồi thì các đốt
cơ bản được được hình thành từ trong chồi. Sự kéo dài của lóng được hình thành
ngay trong phôi hay trong mầm của cành. Sự sinh trưởng về bề ngang của thân
và cành nhờ sinh trưởng của tượng tầng là nhóm mô phân sinh nằm giữa libe và
gỗ. Các tế bào kéo dài của tượng tầng phân chia theo trục dọc. Tượng tầng chỉ

hoạt động phân chia trong thời kì phát triển cơ quan sinh dưỡng.
- Quá trình sinh trưởng của thân chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong
và bên ngoài.
- Các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, các chất khoáng
củng có vai trò quan trọng đối với sự sinh trưởng của thân.
- Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng rất lớn đến chiều dài sinh trưởng của
thân, nhiệt độ quá thấp hay quá cao đều kìm hãm sự sinh trưởng của nó. Sự
chênh lệch nhiệt độ ngày đêm cũng là yếu tố kích thích sinh trưởng của thân.
- Ánh sáng cũng là yếu tố quan trọng đến sự sinh trưởng của thân. Cây
thiếu ánh sáng thường yếu và dễ đổ do trung trụ và mô cơ phát triển kém, do sắt
tố tổng hợp ít nên cây bị bạc trắng.
- Nước là yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của thân, thiếu nước cây sinh
trưởng chậm, nhưng trong môi trường bảo hòa nước cũng ức chế sự sinh trưởng
của thân.
- Các chất điều hòa sinh trưởng có vai trò quan trọng trong thời kỳ sinh
trưởng của thân.
2.2.2.3. Sinh trưởng của lá
- Lá được hình thành từ nón sinh trưởng của chồi, mầm lá là một nhóm tế
bào phân chia tạo thành. Sự hình thành phiến lá trong chồi có thể được bắt đầu
từ dưới lên lên hoặc ngược lại từ trên xuống dưới hoặc được hình thành đồng
đều trên toàn bộ phiến lá. Trên phiến lá có nhiều điểm sinh trưởng, từ các điểm
sinh trưởng đó tạo nên các thùy lá, răng lá.
- Sự sinh trưởng của lá cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và
bên ngoài.
14


- Các điều kiện bên ngoài như nhiệt độ, ánh sáng, chất khoáng, nước…
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây.
Sinh trưởng là kết quả tổng hợp của các chức năng sinh lí và các quá trình

trao đổi chất của cây liên quan rất chặt chẽ với các yếu tố của môi trường. Vì
vậy ảnh hưởng của các điều kiện sinh thái đến sinh trưởng của cây rất phức tạp
nhưng khá rõ rệt. Hiểu biết được về mối quan hệ đó giúp chúng ta điều khiển sự
sinh trưởng của cây trồng theo ý muốn dựa trên sự hiểu biết về mối quan hệ của
điều kiện sinh thái đến quá trình sinh trưởng.
2.2.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của cây. Cây có thể
sinh trưởng trong một khoảng nhiệt độ khá rộng, vì vậy các loại cây trồng tồn tại
những điểm nhiệt độ tối thấp và tối cao cũng khác nhau.Trong giới hạn nhiệt độ
sinh trưởng, ở nhiệt độ đó sự sinh trưởng của cây xảy ra thuận lợi nhất, trên dưới
nhiệt độ tối thích thì tốc độ sinh trưởng sẽ giảm. Nhiệt độ tối thấp và nhiệt độ tối
cao cho sự sinh trưởng của cây đó là điểm nhiệt độ mà ở đó cây ngừng sinh
trưởng. Giới hạn nhiệt độ sinh trưởng thay đổi theo sự thích nghi của cây trồng ở
những vùng sinh thái khác nhau. Nhiệt độ tối thấp và tối cao của cây vùng nhiệt
đới cao hơn ở cây vùng ôn đới và hàn đới. Ở vùng nhiệt đới nhiều cây ngừng
sinh trưởng ở nhiệt độ 100oC, trong khi đó ở vùng hàn đới rất nhiều loại cây có
khả năng sinh trưởng trong băng tuyết với nhiệt độ -50oC. Biết được yêu cầu
nhiệt độ sinh trưởng của từng loại cây trồng có ý nghĩa rất lớn trong việc xác
định thời vụ gieo trồng thích hợp, chuyển vùng và nhập nội giống.
- Sự sinh trưởng của các cơ quan khác nhau của cây cũng nằm trong nhiệt
độ khác nhau. Những cơ quan ở trên mặt đất thích nghi với nhiệt độ không khí
cao hơn so với những cơ quan ở dưới mặt đất, vì vậy ở nhiệt độ cao sự sinh
trưởng của rễ kém hơn thân và cành.
- Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm có ảnh hưởng rất lớn
đến sự sinh trưởng của cây. Ban ngày nhiệt độ cao thuận lợi cho cây quang hợp
với tích lũy chất hữu cơ, ban đêm nhiệt độ hạ thấp sẽ hạn chế hô hấp và tiêu phí
chất hữu cơ, giảm sự thoát hơi nước nên sinh trưởng nhanh hơn. Sự chênh lệch
nhiệt độ giữa ngày và đêm tạo điều kiện thuật lợi cho sự tích lũy tinh bột trong
các cơ quan sinh sản và dự trữ như củ khoai lang, khoai tây, củ sắn, hạt hòa thảo
…do đó làm tăng năng suất mùa màng. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và

