Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững tại công ty lâm nghiệp bến hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.61 KB, 83 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Lâm nghiệp

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý và
phát triển rừng bền vững tại công ty Lâm nghiệp Bến Hải

Sinh viên thực hiện: Đặng Hoàng Lan
Lớp: Lâm nghiệp 46
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Thái Dương
Bộ môn: Lâm sinh

1


2

NĂM 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Lâm nghiệp

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP


TÊN ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý và
phát triển rừng bền vững tại công ty Lâm nghiệp Bến Hải

Sinh viên thực hiện: Đặng Hoàng Lan
Lớp: Lâm nghiệp 46
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Thái Dương
Bộ môn: Lâm sinh
Địa điểm thực hiện: Công ty Lâm Nghiệp Bến Hải
Thời gian thực hiện: 28/12/2015 -20/5/2016

2


3

NĂM 2016
Lời Cám Ơn
Để hoàn thành khóa học và báo cáo tốt nghiệp này, trong thời gian thực
tập ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi xin chân thành cám ơn quý thầy, cô giáo
Khoa Lâm Nghiệp đã giảng dạy và truyền đạt những kiến thức trong quá
trình học tập tại trường Đại Học Nông Lâm Huế. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đặng Thái Dương là người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tôi trong quá trình thực tập để hoàn
thành đề tài của mình.
Trong thời gian thực tập tôi xin chân thành cám ơn sự quan tâm lãnh
đạo và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị công tác tại công ty Lâm
nghiệp Bến Hải, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong công việc thu thập số liệu, tài liệu phục vụ cho việc tiến hành Đề
tài.

Đến nay, đề tài đã được hoàn thành nhưng vì thời gian cũng như trình độ
bản thân và kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ chuyên môn còn hạn
chế nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp của quý Thầy,cô giáo,các cấp lãnh đạo các
anh chị bạn bè đồng nghiệp để tôi có thể rút ra những kinh nghiệm cho những
nghiên cứu sau.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế , ngày 20 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Đặng Hoàng Lan

3


4

4


5

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC HÌNH

5


6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

6

Chú giải

CTLN

Công ty lâm nghiệp

LN

Lâm nghiệp

QLRBV

Quản lý rừng bền vững

NN-PTNT

Nông nghiệp – Phát triển nông thôn

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng

TNHHMTV


Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

QLPTR

Quản lý phát triển rừng

QLPTRBV

Quản lý phát triển rừng bền vững

ĐVR

Động vật rừng

UBND

Ủy ban nhân dân

PCCCR

Phòng cháy chữa cháy rừng

BQL

Ban quản lý

BQLPH

Ban quản lý phòng hộ


HGĐ

Hộ gia đình

KHQLR

Kế hoạch quản lý rừng


7

MỤC LỤC

7


8

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên quý báu của quốc gia, là bộ phận quan trọng của môi
trường sống, có giá trị lớn đối với nền kinh tế đất nước, gắn liền với đời sống
nhân dân và sự sống còn của loài người. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, rừng
đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, giúp đồng bào khắc phục hậu quả của chiến tranh và hơn hết là cung cấp
sản phẩm cho phát triển kinh tế. Rừng đóng vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống của con người.
Tuy nhiên, đã có nhiều nguyên nhân khiến rừng ngày càng bị thu hẹp đó
là áp lực về dân số ở các vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ
yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn

thấp ,kiến thức bản địa chưa được phát huy, hoạt động khuyến nông khuyến
lâm chưa phát triển, chính sách nhà nước về quản lý bảo vệ rừng còn nhiều
bất cập, cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi . Suy thoái tài nguyên
rừng đã làm cho đất đai bị xói mòn, lũ lụt xảy ra với tần suất cao, môi trường
khí hậu biến đổi và diễn biến phức tạp đe dọa tính mạng, tài sản và sự phát
triển bền vững của đất nước.
Vì vậy, vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ngày càng được các quốc
gia, các cấp chính quyền coi trọng, đánh dấu sự nhận thức của con người bắt
đầu chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà những lo ngại về sự suy
kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự xuống cấp của môi trường toàn cầu
ngày càng tăng trong khi những mong muốn về sự tồn tại và phát triển lâu
dài của nhân loại lại cũng không hề giảm xuống. Có nhiều quan điểm khác
nhau về vấn đề QLPTR, đặc biệt là công tác quản lý và phát triển rùng theo
hướng bền vững, nhưng tựu chung đều có ý nghĩa như sau: “Quản lý rừng bền
vững là quá trình quản lý rừng để đạt được một hay nhiều mục tiêu cụ thể
đồng thời xem xét đến việc phát triển sản xuất dịch vụ và sản phẩm lâm
nghiệp, đồng thời không làm giảm giá trị hiện có và ảnh hưởng đến năng suất
sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và
8


