Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tìm hiểu thực trạng và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo vệ rừng tại huyện thăng bình, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.13 KB, 53 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Vốn được mệnh danh là "lá phổi " của trái đất, rừng có vai trò rất quan
trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh
chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội
dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới
trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị
huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của
con người gây ra.
Như vậy có thể thấy rừng là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng trong đời
sống con người, rừng có vai trò rất lớn trong việc cải tạo môi trường sống,
phòng hộ, chắn sóng, chắn cát, giữ đất,giữ nước, điều hòa dòng chảy, cung cấp
củi gỗ, các loại dược liệu, lâm đặc sản, ngoài ra còn cung cấp nguyên vật liệu
cho một số ngành công nghiệp góp phần làm phát triển nền kinh tế quốc dân
đem lại nhiều lợi ích cho con người, những lợi ích mà tài nguyên rừng mang lại
là vô cùng to lớn và không thể nào đo đếm được hết vai trò của nó. Vì vậy công
tác quản lý, bảo vệ rừng hiện nay đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm.
Trong những năm qua để thực hiện tốt công tác quản lý,bảo vệ rừng, Nhà
nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách, văn bản quy phạm pháp luật quy
định trong lĩnh vực thi hành pháp lệnh quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Nhà
nước cũng đã đầu tư kinh phí phát triển vốn rừng, thành lập các khu bảo tồn và
khuyến khích mọi tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước trong hoạt động
trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc, khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh
rừng. Những hoạt động này có ý nghĩa hết sức to lớn về mặt kinh tế, khoa học
môi trường và an ninh quốc phòng....Tuy nhiên do một số nguyên nhân khách
quan và chủ quan như lực lượng quản lý bảo vệ rừng quá mỏng, thiếu kinh phí
đầu tư, các chính sách bảo vệ rừng còn chưa mạnh...nên tình trạng xâm hại đến
tài nguyên rừng nghiêm trọng vẫn xảy ra ở một số nơi, làm cho diện tích rừng
ngày càng bị thu hẹp, chất lượng và trữ lượng rừng giảm sút. Nhiều loài động
thực vật bị khai thác quá mức làm suy giảm tính đa dạng sinh học và số loài có


nguy cơ đe dọa tuyệt chủng tăng lên. Do đó, công tác quản lý, bảo vệ rừng cần
được quan tâm đúng mức.
Quảng Nam là một tỉnh duyên hải miền Trung. Diện tích rừng tự nhiên trên
toàn tỉnh chiếm diện tích rất lớn (chiếm 42% tổng diện tích tự nhiên) và 60%
1


dân số trên địa bàn tỉnh sống dựa vào rừng. Tài nguyên rừng ở Quảng Nam rất
đa dạng,phong phú,có nhiều loài thực vật quý hiếm như: Lim, Hương, Trắc,
Huê,... .Trên địa bàn cũng đã ghi nhận nhiều loại động vật quý hiếm được ghi
vào sách đỏ Việt Nam như Gấu, Chồn bay, Khỉ, Hươu,...Trong những năm qua
tài nguyên rừng ở Quảng Nam đang bị tàn phá quá mức với nhiều hình thức như
khai thác, vận chuyển, buôn bán động thực vật hoang dã trái phép đã làm ảnh
hưởng đến môi trường sinh thái, làm cho tài nguyên rừng trên toàn tỉnh ngày
càng hạn hẹp.
Thăng Bình là một huyện nằm giữa tỉnh Quảng Nam, có thị trấn Hà Lam
làm huyện lỵ, Thăng Bình nằm ở tọa độ 150 0 30’ đến 1500 59’ vĩ độ Bắc và từ
1080 7’đến 1080 30’ kinh độ Đông, có tổng diện tích đất đai là 385,6km 2. Đất đai
ở Thăng Bình chia làm nhiều vùng khác nhau: vùng ven biển chủ yếu là đất cát
trắng; vùng đồng bằng trung du bán sơn địa và miền núi, đất đai khô cằn, bạc
màu hoặc bị đá ong hóa. Hiện nay diện tích gò đồi, núi trọc chiếm 2/5 diện tích
đất đai của huyện. Công tác quản lý và bảo vệ rừng gặp nhiều trở ngại, lực lượng
bảo vệ rừng còn mỏng, công tác tuần tra, kiểm soát, bảo vệ rừng còn hạn chế.
Công tác phối hợp giữa các ngành chức năng, chính quyền địa phương và các
chủ rừng chưa được quan tâm đúng mức, việc xử lý các hành vi vi phạm có lúc
còn thiếu kiên quyết chưa đủ sức răn đe. Để hiểu rõ hơn về thực trạng bảo vệ
rừng và đất rừng trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Trước những
yêu cầu thực tiễn như vậy, được sự giúp đỡ của trường đại học Nông Lâm Huế,
căn cứ vào tình hình thực tiễn tại địa phương trong công tác quản lý, bảo vệ và
phát triển rừng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:‘‘Tìm hiểu thực trạng và

phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo vệ rừng tại
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam’’.

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
Rừng là một trong ba nhân tố quyết định đến tiến trình phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Do đó nhu cầu bảo vệ, phát triển rừng trở nên cần thiết của
mỗi quốc gia cũng như toàn xã hội. Bên cạnh đó rừng bảo vệ cho hệ thống canh
tác nông nghiệp trước những bất lợi của thời tiết, rừng giữ đất, giữ nước, cung
cấp dinh dưỡng cho sản xuất nông nghiệp. Không những thế rừng còn đóng vai
trò quan trọng đối với môi trường sống của nhân loại, ngoài tác dụng là“ lá phổi
xanh ” rừng còn có tác dụng khác như chống hạn hán, lũ lụt, chống lỡ đất, hạn
chế sức mạnh của gió bão.
Bảo vệ rừng là vấn đề của toàn xã hội, trên cơ sở phối hợp giữa các lực
lượng Kiểm lâm, công an, quân đội và lực bảo vệ rừng chuyên trách của các chủ
rừng. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành trong nước và liên
kết giữa các quốc gia. Việt Nam là một nước đã nhận thức đúng đắn được vấn đề
này, nên ngoài hệ thống chính sách pháp luật được ban hành, Việt Nam đã tham
gia công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật hoang dã nguy cấp (Công
ước CITES) và trở thành thành viên chính thức thứ 121 vào ngày 20/10/1994, kí
công ước đa dạng sinh học vào ngày 16/11/1994. Ngoài ra Việt Nam còn tham
gia nhiều tổ chức quốc tế khác liên quan đến vấn đề bảo vệ tài nguyên và quản
lý động thực vật.
Tuy nhiên tài nguyên vô giá của loài người này vẫn ngày càng bị giảm sút
nghiêm trọng. Theo số liệu của FAO đến năm 1991 tổng diện tích rừng trên toàn
thế giới chỉ còn khoảng 3.717 triệu ha, trong đó 1,867 triệu ha rừng Bắc cực và