đêm phụ thuộc vào vùng địa lí, biên độ nhiệt ngày đêm lớn nhất ở vùng cận
nhiệt đới và giảm dần về hai cực của quả đất. Trong một năm thì mùa xuân và
15


mùa thu có biên độ nhiệt lớn hơn các mùa khác, vì vậy sự sinh trưởng của cây
trồng trong hai mùa này khá thuận lợi cho sự tích lũy chất khô, lại cũng phù hợp
với hai mùa chính cho cây trồng ở nước ta.
2.2.3.2. Ánh sáng
- Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho sự sinh trưởng của cây vì nó rất cần
cho quá trình quang hợp. Nhờ quá trình quang hợp mà cây tổng hợp các hợp
chất hữu cơ làm nguyên liệu để xây dựng nên cơ thể và tích lũy năng lượng ở
trong cây để tiến hành sinh trưởng. Cho nên một khoảng thời gian nào đó như
những ngày dâm mát, những ngày mưa, hay ban đêm không có ánh sáng cây vẫn
sinh trưởng được. Nhưng trong suốt chu kì sống của cây thì cây rất cần nhiều
ánh sáng. Tùy theo nhu cầu ánh sáng đối với sự sinh trưởng của cây mà người
mà người ta chia thực vật thành hai nhóm là cây ưa sáng và cây ưa bóng. Cây ưa
sáng sinh trưởng mạnh trong điều kiện mạnh ánh sáng đầy đủ còn cây ưa bóng
sinh trưởng tốt trong điều kiện bóng râm thích hợp. Đại bộ phận cây trồng ở
nước ta là cây ưa sáng như lúa ngô, khoa sắn, mía, bông,…Còn những cây ưa
bóng thường phân bố dưới tán cây rừng, dưới tán cây ăn quả lâu năm, chúng xử
dụng chủ yếu ánh sáng tán xạ để quang hợp.
- Ánh sáng không những ảnh hưởng đến sự sinh trưởng một cách gián tiếp
thông qua quang hợp mà còn tác động trực tiếp đến sự sinh trưởng của tế bào.
Cường độ ánh sáng mạnh ức chế pha giãn của tế bào làm cho giai đoạn này kết
thúc sớm hơn nên cây ở nơi có ánh sáng chiếu mạnh thường có chiều cao cây
thấp. Còn trong bóng tối hoặc bóng dâm giai đoạn giãn kéo dài hơn, cây vươn
dài và gây ra hiện tượng “Vống”.
- Chất lượng ánh sáng cũng có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng. Ánh sáng có
bước sóng dài như ánh sáng đỏ hay tia hồng ngoại kích thích giai đoạn giãn của