9

xã hội”.[12]
Công ty TNHHMTV Lâm nghiệp Bến Hải (sau đây gọi tắt là Công ty Lâm
nghiệp Bến Hải) tại huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị là doanh nghiệp nhà
nước hạng I, đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực lâm nghiệp,
là doanh nghiệp đi đầu trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất

là quản lý, phát triển rừng bền vững, với địa bàn sản xuất trải dài trên diện
rộng; tổng diện tích được giao quản lý gần 10.000 ha rừng và đất rừng thuộc
6 xã miền Tây huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị), kéo dài tiếp giáp tỉnh Quảng Bình
và biên giới nước bạn Lào, nên tình hình an ninh trật tự nảy sinh không ít vấn
đề khó khăn, nhất là trên lĩnh vực bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường sinh
thái. Bên cạnh đó, đời sống của đại đa số người dân ở những xã miền tây Vĩnh
Linh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các xã có đông đồng bào dân tộc ít
người, cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng nên tình hình an ninh trật tự diễn
biến phức tạp; nạn xâm canh, lấn chiếm đất đai, khai thác gỗ rừng trái phép,
nạn đốt phá rừng diễn ra thường xuyên và kéo dài. Nhận thức về thực trạng
và những tồn tại cần khắc phục của công tác quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng bền vững và từ đó đưa ra những giải pháp, định hướng hoạt động cho
công ty Lâm nghiệp Bến Hải tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hiện
trạng và đề xuất giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững tại công
ty Lâm nghiệp Bến Hải”

9


10

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững trên thế
giới
2.1.1. Phát triển bền vững
Đầu thập niên 80, thuật ngữ “phát triển bền vững” lần đầu tiên được sử
dụng trong chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài
nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình
môi trường Liên hiệp quốc đề xuất, cùng sự trợ giúp của UNESCO và FAO với

nội dung rất đơn giản "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng
tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội
và sự tác động đến môi trường sinh thái học".[19]
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường
và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi
rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu
hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai..."[20] .Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo
đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được
bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội,
nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục
đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. Phát triển kinh
tế (quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (quan trọng
nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết
việc làm) và bảo vệ môi trường (quan trọng nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm,
phục hồi cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy rừng và chặt
phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng
lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm
chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm
chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên
quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát
triển bền vững.
10


11

2.1.2. Quản lý rừng bền vững

Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên hai định nghĩa phổ biến
và được công nhận rộng rãi nhất là của ITTO và trong tiến trình Hensinki.
Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm
phần ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách
rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng
mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất
tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối
với môi trường tự nhiên và xã hội”
Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và
đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học,
năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và
trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa
phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ
sinh thái khác”.
Các định nghĩa trên đều tập trung vào các vấn đề chính là: quản lý rừng
ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm
bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội. Các yếu tố của QLRBV là: (i) Có
khuôn khổ chính sách và pháp lý; (ii) Sản xuất lâm sản bền vững; (iii) Bảo vệ
được môi trường; (iv) Đảm bảo lợi ích con người; (v) Đối với rừng trồng, có
các cân nhắc áp dụng cụ thể phù hợp.[4]
Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia
(Canada, Malaysia, Indonexia...) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến
trình Montreal. FSC và ITTO đã có bộ tiêu chuẩn của quản lý rừng được vận
dụng rất rộng rãi để đánh giá quản lý rừng ở nhiều nước.
2.1.3. Chứng chỉ rừng FSC
Vấn đề cấp chứng chỉ rừng là một biện pháp để đảm bảo quản lý rừng
bền vững và hợp lý về mặt môi trường tuy nhiên nó cũng không thể thay thế
hoàn toàn cho các công cụ khác như pháp luật, giáo dục và tuyên truyền.
Chứng chỉ rừng tác động vào đơn vị quản lý rừng, do đó không ảnh hưởng
đến việc lập kế hoạch sử dụng đất và chính sách quốc gia. Việc sử dụng các

công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường được các chuyên gia kinh tế và các tổ
chức như Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới
11