Địa Trung Hải ổn định hoặc tăng lên một ít, còn 1.850 triệu ha rừng nhiệt đới lại
bị giảm bình quân 1% trên năm. Từ năm 1981-1991 tỷ lệ rừng bị suy giảm đã
tăng 80% so với thời kỳ 10 năm trước, trước tình hình đó. Hội nghị lâm nghiệp
Thế giới lần thứ X tại Paris tháng 9 năm 1991 đã vạch ra một chiến lược toàn
cầu về bảo vệ rừng.
Còn tại Việt Nam thì trong thực tế nhiều năm qua tình hình tài nguyên rừng
ngày càng giảm mạnh. Hằng năm ở trong nước tình hình khai thác rừng bừa bãi,
lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy, săn bắt trái phép động vật hoang đã và đặc
biệt nạn cháy rừng thường xuyên đe dọa làm suy giảm tài nguyên rừng rất lớn,
chưa đáp ứng được nhu cầu bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
3


Theo tổng cục thống kê năm 2000 thì vào năm 1943 diện tích rừng nước ta
có khoảng 14,3 triệu ha với độ che phủ 43,0%, nhưng đến năm 1999 thì diện tích
rừng chỉ còn 9,187 triệu ha với độ che phủ 27,8%, đây là giai đoạn nước ta đã
xem rừng là một tài nguyên vô tận và hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lâm
nghiệp được xem như một ngành kinh tế chủ đạo để phát triển nền kinh tế đất nước.
Chính vì vậy nên đã dẫn đến tài nguyên rừng nước ta bị suy giảm nhanh chóng, chỉ
trong vòng 50 năm từ 1943-1999 độ che phủ của rừng giảm 16%.
Theo thông kê của Viện điều tra – Quy hoạch rừng năm 1987, hàng năm
rừng nước ta mất khoảng 20.000 – 25.000 ha, chiếm 5% diện tích rừng nhiệt đới
bị phát hủy. Hệ sinh thái rừng đang bị thu hẹp dần, nhiều loại động vật, thực vật
quý hiếm đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Hiện nay tình trạng đất trống đồi trọc cần
phủ xanh vẫn còn nhiều, tài nguyên rừng chưa được khai thác và sử dụng thật sự
có hiệu quả.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho rừng bị suy giảm là sự can thiệp vô ý thức
của con người: chặt phá rừng bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy, săn bắt chim, thú
rừng và các tác động khai thác lâm sản quá mức khác đã dẫn đến tác hại vô cùng
to lớn đến hệ sinh thái rừng, đến cuộc sống của thực vật, động vật rừng, đến

nguồn nước, đến lượng mùn và hàm lượng NPK trong đất, đến nguồn than, dầu
và hơi đốt, đếm hàm lượng O 2 và CO2 trong khí quyển, đến chế độ nhiệt độ của
không khí và đất.…
Bên cạnh đó việc gia tăng dân số nhanh dẫn đến tăng nhu cầu vật chất xã
hội, nhất là năng lượng không ngừng nâng lên. Cùng với đó, công tác quản lý
bảo vệ rừng chưa được khuyến khích và quan tâm đúng mức bởi những chính
sách chưa hợp lý và cụ thể.
Theo báo cáo của cục Kiểm Lâm Việt Nam, rừng bị phá chủ yếu là rừng tự
nhiên có trữ lượng gỗ lớn, gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng. Có một thực tế là,
nạn phá rừng ngày càng gia tăng, hành vi phá rừng ngày càng tinh vi và trắng
trợn hơn. Thậm chí tình trạng lâm tặc phá rừng với qui mô lớn, chống người thi
hành công vụ diễn ra ngày càng nhức nhối và phức tạp. Để kiên quyết giữ rừng
cho đất nước nhiều cán bộ Kiểm lâm đã hy sinh tính mạng hoặc bị thương trong
khi làm nhiệm vụ.
Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng về công tác quản lý và bảo vệ rừng hiện
nay tại địa phương là cơ sở khoa học cho việc quản lý bền vững tài nguyên rừng
trên địa bàn. Muốn bảo vệ và phát triển rừng bền vững thì bên cạnh việc sử dụng
các chế tài pháp luật cần có các giải pháp nhằm huy động được toàn bộ nguồn
4


lực xã hội tham gia vào công tác này. Bên cạnh đó để đảm bảo công tác quản lý
bảo vệ và phát triển rừng một cách hiệu quả thì cần dựa vào sức mạnh của cấp
ủy, chính quyền địa phương để triển khai các hoạt động bảo vệ phát triển rừng.
Tăng cường sự phối hợp có hệ thống, có kế hoạch với các hoạt động xâm hại
đến rừng.
2.2. Cơ sở pháp lý
Đứng trước nạn chặt phá rừng bừa bãi, khai thác rừng trái phép, buôn bán
tàn trữ lâm sản trái phép. Nhà nước đã có các chỉ thị, thông tư và các nghị định
nhằm tăng cường tính hiệu quả của luật bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời giúp

các ban ngành chức năng thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trong công tác
bảo vệ tài nguyên rừng ở giai đoạn hiện nay.
1. Luật bảo vệ và phát triển rừng được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam thông qua ngày 3 tháng 2 năm 2004 và có hiệu lực thi hành ngày
1 tháng 4 năm 2005.
2. Nghị định 32/2006/NĐ- CP ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật, động
vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
3. Chỉ thị số 12/2003/CT – TTg ngày 16 tháng 5 năm 1993 về việc tăng
cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng.
4. Quyết định 202/TTg ngày 02 tháng 5 năm 1994 của thủ tướng chính phủ
ban hành bản qui định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và
trồng rừng.
5. Chỉ thị 359/TTg ngày 29 tháng 5 năm 1996 của thủ tướng chính phủ về
những biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển động vật hoang dã.
6. Quyết định 245/1998/QĐ – TTg ngày 21 tháng 12 năm 1998 của thủ
tướng chính phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp, về
rừng và đất lâm nghiệp.
7. Nghị định 163/1999/NĐ- CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ
về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
8. Quyết định số 08/2001 NĐ- CP ngày 11 tháng 01 năm 2001 của thủ
tướng chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý ba loại rừng ( đặc dụng,
phòng hô, sản xuất).