tế bào làm tăng chiều cao, chiều dài của cây. Ngược lại những tia sáng có bước
sóng ngắn như tia xanh tím, tia tử ngoại thì kích thích sự phân chia tế bào và ức
chế giai đoạn giãn của chúng, làm cho cây thấp lùn. Đây là một trong những lí
do mà cây trên núi cao thường thấp hơn cây ở dưới thung lũng vì ở trên cao giàu
tia sáng có bước sóng ngắn.
2.2.3.3. Nước
- Ông cha ta có câu “ nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”. Nước là yếu
tố sinh thái tối cần thiết cho sự sinh trưởng của cây, cây sinh trưởng mạnh khi tế
bào bão hòa nước. Sự thiếu bão hòa nước ở trong cây dẫn đến làm giảm sự sinh
trưởng của cây. Hạt giống phơi khô là một ví dụ điển hình khi hàm lượng nước
16


chỉ còn 10 – 12% trọng lượng khô của hạt thì hạt chuyển sang trạng thái ngừng
sinh trưởng. Nếu hạt giống hút nước và lượng nước đạt 50 – 60% lượng nước
bão hòa thì sự sinh trưởng lại phục hồi và hạt nảy mầm.
- Trong quá trình sinh trưởng của cây, ở giai đoạn giãn của tế bào nước
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trong giai đoạn này nếu thiếu nước thì kích
thước của tế bào sẽ bị giảm vì giai đoạn giãn kết thúc sớm hơn. Vì vậy ở những
vùng đất khô hạn, thiếu nước cây sẽ sinh trưởng còi cọc, có kích thước nhỏ bé
và năng suất thấp. Ở những nơi khô hạn kèm theo không khí khô nóng như mùa
gió Lào ở miền Trung thì sự thoát hơi nước của cây rất mạnh làm cho lá mất
nhiều nước nên có sức hút nước lớn sẽ hút nước của mô phân sinh, hoa, quả,…
làm cho mô phân sinh ngừng sinh trưởng, hoa quả có thể bị rụng. Ngược lại, khi
cây sống trong điều kiện ẩm ướt hay được tưới tiêu đầy đủ thì sinh trưởng mạnh
mẽ, cho năng suất cao.
- Riêng đối với các tế bào đầu rễ vì không có mô che chở như phần đầu
ngọn nên đất phải đủ ẩm thì rễ mới sinh trưởng được, hệ thống lông hút có khả
năng mẫn cảm cao với độ ẩm đất. Để giữ ẩm cho đất, ngoài biện pháp tưới tiêu
còn có nhiều khâu kỹ thuật khác như làm đất tơi xốp, phủ luống, tủ gốc,…nhằm

tạo điều kiện thuật lợi cho sự sinh trưởng phát triển của bộ rễ, nâng cao năng
suất cây trồng.
- Trong đời sống của cây, thiếu nước ở giai đoạn nào cũng ảnh hưởng
đến sinh trưởng, nhưng trong pha lớn lên của tế bào nếu thiếu nước thì sự sinh
trưởng bị kìm hãm mạnh. Đối với các loại cây hòa thảo như lúa, ngô lúc cây bắt
đầu đầy đủ lóng và hình thành hoa thì các tế bào bước qua giai đoạn giãn mạnh,
lúc này cây vươn cao rất nhanh gọi là thời kỳ làm thân.Trong giai đoạn này nếu
đủ nước thì cây mới cao to, nếu thiếu nước thì cây trở nên thấp nhỏ.
2.2.3..4. Chất dinh dưỡng
- Một trong những nhân tố ảnh hưởng quyết định tới sự sinh trưởng và
phát triển của cây rừng là tính chất đất, đặc biệt là chất dinh dưỡng trong đất.
Trong quá trình phân giải và chuyển hóa, chất dinh dưỡng khoáng thường tập
trung ở tầng đất mặt. Hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng khác nhau thì sinh
trưởng và phát triển của cây rừng sẽ khác nhau và ngược lại sự sinh trưởng và
phát triển của cây rừng cũng ảnh hưởng rất lớn tới hàm lượng chất dinh dưỡng
trong đất.