12

khuyến khích trong hai thập kỷ vừa qua.
Chứng chỉ rừng đảm bảo rằng tất cả các hoạt động lâm nghiệp cần được
thực hiện với sự đồng thuận của các nhóm dân tộc hoặc cộng đồng địa
phương. Về kinh tế, chủ rừng cần phải cố gắng đạt được việc sử dụng tối ưu
và chế biến tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu các tác động
tiêu cực đến môi trường nơi khai thác và chế biến. Sản phẩm khi có dấu
chứng nhận hợp chuẩn chứng chỉ rừng sẽ được cộng đồng tiêu thụ đánh giá
tốt hơn, chấp nhận mua với giá cao hơn. Chứng chỉ rừng không chỉ làm thay
đổi giá trị của hàng hóa mà trong nhiều trường hợp nó còn làm thay đổi thái
độ của doanh nghiệp với rừng nói riêng và môi trường nói chung.
Chứng chỉ rừng hỗ trợ rất nhiều cho vấn đề quản lý rừng bền vững. Ví dụ,
khi chứng nhận nguyên liệu gỗ hợp chuẩn người ta sẽ lưu ý đến việc khai thác
gỗ có làm ảnh hưởng xấu đến các phương thức sử dụng rừng truyền thống
như thu lượm hoa, quả, củi, vật liệu xây dựng hoặc cây thuốc của những
người dân sống trong vùng đó không, đặc biệt là những nhóm người dân tộc
thiểu số. Chứng chỉ rừng không chỉ đem lợi ích đến cho doanh nghiệp chế biến
lâm sản mà cả những đơn vị trồng rừng cũng được hưởng nhiều lợi ích khi có
được chứng nhận này[1].
FSC là tổ chức uy tín nhất và chứng chỉ FSC được mọi thị trường chấp
nhận, kể các Bắc Mỹ, và Tây Âu[8]. FSC được thành lập vào tháng 10/1993 tại
Toronto – Canada bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc
gia, bao gồm đại diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng
đồng dân bản xứ, đại diện các ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng

chỉ[1]. FSC cấp chứng chỉ QLRBV cho rừng ôn đới, nhiệt đới, rừng tự nhiên,
rừng trồng và đang mở rộng ra rừng sản xuất lâm sản ngoài gỗ[3]. Tổ chức
này có trụ sở chính đặt tại thành phố Bonn – Đức có cấu trúc quản trị duy
nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham gia, dân chủ, công bằng. Năm 1994 các
nguyên tắc và tiêu chí FSC cùng với Quy định FSC (hiện tại gọi là Quy chế) đã
được các thành viên sáng lập phê duyệt[5].
FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành
nhóm xã hội, nhóm môi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra
thành nhóm Bắc (các nước công nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát
triển). Bất kỳ ai hỗ trợ cải thiện quản lý rừng trên thế giới đều có thể trở
thành thành viên của FSC.
12


13

FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại
Anh, Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á – Thái Bình
Dương, Công ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện
phần lớn việc đánh giá và cấp CCR.

13


14

Các lợi ích FSC mang đến:
- Lợi ích về môi trường: Đảm bảo cho tất cả mọi người tham gia vào
thương mại lâm sản rằng các đóng góp của họ sẽ giúp đỡ việc bảo tồn hơn là
hủy diệt rừng, con người và cuộc sống thông qua các hoạt động: (1) Bảo tồn

đa dạng sinh học và các giá trị khác như nước, đất.....; (2) Duy trì các chức
năng sinh thái và thể thống nhất của rừng; (3) Bảo vệ các loại động, thực vật
quý hiếm và môi trường sống của chúng.
- Lợi ích về xã hội: Đảm bảo quyền con người được tôn trọng. Nhiệm vụ
chính là yêu cầu có sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan khi xây
dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia hay khu vực.
- Lợi ích về kinh tế: Đó là chủ rừng cần phải cố gắng đạt được cách sử
dụng tối ưu và chế biến tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu
các tác động tiêu cực đến môi trường nơi khai thác và chế biến.
FSC cấp 02 loại chứng chỉ dưới đây:
- Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM (FSC forest management certification)
- Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC (FSC chain of custody
certification )
Trong quá trình đánh giá cấp chứng chỉ sẽ có hoạt động kiểm soát gỗ
(FSC Controlled Wood)
Hiện nay có 18 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC,
thời hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và luôn kiểm tra chất lượng.
Quá trình đánh giá để cấp chứng chỉ FSC được thực hiện bởi tổ chức độc
lập gọi là cơ quan đánh giá quản lý rừng. Tổ chức này đánh giá quản lý rừng
đối với các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC cũng như các tiêu chuẩn quốc gia.
Do FSC không đánh giá cấp chứng chỉ nên điều này cho phép FSC vẫn độc lập
với quá trình đánh giá và hỗ trợ tính toàn vẹn của hệ thống chứng nhận FSC.
Các Nguyên tắc của FSC:
Nguyên tắc 1: Phù hợp với tất cả điều luật và công ước quốc tế
Nguyên tắc 2: Quyền và trách nhiệm sử dụng đất
Nguyên tắc 3: Quyền người dân sở tại
14