5


9. Nghị định 157/2013/NĐ - CP ngày 25 tháng 12 năm 2013 của chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản.

10. Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 7 tháng 7 năm 2005 Quyết định
về việc ban hành quy chế về khai thác gỗ và lâm sản khác.
11. Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 2006 của chính phủ
về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
12. Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của thủ tướng
chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
13. Quyết định 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của thủ tướng
chính phủ về việc ban hành qui chế quản lý rừng.
14. Chỉ thị số 08/2006/CT-TTg ngày 8 tháng 3 năm 2006 về việc tăng
cường các biện pháp cấp bách ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác
rừng trái phép.
15. Chỉ thị số 15/2007/CT-BNN ngày 13 tháng 02 năm 2007 về việc tăng
cường quản lý canh tác nương rẫy.
16. Quyết định số 74/2008/QĐ-BNN ban hành danh mục các loại động vật
hoang dã quy định trong phụ lục của công ước về buôn bán quốc tế các loài
động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.
17. Chương trình 661 của Chính phủ về việc tổ chức dự án trồng mới 5
triệu ha rừng.
18. Thông tư số 35/2001/TT-BNNPTNT, ngày 20/5/2011 của bộ nông
nghiệp & phát triển nông thôn về Hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và
lâm sản ngoài gỗ.
19. Thông tư 01 ngày 4 tháng 01 năm 2012 của Bộ nông nghiệp qui định về
hồ sơ lâm sản hợp pháp và nguồn gốc lâm sản.
20. Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg, ngày 8 tháng 02 năm 2012 của thủ
tướng chính phủ ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng
(Thay thế Quyết định 245/1998/QĐ-TTg).
Trên đây là những văn bản, thông tư, quyết định, nghị định, nghị quyết liên
quan đến công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng nhằm giúp cho lực lượng
kiểm lâm của hạt kiểm lâm huyện Thăng Bình nói riêng cũng như các ban ngành
nói chung có cơ sở pháp lý để thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng và phát

6


triển rừng từ Trung ương đến địa phương. Mỗi năm hạt kiểm lâm huyện Thăng
Bình đều tổ chức các đợt tập huấn cho cán bộ kiểm lâm của hạt cũng như tuyên
truyền cho tất cả người dân trong huyện nắm các nội dung khi có các nghị định,
nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm giúp cho lực lượng
chuyên trách bảo vệ rừng và phát triển rừng thực thi pháp luật một cách có hiệu
quả. Bên cạnh đó vận động, `giáo dục được người dân trên toàn huyện ngày
càng có ý thức hơn trong công tác quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng.
2.3. Tình hình quản lý bảo vệ, phát triển rừng trên Thế giới và trong nước
2.3.1. Tình hình quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng trên Thế giới
Do sự thay đổi khí hậu toàn cầu, sự nóng lên của trái đất, thiên tai hạn
hán, lũ lụt tăng nhanh và sự xâm hại của con người đã làm cho diện tích rừng bị
suy giảm về cả số lượng và chất lượng.
Trước đây trên Thế giới có 17,6 tỷ ha rừng, trong đó có diện tích rừng
nguyên sinh là 8,08 tỷ ha. Nhưng dưới sự tác động của con người đã làm cho
diện tích rừng trên Thế giới bị suy giảm nhanh chóng. Theo số liệu thống kê của
tổ chức FAO đầu thế kỷ XX diện tích rừng trên Thế giới chỉ còn 6 tỷ ha, đến
năm 1991, con số này giảm xuống còn 3,717 tỷ ha trên toàn Thế giới. Trong đó
1,867 tỷ ha ở Bắc Cực và Địa Trung Hải ổn định và phát triển chút ít. Còn 1,850
tỷ ha rừng nhiệt đới. Tính đến năm 1995 diện tích rừng trên toàn Thế giới chỉ
còn 2,3 tỷ ha. Tính trung bình mỗi năm diện tích rừng nhiệt đới bị thu hẹp
khoảng 11 triệu ha. Theo các số liệu thống kê gần đây nhất của các nhà nghiên
cứu, trong giai đoạn từ năm 2000-2012 khoảng 2,3 triệu km 2 diện tích rừng bị
biến mất. Trong khi đó, chỉ có 0,8 triệu km 2 rừng được phủ xanh. Trung bình
mỗi năm, diện tích rừng nhiệt đới bị mất trên toàn cầu tăng khoảng 2.100 km 2.
Tốc độ thay đổi mật độ rừng ở các khu rừng phía đông nam nước Mỹ cao gấp 4
lần so với các khu rừng ở Nam Mỹ, với hơn 31% diện tích rừng bị mất hoặc
được tái sinh. Paraguay (Nam Mỹ), Malaysia và Campuchia (Đông Nam Á) là

các quốc gia có tỷ lệ mất rừng cao nhất Thế giới. Trong khi đó diện tích rừng
trồng chỉ bằng 1/10 diện tích rừng bị mất đi, đó là chưa kể đến việc mất tính đa
dạng sinh học.
Riêng ở Châu Á Thái Bình Dương thời gian từ năm 1976 đến năm 1980
mất 9 triệu ha rừng, cùng thời gian này ở Châu Phi mất 37 triệu ha rừng và Châu
Mĩ mất đi 18,4 triệu ha. Từ năm 1981 đến năm 1991 tỉ lệ rừng bị mất đi tăng lên
80% so với 10 năm trước. Với tốc độ đó một số chuyên gia lâm nghiệp dự đoán
chỉ trong vòng một thế kỷ nữa rừng nhiệt đới sẽ bị hủy diệt. Ngoài ra mất rừng
7


làm cho diện tích đất rừng và đất trồng rừng bị xói mòn làm biến chất, do tình
trạng chặt phá rừng, sa mạc hóa ... hằng năm trên Thế giới làm mất đi khoảng 2
tỷ tấn đất, với số lượng này có thể sản xuất ra 50 tấn lương thực thực phẩm.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, có hơn 1,6 tỷ người sống phụ thuộc vào
rừng và rừng là nguồn cung cấp nhiều việc làm, góp phần vào sự tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia trong khu vực. Qua thống kê cho thấy 30% diện tích
rừng được sử dụng để sản xuất gỗ và các sản phẩm phi gỗ, thương mại lâm sản
ước tính đạt 327 tỷ USD/năm. Sự biến mất hoặc tái sinh các khu rừng có ảnh
hưởng nhất định đến hệ sinh thái cũng như sự thay đổi của khí hậu toàn cầu và
gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người.
- Ở Nhật Bản: Theo quan điểm của người Nhật thì tất cả các hành động phá
hoại môi trường đều đe dọa đến đời sống của sinh vật và con người. Do đó việc
bảo vệ tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng được Nhật Bản rất chú trọng và ý thức
của người dân Nhật Bản trong quản lý bảo vệ rừng cũng rất cao.
Trước đây, người Nhật đốn gỗ ở rừng, vùng ven biển và vùng châu thổ vì
lợi ích của nền công nghiệp đất nước. Kết quả là việc đánh bắt thủy sản của các
ngư dân ngày càng bị dảm bớt vì vùng sinh thái biển bị thu hẹp và hải sản ngày
càng khan hiến. Nhận được bài học đắt giá đó, cộng đồng ngư dân nhận thấy
rằng việc bảo tồn rừng là quan trọng và họ cố gắng để tái sinh rừng ở vùng bờ