2.2.3..5. Hàm lượng oxy
17


- Cây xử dụng oxy cho hô hấp để giải phóng năng lượng cung cấp cho
mọi hoạt động sống của cơ thể. Vì vậy oxy là yếu tố quan trọng cho sự sinh
trưởng phát triển của cây .
- Nồng độ oxy trong khí quyển chiếm 21% đó là nồng độ thích hợp cho các
bộ phận trên mặt đất của cây sinh trưởng, nếu vượt qua nồng độ đó thì sự sinh
trưởng của các bộ phận trên mặt đất bị kìm hãm.
- Đối với rễ cây, vì sinh trưởng ở trong đất trong điều kiện thiếu oxy nhất là
trong các tầng đất sâu hay bị úng nước nên rất cần oxy cho sự sinh trưởng. Mặt
khác rễ cây cũng là một trung tâm hoạt động sống mạnh mẽ nên cần cung cấp

đầy đủ oxy. Khi lượng oxy trong đất giảm xuống dưới 10% thì sinh trưởng của
rễ bị giảm sút, dưới 5% thì rễ ngừng sinh trưởng, đến 3% thì rễ chết.Tuy nhiên
các loại cây khác nhau nhu cầu oxy cho bộ rễ cũng khác nhau.Chẳng hạn ở cây
lúa có hệ thống xoang bào thông từ lá qua thân đến tận rễ nên có thể sống trong
ruộng ngập nước mà không thiếu oxy. Trong khi đó một số loại cây trồng như
các loại cây màu, cây ăn quả… rễ của chúng cần rất nhiều oxy để sinh trưởng và
không thể tồn tại điều kiện ngập úng.Vì vậy những biện pháp kĩ thuật như làm
cỏ, sục bùn, xới xáo, làm đất tơi tốp, phá váng … đều nhằm tăng lượng oxy cho
đất để rễ sinh trưởng tốt, góp phần tăng năng suất cây trồng.
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Rừng trồng Bời lời đỏ trên thế giới.
- Ấn Độ: Theo nghiên cứu Tại Ấn Độ, các tác giả Bhuakuni và Gupta đã
tách được từ vỏ cây Bời lời đỏ chất Sufoof-e-Musammin dùng làm dược liệu
trong y học [5]. Gần đây, họ đã công bố những nghiên cứu về việc tìm nguồn
nguyên liệu sinh học, đặc tính của các loại dầu sinh học từ những nguồn thực vật
khác nhau như là nguồn nguyên liệu thay thế cũng đã mô tả đặc tính nguyên liệu
dầu sinh học của cây Bời lời đỏ được chế biến từ hạt cây của nó .[6]
- Indonesia: Tại hội nghị Quốc tế khác về y học dân tộc và những cây thuốc
họp tại Indonexia cũng đã xác nhận từ Bời lời đỏ có thể chiết suất một số hóa
chất dùng trong y dược .[7]
- Trung Quốc: Một tác giả khác ở Trung Quốc [8] cũng đã công bố và mô
tả cấu trúc hóa học về một số những chiết suất biệt dược mới từ cây bời lời có
tác dụng trong việc chữa bệnh được mô tả cụ thể qua nghiên cứu của Shahadat
và các cộng sự khác , theo đó thì chiết suất tinh dầu cây Bời lời đỏ có tác dụng
trong việc điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu và các bệnh lây lan qua đường
18


tình dục ở người. Ngoài ra, Bời lời đỏ là một trong số ít các loài thực vật có khả
năng tiết ra chất kháng khuẩn do trong thân và lá có chứa rất nhiều tannin,