15


Nguyên tắc 4: Quan hệ công đồng và quyền của công nhân.
Nguyên tắc 5: Những lợi ích từ rừng
Nguyên tắc 6: Tác động môi trường
Nguyên tắc 7: Kế hoạch quản lý
Nguyên tắc 8: Giám sát và đánh giá
Nguyên tắc 9: Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao
Nguyên tắc 10: Rừng trồng
Các nguyên tắc về xã hội: nguyên tắc 2, 3, 4, 5
Các nguyên tắc về môi trường: nguyên tắc 6, 7, 9
Các nguyên tắc về tuân thủ luật pháp: nguyên tắc 1 và 2
Các quá trình giám sát và quản lý là nguyên tắc 8, nguyên tắc này cũng
liên quan đến chuỗi hành trình sản phẩm.
Các khu rừng trồng: nguyên tắc 10
Các nguyên tắc liên quan đến kinh tế: tiêu chí và chỉ số của nguyên tắc
được thể hiện rõ ở hai nội dung đầu nhưng nguyên tắc kinh tế của nó lại
không được thể hiện rõ: giá chuyển đổi, giá cố định, hoạt động xã hội và môi
trường có thể bị ảnh hưởng bởi giá chuyển đổi trong ngành. Các nguyên tắc
có liên quan: 5, 7 và 8.
Nếu chủ rừng tuân thủ đầy đủ các yêu cầu FSC, FSC sẽ trao chứng chỉ.
Nếu chủ rừng còn thiếu một số điều kiện, chủ rừng phải hoàn thành
chúng trong một thời gian cụ thể trước khi nhận chứng chỉ.
FM cũng được cấp cho rừng trồng thể hiện ở tiêu chuẩn 10.
Để thương mại lâm sản với logo FSC và yêu cầu bồi thường, người quản
lý rừng phải có chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm. Nó đảm bảo rằng sản
phẩm có nguồn gốc từ một khu rừng đã được cấp chứng chỉ cho người tiêu
dùng.
2.2. Tình hình về phát triển bền vững và quản lý rừng bền vững tại Việt
Nam
2.2.1. Nhận thức về phát triển bền vững và QLRBV

15


16

Khái niệm “bền vững” được thế giới sử dụng từ những năm đầu thế kỷ
18 là tiền đề cho QLRBV sau này, thì đến mãi cuối thế kỷ 20 Việt Nam mới
dùng khái niệm “điều chế rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp. Đến nay,
khái niệm này vẫn được coi là công cụ truyền thống để quản lý rừng theo
phương án điều chế thực hiện theo những quy định trong Quyết định
40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác[10].
Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức
quốc tế phát động 1 phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước, thông
qua hội thảo quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ
Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm
12 thành viên thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng tổ chức
để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến
trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp
thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của
FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận thuộc
Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng
chỉ rừng).
Các hoạt động chủ yếu của NWG là:
- Dựa trên cơ sở 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự
thảo tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam,
song vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã
lấy ý kiến nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên
gia FSC sang dự hội thảo góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định.
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên

quan và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng.
- Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho
chuyên gia Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp.
- Đánh giá chất lượng quản lý rừng khu rừng.
- Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện.
Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010
đã xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ
16