biển, châu thổ và vùng núi.
Từ những năm 1980, xuất hiện phong trào tìm hiểu về rừng bắt đầu từ
những ngư dân trồng cây ở ven biển, vùng châu thổ ven sông, vùng núi và lan
rộng chưa từng có. Đến nay phong trào này đã tác động tích cực đến môi trường
và luôn được chính phủ khuyến khích. Kinh doanh trồng rừng đối với họ về sâu
xa không chỉ có lợi nhuận trước mắt bởi vì tất cả những đối tượng tham gia hoạt
động này đều phải cam kết bảo vệ rừng và phải có trách nhiệm lâu dài.
- Thụy Sỹ: Là một nước nhỏ với diện tích chỉ có 41.293 km 2 nhưng có đến
70% là núi, riêng rặng núi Alpes đã chiếm tới 60%, chỉ còn lại một rẻo cao
nguyên hẹp chạy từ Đông Nam lên Tây Bắc.
Đất nước hẹp như thế mà dân số lại đông gần tới 7,2 triệu người, sống tập
trung trong một đô thị lớn, mật độ dân số cao, đồng thời công nghiệp chế tạo lại
hết sức phát triển, do đó rất khó giữ được môi trường sinh thái tốt.
Thế nhưng bầu trời Thụy Sỹ lúc nào cũng trong vắt, không khí thơm tho
trong lành, khắp nơi rực một màu xanh của cây cối xanh tốt, nhà cửa, đường phố
8


sạch bong... Tất cả là nhờ bàn tay chăm sóc của con người, trong đó chính quyền
và xã hội đóng vai trò tổ chức quan trọng.
Trên đất nước Thụy Sỹ khắp nơi đều thấy những hàng cây cổ thụ khổng lồ
xanh tốt cành lá sum sê. Có những cây đã 300 – 400 năm tuổi. Những gốc cây cổ
thụ cao to ngất trời ấy thực sự là những cỗ máy thả ô-xy làm cho cả nước trở
thành một nhà máy tạo dưỡng khí khổng lồ. Đó chính là kết quả của việc người
dân nước này đã triệt để thực thi một chế độ luật pháp bảo vệ rừng và môi
trường rất nghiêm ngặt.
Một ví dụ: Bất cứ hành vi tự tiện chặt cây nào đều bị phạt nặng bằng tiền.
Hơn nữa, dù có chặt cây với bất kỳ lý do nào, nếu đã chặt bao nhiêu cây ở nơi
này thì bắt buộc phải trồng lại từng ấy cây ở nơi khác.
Hiến pháp Thụy Sỹ ngay từ năm 1971 đã quy định rõ ràng: áp dụng các

biện pháp bảo vệ rừng và môi trường là nghĩa vụ của Nhà nước. Trong lần sửa
đổi hiến pháp hồi tháng 12-1998 có tăng thêm một chương “Bảo vệ môi
trường và sửa sang lãnh thổ” và hàng loạt các luật riêng khác thể hiện sự quan
tâm cao độ của Chính phủ liên bang Thụy Sỹ tới vấn đề bảo vệ rừng và môi
trường. Chính nhờ có chế độ luật pháp nghiêm ngặt và hoàn thiện mà Thụy Sỹ
vừa thực hiện được mục tiêu phát triển công nghiệp, vừa giữ được môi trường
sinh thái tốt hơn.
Chính quyền Thụy Sỹ còn rất chú trọng tới công tác giáo dục bảo vệ rừng và
môi trường cho công dân mình và coi đó là một khâu cơ bản trong giáo dục phổ
thông. Các trường trung, tiểu học đều có môn học “Con người và môi trường”, học
sinh bắt buộc phải học. Thiếu niên khi đến tuổi trưởng thành đều được tặng một
món quà là cuốn sổ hướng dẫn cách thức gìn giữ môi trường sống xanh sạnh.
Thụy Sỹ được xanh sạnh như ngày hôm nay là kết quả của nhiều năm kiên
trì thực hiện chính sách bảo vệ rừng và môi trường của chính phủ và sự hợp tác
của người dân.
- Brazil: Chính phủ Brazil đã cung cấp khả năng truy cập internet miễn phí
cho các bộ tộc thổ dân gốc Ấn ở khu vực rừng Amazon nhằm bảo vệ khu rừng
rậm lớn nhất thế giới này. Nhờ đó mà những cộng đồng sống trong khu rừng có
thể thông báo về những vụ đột nhập hay săn bắn động vật bất hợp pháp, đưa ra
yêu cầu giúp đỡ và phối hợp những hoạt động nhằm bảo vệ khu rừng này.
- Ở một số nước khác: Thái Lan, Nam Triều Tiên đều có xu hướng chung
là cho phép nhóm người ở các địa phương có nhiều rừng có quyền sử dụng
9


các lợi ích về rừng và quy định rõ trách nhiệm của họ tương ứng với lợi ích
được hưởng.
- Có thể nói tóm tắt những xu hướng quản lý rừng trên thế giới trong những
năm gần đây như sau:
+ Chuyển mục tiêu quản lý, sử dụng rừng từ sản xuất gỗ là chủ yếu sang mục

tiêu sử dụng rừng kết hợp cả 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.
+ Phân cấp quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp. Xu hướng là
chuyển giao dần trách nhiệm và quyền lực về quản lý rừng từ cấp trung ương
đến địa phương và cơ sở.
+ Xúc tiến giao đất, giao rừng cho nhân dân, giảm bớt can thiệp của nhà
nước, thực hiện tư nhân hóa đất đai và cơ sở kinh doanh lâm nghiệp để tạo điều
kiện cho việc quản lý rừng năng động và đem lại nhiều thuận lợi hơn.
+ Thu hút sự tham gia của các nhóm dân cư trong quá trình xây dựng kế
hoạch quản lý rừng, rừng đã có chủ thực sự. Các chính sách cũng rất quan tâm
đến sự tham gia của các nhóm liên quan đến quyền lợi từ rừng. Vì vậy rừng đã
được quản lý bảo vệ tốt hơn.
Hiện nay hầu hết các nước như Mỹ, Nga, Đức,.. đều có sử dụng vệ tinh
quan sát để bảo vệ rừng. Chính phủ Malaysia cho biết họ đàng thực hiện chương
trình có tên gọi là Eye in the sky (tạm dịch là Nhìn từ không trung), sử dụng các
ảnh từ vệ tinh để chống lại những kẻ phá rừng.
2.3.2. Tình hình quản lý bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam
Trước đây phần lớn diện tích đất của nước ta đều có rừng che phủ, nhưng
chỉ khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái năng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc,
nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Nam bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và
một số cây công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu
rừng thuộc châu thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng các
khu rừng trên đất thấp ven biển khác đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng
xóm làng. Vào lúc ấy độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên.
Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giại đoạn mà diện tích rừng ở nước ta
bị thu hẹp lại khá nhanh. Sau chiến tranh, diện tích rừng chỉ còn lại khoảng 9,5
triệu ha, chiếm 29% diện tích cả nước.
Trong những năm vừa qua, để đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng lên,
để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng nền kinh tế còn yếu của mình, nhân
dân ta vẫn phải tiếp tục khai thác mạnh mẽ diện tích rừng còn lại. Số liệu thu
10