alkaloid và saponin .
2.3.2. Rừng trồng Bời lời đỏ ở Việt Nam.
Tác giả Phạm Duy với bài viết “Gia Lai: xây dựng thương hiệu cho cây Bời
lời đỏ, 2011” đã tìm hiểu: Gia đình anh Rơ Chăm Hlíu ở làng Pok, xã Ia Khươl,
huyện Chư Pah do không đủ vốn trồng các loại cây khác như cà phê, cao su,…
nên gia đình anh quyết định trồng Bời lời đỏ. Những năm đầu bời lời còn nhỏ
anh đã trồng xen canh cây mì, mỗi năm thu nhập gần trăm triệu đồng. Khi bời
lời đã cho khai thác, để đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình, mỗi năm anh khai
thác và bán cho tư thương 1 ha với giá từ 130 triệu đồng đến 160 triệu đồng. Dễ
trồng, ít tốn công chăm bón lại sống tốt ở những vùng đất bạc màu không thể
trồng những loại cây khác là nhận định chung của hầu hết các hộ dân trồng bời
lời ở huyện Chư Pah. Hiện tại toàn huyện Chư Pah có gần 1.000 ha Bời lời đỏ,
trong đó tập trung chủ yếu ở các xã: Ia Phí, Ia Khươl, Ia Mơ Nông, Hòa Phú, thị
trấn Phú Hòa, mỗi năm các hộ nông dân nơi đây thu hoạch khoảng 100 ha cho
thu nhập lên đến hơn 10 tỷ đồng…Để tiếp tục đầu tư các chương trình mục tiêu
xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân địa phương, thời gian tới UBND huyện Chư
Pah sẽ đầu tư gần 2,5 tỷ đồng hỗ trợ giống và kỹ thuật chăm sóc cây bời lời cho
nhân dân để mở rộng diện tích lên hơn 2.000 ha giai đoạn từ nay đến năm 2015.
Đồng thời huyện cũng triển khai làm các thủ tục cần thiết để đề nghị với Sở
Khoa học và Công nghệ công nhận thương hiệu cho cây Bời lời đỏ huyện Chư
Pah, sánh ngang với thương hiệu của cây hồ tiêu ở Chư Sê. Cây bời lời được
dùng với rất nhiều mục đích: vỏ bời lời, lá bời lời được bán cho các thương lái
làm bột nhang, công nghệ keo..., gỗ bời lời được bán để dùng làm gỗ sợi ép,
giàn giáo, guốc, vỏ bút chì và các đồ gia dụng... Nghĩa là sản phẩm từ cây bời
lời khi chặt hạ không bỏ đi thứ gì từ lá đến thân gốc. Do vậy có thể nói, Bời lời
đỏ không chỉ đơn thuần là cây xóa đói giảm nghèo lý tưởng cho nông dân, nhất
là với đồng bào dân tộc thiểu số, mà trong tương lai Bời lời đỏ sẽ có thương hiệu
và là cây làm giàu cho người dân ở huyện Chư Pah nói riêng và tỉnh Gia Lai nói
chung.
Theo tác giả Mai Vy với bài viết “Trồng cây bời lời xóa nghèo ở Kon Tum,

2015” đã tìm hiểu: Với những hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng
xa như Tu Mơ Rông (Kon Tum) thì thu nhập vài chục triệu đồng/năm từ cây bời
lời đã giúp nhiều gia đình có cuộc sống ổn định hơn. Già làng A Ban (làng Đăk
Văn 2, xã Văn Xuôi) trồng cây bời lời từ nguồn giống do UBND xã cấp theo
19


chương trình giảm nghèo. Sau hai năm trồng, 1 hecta cây bời lời của gia đình
ông phát triển xanh tốt. Năm nay, diện tích cây bời lời chỉ mới cho thu hoạch tỉa
cành lớn nhưng cũng cho gia đình ông thu nhập 10 triệu đồng/đợt. Cùng với bời
lời, ông xen canh thêm cây bobo, sắn nên cuộc sống cũng khấm khá hơn.Theo
già làng A Ban, cây bời lời rất dễ trồng, chăm sóc. Sau 2 năm có thể tỉa cành, 57 năm cây trưởng thành và khoảng 20 năm mới bắt đầu trồng lại. Từ khi trồng
xuống đất đến lúc cắt tỉa cành, thu hoạch, hầu như không cần chăm bón gì. Vỏ
bời lời phơi khô được bán cho thương lái thường dùng để làm nhang với giá
khoảng 30.000-35.000 đồng/kg còn lá tươi để làm thức ăn gia súc. Với đặc tính
dễ trồng, chi phí đầu tư ban đầu thấp nên loại cây này được đánh giá là cây trồng
thoát nghèo cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn. Nhờ thu nhập mang
lại từ bời lời mà cuộc sống người dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống
từ 70% còn 32%.
2.3.3. Các công trình nghiên cứu có liên quan.
2.3.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trước đây có một số tác giả đã nghiên cứu, viết tài liệu về cây Bời lời đỏ
nhưng tập trung vào việc mô tả, phát hiện và giám định tên loài, nêu giá trị công
dụng của nó để sử dụng trong các giáo trình phân loại thực vật, cây rừng, trong
danh mục tài nguyên thực vật…Cụ thể:
- Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội 1967 đã phát hành sách: “Tên cây rừng
Việt Nam của tác giả Lê Mộng Chân và cộng sự.
- Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội 1971 đã phát hành sách: “Cây gỗ rừng
miền Bắc Việt nam” tập I của Viện điều tra quy hoạch rừng
Cả hai tài liệu nói trên mặc dù đã nêu lên về mặt phân loại học, mô tả đặc