17

chốt. Vào đầu năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 20062020 đã được ban hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc
gia với năm chương trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương
trình trọng điểm của chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích
rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được cấp chứng chỉ.
Như vậy, các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính
sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện
trong các văn bản pháp quy dưới đây:
+ Luật Đất đai, năm 2003 quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các
nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. (Điều 11).
+ Luật Bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Điều 9 đã quy định các hoạt
động để đảm bảo QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm
bảo PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng
quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương;
tuân theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
+ Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa

ra những quy định liên quan tới QLRBV thuộc các lĩnh vực: điều tra, đánh giá,
lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ thiên nhiên; bảo vệ đa
dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi trường
trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; phát triển
năng lượng sạch.
+ Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng
chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 20062020, có một Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là
“Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm
2020, thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu
hecta đất qui hoạch cho Lâm nghiệp...”. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và
để đạt được mục tiêu này cần thiết phải xác lập được những định hướng mới
trong phát triển nguồn lực trong QLRBV thông qua các chương trình đào tạo,
hợp tác và nghiên cứu 5 chương trình trọng điểm của Chiến lược là:
17


18

(1) Quản lý và phát triển rừng bền vững (QLRBV)
(2) Bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH và phát triển dịch vụ môi trường.
(3) Chế biến thương mại lâm sản.
(4) Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm.
(5) Đổi mới thể chế chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
2.2.2. Kế hoạch QLRBV tại Việt Nam
Ngày 19/7/1989, Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Chỉ thị 15-LSCNR về công
tác xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường, trong đó
hướng dẫn việc xây dựng phương án và quy định kể từ 1991 việc khai thác,
quản lý khai thác phải căn cứ vào phương án điều chế. Sở dĩ chỉ xây dựng
phương án điều chế rừng đơn giản là do thiếu kinh phí, không có điều kiện
xác định chính xác tài nguyên rừng, các cơ sở khoa học để xác định các chỉ

tiêu liên quan đến khai thác còn chưa được nghiên cứu đầy đủ mà chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm. Trong phương án của một lâm trường đã thể hiện được
3 nội dung chủ yếu sau:
Phần hiện trạng
-

Vị trí địa lý.

-

Hiện trạng tài nguyên rừng, đất đai.

-

Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.

-

Tình hình quản lý kinh doanh rừng 5 năm trước đây.
Phần quy hoạch

-

Phân chia các tiểu khu theo rừng phòng hộ và rừng sản xuất

-

Phân chia thành các phân trường hoặc đội sản xuất.

-


Xác định các biện pháp tác động: khai thác, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng, làm
giầu rừng, nông lâm kết hợp cho từng đối tượng...

-

Xác định mạng lưới đường.
Phần kế hoạch tác nghiệp

-

Kế hoạch khai thác cho một luân kỳ 35 năm

-

Kế hoạch tác nghiệp cho 5 năm trước mắt
18


19

-

Trong kế hoạch khai thác tính toán diện tích, sản lượng được phép khai thác
hàng năm, xác định tiểu khu đưa vào khai thác trong 5 năm đầu.

-

Sau 5 năm thực hiện sẽ được phúc tra lại về tài nguyên, đánh giá tình hình
thực hiện và xây dựng lại kế hoạch cho giai đoạn 5 năm tiếp theo.

Ưu điểm của phương án là cơ sở tốt để quản lý rừng, đặc biệt là khai
thác, nó trả lời được 5 câu hỏi cho người quản lý là làm gì (khai thác, trồng
rừng, chăm sóc, xây dựng hạ tầng…); ở đâu (ở lô, khoảnh, tiểu khu nào); bao
nhiêu (khối lượng công việc); vào thời điểm nào (thời gian thực hiện) và làm
như thế nào (biện pháp kỹ thuật, kinh tế, tài chính, nhân lực…)
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những khiếm khuyết trong việc lập và thực hiện kế
hoạch khai thác như: mới chú trọng nhiều đến QLRBV về mặt kinh tế, còn bền
vững về mặt xã hội và môi trường chưa được quan tâm đầy đủ; về mặt kỹ
thuật, các chỉ tiêu kỹ thuật khai thác mới chỉ được xác định dựa vào kinh
nghiệm trong và ngoài nước, chưa được nghiên cứu để có một cơ sở khoa
hoặc chắc chắn; chưa xác định chính xác lượng tăng trưởng rừng và không
đủ điều kiện để xác định chính xác trữ lượng rừng, dẫn đến không xác định
được chính xác lượng khai thác (yếu tố quan trọng bảo đảm khai thác rừng
bền vững).
Đặc biệt trong lập kế hoạch chưa chú ý đến xác định các khu vực loại trừ,
chưa xác địa hệ thống đường cho toàn bộ các khu khai thác, mặc dầu đã được
quy định trong hướng dẫn xây dựng phương án điều chế. Các phương án bảo
vệ hệ sinh thái đặc thù, bảo vệ đa dạng sinh học…được xác định rõ ràng.
Ở Việt Nam, khi chuyển đổi các phương thức quản lý thông thường sang
phương thức QLRBV đòi hỏi sẽ phải thay đổi một loạt khuôn khổ chính sách ở
cấp trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất
kinh doanh lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Tính phức tạp
không chỉ thể hiện trên khía cạnh chính sách, công nghệ mà còn về sinh thái,
kinh tế, xã hội, đặc biệt là nhận thức về CCR. Việc xác định các tiêu chuẩn
QLRBV cho mỗi hệ sinh thái của Việt Nam gặp khó khăn do tính đa dạng phức
tạp của nó. Các lợi ích từ quản lý và bảo vệ rừng chưa hấp dẫn người dân
sống trong vùng rừng nên sự tham gia của họ còn rất hạn chế. Nguồn vốn cho
các hoạt động còn thiếu, thiếu cả cơ chế đảm bảo tham gia của các đối tượng
hữu quan vào quản lý rừng. Chi phí để đạt tiêu chuẩn CCR lại quá cao, cao
19