được nhờ phân tích Landsat chụp năm 1979-1981 và KATE 140 trong cùng thời
gian, cho thấy giai đoạn này rừng ở nước ta chỉ còn lại 7,8 triệu ha, chiếm
khoảng 24% diện tích cả nước (Viện Điều tra và Quy hoach rừng), trong đó 10%
là rừng nguyên sinh.
Sự suy giảm về diện tích và độ che phủ ở thời gian này là do mức tăng dân
số đã tạo ra nhu cầu về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc nhiều
khu rừng biến thành những vùng đất hoang, cằn cỗi. Những khu rừng còn lại ở
vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ lượng gỗ rất thấp và bị chia cắt thành
những đám rừng nhỏ phân tán.
Năm 1998, Việt Nam chính thức tham gia chương trình Lâm Nghiệp nhiệt
đới với mã số VIE-88-073 đã được tiến hành và kết thúc vào năm 1991. Dự án
này đã đóng góp một phần rất quan trọng vào việc đánh giá hiện trạng lâm
nghiệp Việt Nam và đưa ra khuyến cáo về định hướng phát triển lâm nghiệp cho
đến năm 2000.(Phùng Ngọc Lan, 1997) [6]
Công tác quản lý bảo vệ rừng ở Việt Nam trong những năm gần đây đã và
đang được Nhà nước đặc biệt quan tâm, ban hành nhiều chủ trương chính sách
mới nhằm giảm thiểu tình trạng tàn phá tài nguyên rừng:
- Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của chính phủ về việc xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản.
- Thông tư 34/2009/TT-BNNPTNN ngày 10/06/2009 của bộ Nông Nghiệp &
Phát Triển Nông Thôn về quy định tiêu chí xác định phân loại rừng.
- Luật bảo vệ và phát triển rừng ngày 29/12/2004.
- Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/06/2012 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013.
- Các quyết định 327, 661... đã và đang nhanh chóng đi vào hiện thực.
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước đặt ra đối với công tác quản lý bảo vệ rừng
trong giai đoạn hiện nay là:

- Ngăn chặn tận gốc các hành vi vi phạm luật bảo vệ rừng và phát triển
rừng.
- Thiết lập các hệ thống chức năng rừng trên toàn quốc với từng loại rừng:
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất.

11


- Tạo điều kiện cho nông dân đổi mới cây trồng, vật nuôi, hạn chế và đi đến
tình trạng xóa bỏ độc canh cây lúa, phá rừng làm nương rẫy, góp phần chuyển
dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn.
- Góp phần bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ môi trường
sinh thái.

12


PHẦN 3
MỤC TIÊU,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu chung
Đề tài thực hiện nhằm phân tích và đánh giá được tình hình quản lý bảo
vệ và phát triển rừng tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ rừng, góp
phần làm cho công tác quản lý và bảo vệ rừng ở địa phương ngày một tốt hơn.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng và phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến
công tác quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn huyện.
- Đưa ra được những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý và bảo
vệ rừng trên địa bàn huyện.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần cho công tác quản lý và bảo
vệ rừng trên địa bàn huyện ngày càng được củng cố và phát huy được hiệu quả
tốt hơn.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các tổ chức tham gia quản lý và bảo vệ rừng tại huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam.
- Các hoạt động quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn huyện.
- Các hộ gia đình, cá nhân trong huyện có liên quan tới công tác quản lý
và bảo vệ rừng.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên toàn bộ địa bàn huyện trong khoảng thời gian từ tháng 1
- 4 năm 2016.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thăng Bình
3.3.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu và tổ chức của Hạt
Kiểm lâm huyện Thăng Bình,tỉnh Quảng Nam
•Vị trí và chức năng của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình
•Nhiệm vụ và quyền hạn của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình
13


•Cơ cấu tổ chức của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình
3.3.3. Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của Hạt Kiểm lâm
huyện Thăng Bình
•Công tác quản lý, bảo vệ rừng
•Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng
•Công tác phòng trừ sâu bệnh hại rừng
•Công tác theo dõi diễn biến rừng và đất Lâm nghiệp
•Công tác phát triển rừng

•Công tác giao đất, giao rừng và cho thuê rừng
•Công tác thanh tra, pháp chế
3.3.4. Tìm hiểu công tác phối hợp tuyên truyền pháp luật về bảo vệ rừng
với các đơn vị trên địa bàn trong công tác quản lý bảo vệ rừng
3.3.5. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ rừng
tại địa phương
3.3.6. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu quả trong
công tác quản lý, bảo vệ rừng tại địa phương
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Kế thừa tổng hợp thông tin, số liệu tài liệu đã có sẵn, các nghị định, nghị
quyết, chỉ thị về công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Các tư liệu, số liệu
về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, tình hình sử dụng tài nguyên và công tác
quản lý, bảo vệ tài nguyên rừngở các cơ quan ban ngành liên quan.
3.4.2. Phương pháp phân tích những thuận lợi và khó khăn trong công
tác quản lý bảo vệ rừng tại huyện
Sử dụng phương pháp phân tích bằng công cụ biểu đồ hai mảng để phân
tích những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý và bảo vệ rừng trên địa
bàn huyện.
3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi tiến hành thu thập số số liệu, chọn lọc thông tin, tiến hành tổng hợp
và phân tích số liệu, theo từng nội dung của đề tài theo phương pháp thống kê
mô tả.
PHẦN 4
14


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thăng Bình
4.1.1. Điều kiện tự nhiên

4.1.1.1. Vị trí địa lý
- Thăng Bình là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Quảng Nam, thuộc
vùng duyên hải miền Trung, nằm ở tọa độ 150 0 30’ đến 1500 59’ vĩ độ Bắc, từ
1080 7’ đến 1080 30’ kinh độ Đông.
- Trung tâm huyện lỵ của huyện là thị trấn Hà Lam, cách thành phố Tam
Kỳ tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam khoảng 25 km.
- Phía Bắc giáp với huyện Quế Sơn và Duy Xuyên.
- Phía Nam giáp với huyện Phú Ninh và thành phố Tam Kỳ.
- Phía Đông giáp với biển Đông, huyện có bờ biển dài khoảng 25 km, bãi
biển đẹp, có tiềm năng nuôi trồng thủy sản, phát triển dịch vụ du lịch. Vùng biển
thềm lục địa có nhiều tài nguyên thủy, hải sản có giá trị kinh tế, là điều kiện
thuận lợi để ngư dân các xã Bình Dương, Bình Minh, Bình Hải, Bình Nam phát
triển ngành nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản.
- Phía Tây giáp với huyện Tiên Phước và Hiệp Đức.
- Huyện Thăng Bình có tất cả 21 xã và 01 thị trấn.
4.1.1.2. Đặc điểm địa hình
- Tuy Thăng Bình được xếp vào huyện đồng bằng của tỉnh nhưng địa hình
tương đối phức tạp,địa hình bị chia cắt bởi nhiều sông suối chủ yếu tập trung ở
các xã vùng phía Tây của huyện, đây cũng là nơi tập trung diện tích rừng tự
nhiên và đất lâm nghiệp lớn nhất của huyện.
- Ngoài ra các xã phía Tây của huyện còn tập trung nhiều đồi núi, nghiêng
dần theo hướng Tây – Tây Bắc xuống hướng Đông – Đông Nam, độ dốc cao và
chia cắt thành hai vùng rõ rệt.
- Phía Tây của huyện là vùng có các dãy đồi núi liên tiếp chia cắt mạnh,
sườn dốc, có các bậc thềm cao thấp khác nhau. Đối với vùng đồi núi có độ dốc
trên 250, tầng đất mỏng dưới 30 cm dành cho trồng rừng, bảo vệ khoanh nuôi
xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên. Đối với những vùng có độ dốc dưới 25 0, có tầng
đất dày phục cho trồng cây dài ngày và cây công nghiệp như quế, chè, cây ăn
quả...
15



- Vùng có địa hình thấp từ 300 – 500 m so với mặt nước biển, thích hợp
cho trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc và trồng
cây lương thực. Vùng này có hai nhóm đất chính là đất đỏ vàng biến đổi do
trồng lúa nước và đất bồi tụ do xói mòn tập chung chủ yếu ở ven các con suối,
thung lũng và khe.