điểm sinh học của các loài bời lời nhưng chưa đề cập đến những giá trị, công
dụng, kỹ thuật gây trồng đối với loài Bời lời đỏ
- Trong tài liệu thông tin chuyên đề “Kỹ thuật trồng Bời lời đỏ” của kỹ sư
Nguyễn Hiền, Sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Gia Lai, 1991, đã giới
thiệu một số nét cơ bản về kỹ thuật gieo ươm và trồng rừng Bời lời đỏ. Song
những đặc điểm sinh thái học của loài cây này thì hầu như chưa được đề cập tới.
- Năm 1997, trong luận văn Thạc sĩ với đề tài “Bước đầu nghiên cứu một
số đặc điểm sinh học của loài Bời lời đỏ (Litsea glutinosa C.B.Roxb) làm cơ sở
cho công tác trồng rừng tại tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Thị Lý, Trường đại học
Tây Nguyên đã xác định được một số đặc điểm sinh học: mô tả thân, cành, lá,
20


rễ, hoa, mùa và chu kỳ ra hoa, khả năng nẩy mầm, kỹ thuật gieo ươm, dự tính
sản lượng vỏ trên mô hình trồng thuần và trồng xen trong cà phê. Tuy nhiên các
dự tính sản lượng vỏ mới chỉ là tạm tính trên cơ sở giải tích một số cây cụ thể
mà chưa đưa ra được các ước lượng trên cơ sở hàm tương quan về mối quan hệ
giữa sản lượng vỏ với tuổi cây, mật độ trồng…
- Trần Văn Con (2001) trong báo cáo khoa học của Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam về đề tài Xác định một số cây trồng chính phục vụ trồng rừng
sản xuất vùng bắc Tây Nguyên, tác giả đã đề xuất trồng Bời lời đỏ trên các dạng
lập địa chính là đất đỏ nâu dưới trảng cây bụi, bằng phẳng, tương đối ẩm và đất
đỏ nâu dưới trảng cây bụi, cao nguyên bằng phẳng, khô nóng. Phương thức
trồng: Trồng theo phương thức hỗn giao, nông lâm kết hợp. Tỷ lệ hỗn giao 60%
Bời lời và 40% cây ăn quả hoặc Cà phê, với phương pháp hỗn giao theo hàng
hoặc theo đám. Cự ly hàng cách hàng 3m, cây cách cây 3m. [11]
- Năm 2005, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã xuất bản sách “Kỹ thuật
canh tác nông lâm kết hợp ở Việt Nam” do các tác giả Nguyễn Ngọc Bình và
Phạm Đức Tuấn biên soạn, trong đó đã nêu nên các đặc điểm hình thái, phân bố,
sinh thái, sinh lý, lâm sinh, kỹ thuật gieo ươm, đánh giá hiệu quả kinh tế của một

số mô hình NLKH có sử dụng cây Bời lời đỏ: Bời lời xen trong vườn cà phê,
trồng cây Đậu đỗ, Ngô, Sắn xen trong vườn bời lời. Các kết quả này chỉ là các
số liệu điều tra phỏng vấn và tổng kết lại kinh nghiệm của người dân mà chưa
đưa ra những mô hình dự tính, dự báo về hiệu quả của các hệ thống NLKH trên.
[12]
- Năm 2009, Bảo Huy và các cộng sự đã thực hiện đề tài nghiên cứu “ước
lượng năng lực hấp thụ CO2 của Bời lời đỏ (Litsea glutinosa) trong mô hình
nông lâm kết hợp Bời lời đỏ – Sắn ở huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Trong đó
nhóm tác giả đã xây dựng được một số hàm tương quan giữa sinh khối của cây
Bời lời đỏ với tuổi cây (A), biểu sản lượng… Các kết quả này đã thể hiện tương
đối đầy đủ sinh trưởng của Bời lời đỏ trên mô hình NLKH Bời lời – Sắn, giá trị
thu nhập của hệ thống…nên các kết quả này hoàn toàn có thể được sử dụng làm
tài liệu để so sánh, tham khảo trong đề tài này.
Theo nguồn báo Gia Lai (2012) trong thời điểm hiện nay cây Bời lời đỏ
không chỉ có giá trị kinh tế ổn định mà còn giải quyết được việc làm cho người
dân. Bời lời đỏ đang trở thành một loại cây “xóa đói giảm nghèo” trong các
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