20

hơn so với giá bán gỗ đã được cấp chứng chỉ.
Nhưng cần nhìn vào lợi ích trong tương lai, QLRBV là xu thế tất yếu đối
với đơn vị kinh doanh lâm nghiệp. Những khó khăn trở ngại nêu trên trở
thành những thách thức đối với các nhà lâm nghiệp trong quá trình chuyển
đổi quản lý rừng theo hướng bền vững mà trong đó nghiên cứu để tìm tòi một
phương pháp lập kế hoạch QLRBV là bước ban đầu rất quan trọng.
Mục tiêu của CTLN Bến Hải là quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững
tuy nhiên trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng còn tồn tại nhiều
thiếu sót vậy nên đề tài : “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp
quản lý và phát triển rừng bền vững tại công ty Lâm nghiệp Bến Hải”
nhằm đánh giá những công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của công ty
đồng thời đưa ra một số giải pháp, định hướng cho hoạt động của công ty
trong thời gian tới.

PHẦN 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
3.1.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được hiện trạng rừng; hiện trạng quản lý và phát triển rừng
bền vững. Làm cơ sở để đề xuất các giải pháp quản lý và phát triển rừng bền
vững phù hợp tại công ty Lâm nghiệp Bến Hải.
3.1.2.Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiện trạng rừng.
- Đánh giá hiện trạng quản lý và phát triển rừng bền vững tại CTLN Bến
Hải.
- Đánh giá quản lý rừng theo 10 nguyên tắc QLRBV của FSC.

- Đề xuất giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của công ty Lâm nghiệp Bến Hải
20


21

- Điều kiện tự nhiên;
- Điều kiện kinh tế - xã hội;
- Thực trạng kinh tế và tình hình sản xuất kinh doanh
3.2.2. Đánh giá hiện trạng rừng CTLN Bến Hải đang quản lý
- Diện tích rừng trồng
- Diện tích rừng tự nhiên
3.2.3. Đánh giá hiện trạng quản lý rừng và bảo vệ rừng tại CTLN Bến
Hải
- Đánh giá tình hình quản lý rừng của công ty.
- Đánh giá quản lý rừng theo 10 nguyên tắc QLRBV của FSC.
- Xác định các lỗi không tuân thủ trong quản lý rừng của Công ty.
3.2.4. Đề xuất giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững

21


22

3.3. Phương Pháp Nghiên Cứu
3.3.1 Phương pháp thu thập số liệu
a) Thu thập số liệu sơ cấp
- Lập ô tiêu chuẩn để đánh giá so sánh chọn loài, dạng lập dịa, dạng

rừng, mô hình trồng rừng để phát triển phù hợp tại CTLN Bến Hải.
- Điều tra, phỏng vấn người dân, cán bộ quản lý bằng bộ câu hỏi.
b) Thu thập số liệu thứ cấp
- Kế thừa các tài liệu từ CTLN Bến Hải, các cơ quan địa phương.
- Tìm hiểu các thông tin từ mạng internet.
- Thu thập bản đồ hiện trạng các loại rừng.
- Tìm hiểu quản lý rừng theo chứng chỉ rừng FSC.
3.3.2. Xử lý số liệu
- Phân tích đa tiêu chí AHP để xác định được giải pháp quản lý và phát
triển các loại rừng phù hợp.
- Tổng hợp phân tích, đánh giá để lựa chọn giải pháp quản lý phù hợp.
- Phân tích SWOT để lựa chọn giải pháp quản lý phù hợp.
- Phân tích phương sai để chọn loài và dạng lập địa cây trồng.
- Tìm hiểu quản lý rừng theo chứng chỉ rừng FSC.
3.4. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của Công ty Lâm nghiệp Bến
Hải.