Hình 4.1.Địa hình các xã phía Tây của huyện Thăng Bình (Hình ảnh
được chụp tại xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình, tinh Quảng Nam)
4.1.1.3.Đặc điểm khí hậu
- Thăng Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu ở đây được chia thành 2
mùa mưa- nắng rõ rệt. Nhiệt độ toàn huyện trung bình năm từ 24 0C đến 270C, độ
ẩm trung bình hàng năm khoảng 80%. Mùa nắng ruộng đồng, đất đai khô hạn,
nứt nẻ, khí trời oi bức. Mùa khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm, thời
tiết nắng nóng với nhiệt độ cao bởi gió Tây Nam từ hạ Lào thổi về có lúc lên
400C sông, suối cạn kiệt, cây cối xơ xác.
- Còn mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 01 năm sau, thời tiết khắc
nghiệt, thường xuyên chịu sự tác động của gió mùa Đông Bắc từ biển Đông thổi
vào, gây nên hiện tượng mưa bão.
- Hằng năm huyện có trung bình từ 1-2 cơn bão đổ bộ vào nên trên địa bàn
huyện thường xuyên phải chịu ảnh hưởng của bão và lũ lụt.
16


- Lượng mưa hằng năm phân bố không đều, tập trung chủ yếu từ tháng 9
đến tháng 11 chiếm 30% tổng lượng mưa của cả năm. Lượng mưa trung bình
hằng năm từ 2.000 đến 2.500mm.
- Tiết trời nắng nóng và mưa nhiều tập trung gây tình trạng ra hạn hán và lũ
lụt là hai yếu tố thiên nhiên khắc nghiệt chi phối đời sống và sản xuất của người

dân trên địa bàn huyện Thăng Bình một cách rõ rệt.
4.1.1.4. Đất đai,thổ nhưỡng
*Đất đai
- Tổng diện tích đất tự nhiên là 38.560,24 ha (385,6 km2).
- Trong đó:
+ Đất nông, lâm nghiệp và thủy sản là 24.902,50 ha .
+ Đất phi nông nghiệp là 11.991,89 ha.
+ Đất chưa sử dụng là 1.665,85 ha.
*Thỗ nhưỡng
Thăng Bình có khoảng 10 loại đất, được phân bố theo 3 vùng:
- Vùng đồi núi phía Tây có nhiều rừng nhưng đất đai bị đá ong hóa, bạc
màu, khô cằn do đất feralit đỏ và vàng được tạo ra từ đá granit, đá filit bị xói
mòn trên tầng mỏng là đặc trưng ở vùng Tây.

Hình 4.2. Loại đất chủ yếu của vùng phía Tây của huyện Thăng Bình (Hình
ảnh được chụp tại xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam)

17


- Vùng trung du đồng bằng với đặc trưng của vùng bán sơn địa có nguồn
thổ nhưỡng đất xám do chịu ảnh hưởng của sự phong hóa granit tương đối thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp.
- Vùng ven biển đặc trưng với các dãy gò, đồi cát được bồi đắp từ xa xưa
giáp biển Đông, có con sông Trường Giang chạy dọc tuyến ven biển, xen kẽ còn
có nhiều Bàu nước, chủ yếu là đất mặn, đất cát trắng, là loại đất cát ven biển đặc
trưng của vùng Đông.
4.1.1.5. Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất rừng trên địa bàn huyện Thăng Bình là 7.583,21ha trong
đó rừng tự nhiên chỉ 759,47ha (khoảng 10%) còn đại bộ phận là rừng trồng. Đất

chưa có rừng trên địa bàn huyện không nhiều chỉ chỉ gần 3% đất lâm nghiệp. Độ
che phủ của rừng trên địa bàn huyện đạt 19,14%. Dưới đây là bảng cụ thể về tình
hình đất rừng và rừng trên địa bàn huyện năm 2015.
Bảng 4.1. Diện tích đất rừng năm 2015 trên địa bàn huyện
TT

Hạng mục

Diện tích (ha)

1

Tổng diện tích đất rừng

7.583,21

2

Diện tích đất có rừng

7.383,24

Diện tích rừng tự nhiên

3

759,47

Diện tích rừng trồng


6.623,77

Diện tích đất chưa có

199,97

rừng
(Nguồn: UBND huyện Thăng Bình)
4.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện Thăng Bình
4.1.2.1. Dân số và lao động
Dân cư sinh sống trên mảnh đất Thăng Bình theo chiều dài lịch sử luôn
biến chuyển về số lượng qua từng thời kỳ. Năm 1910 có 16.110 người. Vào
tháng 12 năm 1970, tổng dân số là 128.232 người. Năm 1997, sau khi chia tách
Quảng Nam và Đà Nẵng thì huyện Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Nam, lúc này
dân số là 139.908 người. Hiện nay, tính đến ngày 31/12/2015 thì tổng dân số là
181.601người, với mật độkhoảng 470 người/km 2. Thành phần dân số, độ tuổi lao
động trên địa bàn huyện được thể hiện rõ qua bảng 4.2 dưới đây
18


Bảng 4.2. Cơ cấu dân số và lao động năm 2015 của huyện Thăng Bình
TT

Hạng mục

Đơn vị (người)

Tỉ lệ (%)

1


Tổng dân số

181.601

100

2

Nữ

90.316

49,73

3

Nam

91.285

50,27

4

Dân số đô thị

16.298

8,97


5

Dân số nông thôn

165.303

91,02

6

Dân số trong độ tuổi lao động

91.285

50,26

Số lao động nam

45.659

25,14

Số lao động nữ

45.626

25,12

7


Dân tộc kinh

181.274

99,82

8

Dân tộc thiểu số

327

0,18

(Nguồn: UBND huyện Thăng Bình)
- Tổng số hộ dân trên địa bàn huyện theo thống kê được là 45.115 hộ, trong
đó hộ nghèo (theo chuẩn mới) trên địa bàn huyện có 6.154 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
13,64 %. Số hộ nghèo trên địa bàn huyện các năm qua giảm một cách rõ rệt, mà
nguyên nhân chủ yếu là do trên địa bàn huyện ngày càng mọc lên nhiều công ty,
xí nghiệp giải quyết được nhu cầu việc làm cho người dân trên toàn địa bàn
huyện. Số liệu cụ thể được thể hiện qua bảng thống kê 4.3 dưới đây:
Bảng 4.3. Thống kê số hộ nghèo qua các năm