21


- Ở Gia Lai những năm qua, cùng với việc phủ xanh đất trống đồi trọc bằng
các loại cây lâm nghiệp như: thông ba lá, keo, bạch đàn…, cây Bời lời cũng
được người dân các xã Lơ Pang, Đêr A, Đak Trôi, Kon Chiêng, Kon Thụp
(huyện Mang Yang) đưa vào trồng tại các rẫy, vườn hộ mà chưa nghĩ đến giá trị
kinh tế trên thị trường, vì cây Bời lời tuy nhiều công dụng khác nhau như lá
dùng để làm bột nhang, vỏ ép thành keo, thân bán gỗ… nhưng cũng trồng 5 - 7
năm mới cho thu hoạch như các loại cây lâm nghiệp khác [13].
- Theo ý tưởng nghiên cứu của anh Nguyễn Đình Hải (2011), người ta hoàn
toàn có thể sản xuất dầu Diesel từ dầu của hạt cây Bời lời để làm nhiên liệu sinh

học phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Lượng quả dồi dào của cây Bời lời đỏ, sau khi
thu hoạch quả và qua sơ chế, sẽ được đưa vào máy ép tách dầu ra khỏi quả. Qua
công nghệ sản xuất dầu diesel từ lượng dầu trên, những lít xăng từ cây Bời lời
đầu tiên ở Việt Nam sẽ ra đời. Sản phẩm có giá trị thương mại cao hơn đối với
công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm và hóa dược, cũng có thể được dùng như dầu
diesel sinh học chất lượng hoàn hảo [14].
2.3.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bời lời đỏ là một cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao nên được rất nhiều
nước trên thế giới nghiên cứu và đưa vào trồng để phát triển kinh tế. Bời lời đỏ
phân bố ở các nước như Ấn Độ, Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng
Tây, Hải Nam, Vân Nam),Bangladesh, Bhutan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia,
philippines, Australia[1].
Theo tạp chí quốc tế về Công nghệ sinh học và sinh học phân tử nghiên cứu
Bời lời đỏ (Lour) C.B Rob (Tiếng Hin-du: Maida lakri) là một cây thuốc có giá
trị dược phẩm rất lớn. Loài này cực kì nguy cấp do tình trạng khai thác bừa bãi
để dùng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm, nó được sử dụng
để sản xuất các loại thuốc giảm đau, có tác dụng hiệu quả trong điều tri tiêu chảy
và bệnh lý,.. [15].
Tại Ấn Độ các nhà khoa học Radhkrishman, Ramasani A. và Arfin S.
(1989) đã tách được từ vỏ cây Bời lời đỏ chất Sufoof- E musummin dùng làm
dược liệu trong y học [16].
Tại Indonexia, các tác giả Rizan Helmi và Zamri Adel (1989) bằng phương
pháp quang phổ đã chiết xuất từ cành rễ và vỏ cây Bời lời các chất như 2,9
dyhydroxy, 1,10 dimethoxyaporhyne, 6 methonyphenan threne 9% dùng trong y
học. Tại hội nghị quốc tế về y học dân tộc và những cây thuốc hợp tại Indonexia
năm 1990 đã xác nhận cây Bời lời đỏ có thể chiết xuất một số hóa chất dùng
22