22


23

PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của công ty Lâm nghiệp Bến Hải
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1.Vị trí địa lý
CTLN Bến Hải nằm trên địa bàn hành chính của 6 xã (Vĩnh Thủy, Vĩnh
Sơn, Vĩnh Long, Vĩnh Khê, Vĩnh Chấp, Vĩnh Hà) thuộc huyện Vĩnh Linh tỉnh

Quảng Trị có vị trí và tọa độ địa lý như sau:
+ Từ 170 10’ 00’’ đến 170 40’ 00’’ vĩ độ Bắc.
+ Từ 1060 00’ 00’’ đến 1070 00’ 00’’ kinh độ Đông.

Hình 4.1. Bản đồ các đơn vị sản xuất của công ty Lâm nghiệp Bến Hải
- Phạm vi ranh giới:
- Phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
- Phía Nam giáp xã Vĩnh Trường huyện Gio Linh.
- Phía Đông giáp xã Vĩnh Tú huyện Vinh Linh.
23


24

- Phía Tây giáp xã Vĩnh Ô - huyện Vĩnh Linh.

24


25

4.1.1.2. Địa hình, địa thế
Địa hình khu nghiên cứu thuộc vùng núi thấp, điểm thấp nhất có độ cao
gần 70m (phía Đông Nam TK 586), điểm cao nhất có độ cao 362m (phía Tây
TK 585). Độ cao so với mặt biển giảm dần từ Tây sang Đông và thấp dần từ
Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình ít bị chia cắt, độ dốc biến động từ 80 -250.
Nhìn chung địa hình chủ yếu là đồi thấp, độ cao tuyệt đối lớn nhất là 150m, độ
dốc 8-120, gồm các kiểu địa hình chính sau:
- Kiểu địa hình đồi cao (độ cao tuyệt đối 200-300 m), độ dốc bình quân
250, chiếm 12% diện tích. Điển hình là các tiểu khu 555 và 556.

- Kiểu địa hình đồi thấp và trung bình (độ cao tuyệt đối < 200 m) có độ
dốc bình quân 150, chiếm 80% diện tích. Điển hình là các tiểu khu 544, 547,
548, 549, 560, 562, 563, 571 và 572.
Diện tích Công ty quản lý có nhiều lợi thế về địa lý và kinh tế, thể hiện qua
các yếu tố sau:
Trên địa bàn có nhiều tuyến giao thông nội vùng từ quốc lộ 1A trung tâm
huyện lỵ nối liền với các xã trung du miền núi, có lực lượng lao động nhàn rỗi
nên thuận lợi về giao thông đi lại và thuê mướn lao động.
4.1.1.3. Khí hậu và thủy văn
1. Khí hậu
- Khí hậu khu vực mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Nhiệt độ trung bình năm từ 23-25 0C, nhiệt độ tháng cao nhất (tháng 6 đến
tháng 7) khoảng 350C, có ngày nhiệt độ trên 40 0C, tháng thấp nhất (tháng 1
và tháng 12) khoảng 180C có khi xuống tới 8-90C.
- Độ ẩm không khí trung bình năm 85%, phân thành 2 mùa rõ rệt: mùa
khô nóng kéo dài 4 tháng, từ tháng 5 đến tháng 8 với độ ẩm trung bình từ 7080% và đạt cực tiểu vào tháng 7 xuống 65 – 70%; độ ẩm tăng nhanh khi
bước vào mùa mưa và duy trì ở mức cao, với độ ẩm trung bình từ 85 –90%.
- Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước kéo dài đến tháng 2 năm sau,
đạt cực đại vào tháng 10,11, chiếm 70% lượng mưa năm. Từ tháng 3 đến
tháng 7 lượng mưa ít nhất, tổng lượng mưa trong thời kỳ này chỉ chiếm dưới
30% lượng mưa năm. Tổng lượng mưa bình quân năm từ là 2.376mm.
25


×