Năm
Tổng số hộ nghèo
Tỉ lệ so với tổng
số hộ dân trong
huyện


2008

2012

2015

18.653 hộ

14.845 hộ

6.154 hộ

30,02 %

24,69 %

13,64 %

(Nguồn: UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam)
4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
19


* Giao thông
Về giao thông, Thăng Bình có tuyến Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc -Nam
chạy ngang qua. Tuyến đường 16 trước đây, bắt đầu từ thị trấn Hà Lam chạy lên
phía Tây sang huyện Hiệp Đức lên Khâm Đức (Phước Sơn). Hiện nay, tuyến
đường này đã được nâng cấp thành Quốc lộ 14E bắt đầu từ đường Thanh niên
ven biển lên xã Bình Triều đến Ngã tư Hà Lam, theo Quốc lộ 1A đến Cây Cốc,
rẻ phải đi Hiệp Đức rồi lên làng Hồi, huyện Phước Sơn giáp với đường Hồ Chí

Minh, thông thương tuyến Bắc - Nam. Đây là tuyến đường huyết mạch nối liền
Đông-Tây, là con đường chiến lược của những năm chiến tranh vệ quốc, nay hòa
bình, là điều kiện thuận lợi để giao lưu vùng miền, tạo thế chủ động phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có các con
đường ngang, đường dọc nối liền 3 vùng trong huyện với các huyện tiếp giáp
như: Tam Kỳ, Phú Ninh, Tiên Phước, Hiệp Đức, Quế Sơn, Duy Xuyên; Ngoài ra
còn có một hệ thống các tuyến đường nối liên xã, liên thôn đã được bê tông hóa
trên 80% tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển vật tư, hàng hóa,
công cụ, phương tiện phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế, lưu thông sản phẩm
nông, lâm, thủy sản và phục vụ đời sống dân sinh. Ngoài ra còn có tuyến giao
thông đường thủy trên sông Trường Giang và Biển Đông, cũng là thế mạnh của
huyện Thăng Bình, là điểm giao thông cầu nối giữa Hội An, Tam Kỳ và các
quốc gia trên thế giới.
*Thủy lợi
Trên địa bàn huyện có khá nhiều hệ thống thủy lợi nhưng đa phần tập trung
ở vùng phía Tây của huyện, mạch nguồn cung cấp nước cho các hồ chứa nước
như La Nga - Cao Ngạn (Bình Lãnh), hồ Đông Tuyển (Bình Trị), hồ Phước Hà
(Bình Phú) chủ yếu là các con suối nhỏ từ các dãy rừng phía Tây tạo ra nguồn
nước trong mát chảy về cung cấp cho đời sống và sản xuất nông - lâm nghiệp
của huyện.
* Hệ thống diện trên địa bàn huyện
Toàn huyện có 100% xã, thị trấn sử dụng lưới điện quốc gia, huyện có
đường dây 220KV dài hơn 20km; có 18 trạm biến áp.
4.1.2.3. Tình hình sản xuấtLâm nghiệp trên địa bàn
Với những yếu tố đặc trưng tự nhiên của địa hình và khí hậu đưa đến việc
hình thành 3 vùng kinh tế khác nhau ở Thăng Bình, đó là vùng Đông, vùng
Trung và vùng Tây. Tuy nhiên, đặc trưng cơ bản là huyện thuần nông, kinh tế
nông - lâm nghiệp là chủ yếu. Mặc dù vậy, nhưng diện tích đất quy hoạch cho
lâm nghiệp là 7.583,21 ha chỉ chiếm khoảng 1/5 tổng diện tích đất tự nhiên trên
20



toàn huyện và bằng khoảng một nữa so với diện tích đất nông nghiệp của huyện
(14.869,72 ha). Mà đa phần diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp trên địa bàn
huyện chủ yếu tập trung ở các xã phía Tây của huyện như Bình Trị, Bình Lãnh,
Bình Phú nên để phát triển một cách đồng bộ về sản xuất ngành lâm nghiệp trên
toàn huyện là không thể. Bên cạnh đó thì quỹ đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện
không nhiều chỉ chiếm khoảng 1/5 (7.583,21 ha) tổng diện tích đất tự nhiên nên
việc phát triển sản xuất lâm nghiệp còn hạn chế.
Như đã nói ở trên quỹ đất lâm nghiệp của huyện đa phần đều tập trung ở
các xã phía Tây. Nhưng ở các xã phía Tây của huyện địa hình chủ yếu là trung
du, miền núi. Đất đai không mấy thuận lợi do xen kẽ đất đá, đất có độ dốc lớn, bị
xói mòn rửa trôi.... Vì thế, nên vùng này thường chú trọng phát triển kinh tế
vườn đồi, vườn rừng, trồng và khai thác các loại lâm thổ sản và chăn nuôi gia
súc (trâu, bò, dê đàn), các loại gia cầm. Chính vì thế nên tình hình phát triển sản
xuất lâm nghiệp trên địa bàn huyện còn hạn chế hơn nhiều so với các huyện
khác của tỉnh Quảng Nam.
Dưới đây là cơ cấu sử dụng đất của huyện Thăng Bình năm 2015:
Bảng 4.4. Cơ cấu sử dụng đất của huyện Thăng Bình
TT
1
2

3
4
5

Loại đất
Tổng diện tích đất tự nhiên
Đất lâm nghiệp:

Trong đó:
- Đất có rừng:
+ Rừng tự nhiên:
+ Rừng trồng
- Đất chưa có rừng:
Đất nông nghiệp:
Trong đó:
- Đất trồng cây hằng năm:
- Đất trồng cây lâu năm:
Đất mặt nước nuôi trồng
thủy sản
Đất khác

Diện tích (ha)

Tỉ lệ (%)

38.560,24
7.583,21

100
19,66

7.383,24
759,47
6.623,77
199,97
14.869,72

16,06

1,96
17,2
0,51
38,56

10.991,89
3.877,83

28,5
10,05

2.449,57

6,35

13.657,74

35,42

(Nguồn: UBND huyện Thăng Bình)
4.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,cơ cấu và tổ chức của Hạt Kiểm
lâm huyện Thăng Bình,tỉnh Quảng Nam
21