trong y dược. Các thông tin trên cho phép khẳng định một cách chắc chắn về giá

trị kinh tế của Bời lời đỏ, nhất là trong lĩnh vực y dược [16].
Theo nghiên cứu của Rebena năm 2007 thì vỏ Bời lời đỏ chứa tinh dầu
thơm, được chiết suất dùng trong y học, làm hương thơm, nguyên liệu và làm
keo dán công nghiệp hoặc sơn, ngoài ra còn được dùng làm nhang đốt trong tín
ngưỡng tôn giáo của người dân, (Rabena, 2007). Điều này được chứng minh rõ
hơn tại một tài liệu dùng để tập huấn công tác nhân giống các loài cây dược liệu
của Somashekhar và cộng sự (2002), theo tài liệu này đã tổng kết, mô tả thực vật
và phân loại những bộ phận dùng để làm thuốc và sản xuất biệt dược của những
loài cây tại Bangalore. Trong đó, đã xác nhận bộ phận dùng để làm thuốc và sản
xuất ra biệt dược của loài cây Bời lời đỏ là thân và vỏ thân [17].
Tại hội nghị Quốc tế khác về y học dân tộc và những cây thuốc họp tại
Indonesia cũng đã xác nhận từ Bời lời đỏ có thể chiết suất một số hóa chất dùng
trong y dược (Soewarsono, 1990)[18]. Một nghiên cứu của Shahadat và cá cộng
sự khác (2010) [19]. Theo đó thì chiết suất tinh dầu cây Bời lời đỏ có tác dụng
trong việc điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu và ác loài thực vật có khả năng
tiết ra chất kháng khuẩn do tỏng thân và lá có chứa rất nhiều tannin, alkaloid và
saponin (Prustis, 2008).

PHẦN 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

23


3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu chung
- Nâng cao hiệu quả sản xuất Bời lời đỏ tại xã Húc và xã Hướng Linh,
huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng gây rừng và sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ tại xã

Húc và xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
- Đánh giá sinh trưởng rừng trông Bời lời đỏ
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất Bời lời đỏ tại
xã Húc và xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu sinh trưởng rừng
trồng Bời lời đỏ ở xã Húc và xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng
Trị.
b) Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn xã Húc và xã
Hướng Linh, huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị.
- Phạm vi thời gian: Từ ngày 25/12/2015 đến ngày 1/5/2016.
- Phạm vi số liệu: Đề tài sử dụng các số liệu từ năm 2010 đến năm 2016.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Thông tin cơ bản của hai xã Hướng Linh và xã Húc
- Điều kiện tự nhiên
-. Điều kiện kinh tế - xã hộ
3.3.2. Thực trạng gây trồng rừng Bời lời đỏ
- Diện tích rừng trồng Bời lời đỏ tại hai xã Húc và Hướng Linh, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
- Kỹ thuật trồng rừng Bời lời đỏ tại địa phương
- Kênh thị trường tiêu thụ sản phẩm

24


- Nhu cầu trồng rừng Bời lời đỏ và cơ chế, chính sách phát triển rừng
trồng Bời lời đỏ tại địa phương
3.3.3. Đánh giá sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ
Sinh trưởng và tăng trưởng rừng trồng Bời lời

- Mật độ rừng trồng hiện còn
- Sinh trưởng về chiều cao, đường kính và độ dày vỏ rừng trồng Bời lời
đỏ ở các độ tuổi khác nhau
- Thể tích và trữ lượng rừng trồng Bời lời đỏ các độ tuổi tại địa bàn
nghiên cứu
- Năng suất và sản lượng rừng trồng Bời lời đỏ
3.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng rừng trồng Bời lời đỏ
- Điều kiện lập địa
- Phương thức trồng rừng
- Thời vụ trồng rừng
- Kỹ thuật chăm sóc và mật độ trồng rừng
- Nguồn giống
3.3.5. Giải pháp phát triển rừng trồng Bời lời đỏ ở xã Húc và xã Hướng
Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
- Giải pháp về kỹ thuật
- Giải pháp về chính sách
- Giải pháp về xã hội
3.4. Phương pháp nghiên cứu:
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu chung
- Tại 2 xã :Xã Húc và xã Hướng Linh huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị,
mỗi xã sẽ chọn ra các thôn điển hình có trồng cây bời lời để để nghiên cứu.
3.4.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu:
- Áp dụng phương pháp điều tra khảo sát, thu thập và phân tích số liệu
nghiên cứu
- Sử dụng thống kê toán họ trong lâm nghiệp để xử lí sô liệu nghiê cứu
25


×