4.2.1. Vị trí, chức năng
- Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng
Nam, có chức năng tham mưu giúp Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh và
Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình thực hiện nhiệm vụ quản lí Nhà nước về bảo
vệ rừng, quản lý lâm sản và bảo đảm chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển

rừng trên địa bàn huyện Thăng Bình.
- Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý trực
tiếp toàn diện của Chi cục Kiểm lâm tỉnh và sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt
động của UBND huyện Thăng Bình, đồng thời chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám
sát, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật của các phòng chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam.
4.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình
- Thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng, sử dụng đất lâm
nghiệp được giao đúng quy chế quản lý từng loại rừng do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành và theo sự hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo của các cấp, các
ngành chức năng; thực hiện công tác quản lý và bảo vệ rừng, trồng rừng, sử
dụng đất lâm nghiệp được giao đúng quy chế quản lý từng loại rừng do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành và theo sự hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo của
các cấp, các ngành chức năng.
- Phối hợp với cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về lâm nghiệp ở địa
phương. Xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm về công tác quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng trên diện tích đất lâm nghiệp được giao để trình cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, đồng thời tổ chức thực hiện kế hoạch
được duyệt theo đúng kế hoạch, đúng quy định của Nhà nước. Nắm chắc tình
hình tài nguyên rừng, xác định rõ ranh giới đất lâm nghiệp, ranh giới các loại
rừng trên bản đồ và ngoài thực địa, để có các biện pháp tổ chức quản lý, bảo vệ
rừng đến tận cơ sở, gắn với chính quyền cấp xã trên địa bàn. Theo dõi diễn biến
tài nguyên rừng để tham mưu cho cơ quan chủ quản quản lý tốt diện tích rừng và
đất lâm nghiệp được giao.
- Hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra, đôn đốc cán bộ nhân viên lâm nghiệp
thực hiện nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng, tổ chức lực lượng quần chúng bảo
vệ rừng, kịp thời ngăn chặn những hành vi, tác nhân xâm hại rừng, đất lâm
nghiệp trên địa bàn huyện.

22



- Thực hiện việc hướng dẫn lập thủ tục và phối hợp với các Ban lâm nghiệp
xã, thị trấn kiểm tra, giám sát việc giao khoán đất rừng sản xuất cho cá nhân, hộ
gia đình và cộng đồng.
- Xây dựng phương án điều chế rừng sản xuất, không trực tiếp hoặc gián
tiếp kinh doanh khai thác, chế biến gỗ dưới mọi hình thức.
- Cùng với các ngành, cơ quan chức năng thực hiện công tác khuyến lâm,
khuyến nông, tuyên truyền và giải thích các chính sách pháp luật về rừng đến tận
người dân.
- Tham gia thực hiện dịch vụ chi trả dịch vụ môi trường rừng trong vai trò
là đơn vị tổ chức. Nhà nước tham gia quản lý và chi trả tiền công bảo vệ rừng
cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn, xã. Được phép hợp tác, liên kết
làm dịch vụ: kinh doanh du lịch sinh thái rừng.
- Triển khai thực hiện các chương trình, dự án liên quan của Trung ương và
các tổ chức khác do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thống nhất chỉ đạo.
- Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
của viên chức Kiểm lâm do mình quản lý.
- Quản lý vốn, tài sản do Nhà nước giao và sử dụng lao động theo đúng các
quy định hiện hành.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND huyện Thăng Bình phân
công.
4.2.3. Cơ cấu và tổ chức của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình,tỉnh Quảng Nam
 Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình gồm có 11 viên chức.
 Trách nhiệm của Hạt kiểm lâm huyện Thăng Bình về quản lý bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản:
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn kịp thời, xử lý hoặc
trình cơ quan có thẩm quyền xử lý các vụ vi phạm thuộc lĩnh vực quản lý bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản trên địa bàn huyện.
- Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục, phổ cập pháp luật về

quản lý bảo vệ rừng và phát triển rừng trên địa bàn, xây dựng lực lượng quần
chúng bảo vệ rừng, chống chặt phá rừng trái phép, PCCCR trên địa bàn huyện.
- Hướng dẫn các chủ rừng, cộng đồng dân cư địa phương xây dựng và thực
hiện kế hoạch, phương án PCCCR, phòng trừ sâu bệnh hại rừng, Quy ước bảo vệ
và phát triển rừng ở địa phương, kiểm tra việc thực hiện các phương án, kế
23


hoạch đã được phê duyệt, tham gia chỉ huy chữa cháy rừng khi có cháy rừng xảy
ra trên địa bàn huyện.
- Khi phát hiện những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản có dấu hiệu phạm tội thì tiến hành
lấy lời khai, thu giữ, bảo quản tang vật, tài liệu liên quan, phương tiện vi phạm
và giải quyết theo hai hướng sau:
 Những vụ án phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng thì ra
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hoàn thiện hồ sơ chuyển Viện Kiểm sát
trong vòng 15 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
 Những vụ án phạm tội nghiêm trọng, phức tạp thì khởi tố vụ án, chuyển
hồ sơ cho cơ quan điều tra trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố
vụ án.
- Chịu trách nhiệm chính trong việc bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm
giữ trong các vụ vi phạm lâm luật do mình phát hiện hoặc do lực lượng Công an,
Quân sự, Bộ đội biên phòng bàn giao, thực hiện trưng cầu giám định chuyên
môn các vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng do các lực lượng cùng tham
gia phát hiện hoặc phát hiện chuyển giao. Việc xử lý tang vật, phương tiện tạm
giữ trong khi phối hợp phải có sự thống nhất giữa các lực lượng tham gia.
 Trách nhiệm của Kiểm lâm địa bàn về quản lý bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản trên địa bàn:
- Nắm tình hình và theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn
được phân công, kiểm tra việc sử dụng rừng và đất lâm nghiệp của các chủ rừng

trên địa bàn.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan hướng dẫn và giám sát
các chủ rừng trong việc bảo vệ và phát triển rừng, giúp chủ tịch UBND xã thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp theo quy định của
Pháp luật.
- Tham mưu cho chủ tịch UBND xã trong việc tổ chức, xây dựng phương
án, kế hoạch quản lý bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn, hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện sau khi có phương án được phê duyệt.
- Phối hợp với cơ quan và tổ chức đoàn thể xã hội có liên quan hướng dẫn
cộng đồng dân cư thôn, bản xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ rừng tại địa
bàn.

24


- Tuyên truyền, phổ cập các quy định của pháp luật về lâm nghiệp cho cộng
đồng dân cư, giúp chủ tịch UBND xã xây dựng các tổ chức quần chúng bảo vệ
rừng, PCCCR, phòng trừ sâu bệnh hại rừng và hướng dẫn các tổ chức quần
chúng bảo vệ rừng hoạt động có hiệu quả.
- Tổ chức, kiểm tra, phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành
vi phạm hành chính theo thẩm quyền và giúp chủ tịch UBND xã xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với Công an xã, xã đội, Bộ đội biên phòng thực hiện tốt công
tác quản lý bảo vệ rừng.
 Sơ đồ về bộ máy tổ chức của Hạt kiểm lâm huyện Thăng Bình, thuộc Chi
cục kiểm lâm tỉnh Quảng Nam:
Sơ đồ 4.1. Tổ chức bộ máy của Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình
Hạt trưởng

Hạt phó


Ban quản
lý, bảo vệ
rừng

Thanh tra,
pháp chế

Kiểm lâm
địa bàn

Kế toán

Tổ cơ
động

Văn thư,
thủ quỷ

(Nguồn: Hạt Kiểm lâm huyện Thăng Bình)
4.3. Tình hình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của Hạt Kiểm lâm huyện
Thăng Bình
4.3.1. Công tác quản lý và bảo vệ rừng

25


×