Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

đánh giá hiện trạng và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của hộ gia đình ở xã hương lộc, huyện nam đông, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 75 trang )

TRÆÅÌNG ÂAÛI HOÜC NÄNG LÁM HUÃÚ
KHOA LÁM NGHIÃÛP
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG
LÂM KẾT HỢP CỦA HỘ GIA ĐÌNH Ở XÃ HƯƠNG
LỘC, HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Hòa
Lớp: Lâm nghiệp 39B
Địa điểm thực tập: xã Hương Lộc, huyện Nam
Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Huy Tuấn
Năm 2009
1
Lôøi caûm ôn
Hoàn thành đề tài này, tôi tỏ lòng biết ơn quý thầy
cô giáo trong khoa Lâm nghiệp – trường Đại học Nông
Lâm Huế đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin chân thành
cảm ơn thầy giáo - ThS. Hoàng Huy Tuấn, người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập
tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã
động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập
tốt nghiệp.
Trong quá trình hoàn thành khóa luận, do kinh
nghiệm bản thân còn hạn chế nên khóa luận không
tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong sự giúp đỡ của quý
thầy cô cùng sự đóng góp chân thành của các bạn


sinh viên.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Huế, tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Lê Thị Hòa
2
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 5
PHẦN 2 8
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
2.1. Một số quan điểm về Nông lâm kết hợp 8
2.2. Vai trò của Nông lâm kết hợp 10
2.3. Các dạng mô hình Nông lâm kết hợp ở Việt Nam 14
2.4. Thực trạng và những thách thức khi thiết lập các mô hình Nông lâm kết
hợp 16
PHẦN 3 18
MỤC TIÊU - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 18
3.2. Nội dung 18
3.2.1Tình hình cơ bản của địa điểm nghiên cứu 18
3.2.2Phân loại các mô hình NLKH ở xã Hương Lộc 18
3.2.3Các thành phần và mối quan hệ giữa chúng trong các mô hình nông lâm
kết hợp 18
3.2.4Một số nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của nông hộ 18
3.2.5Một số giải pháp phát triển hệ thống nông lâm kết hợp theo hướng bền
vững 18
3.3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu 18
3.3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 18

3.3.2. Phương pháp nghiên cứu 18
PHẦN 4 22
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
4.1. Tình hình cơ bản của địa điểm nghiên cứu 22
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 22
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 28
4.1.3. Những thuận lợi và khó khăn của xã Hương Lộc 32
4.2. Phân loại các mô hình nông lâm kết hợp ở xã Hương Lộc 34
3
4.3. Mô tả các thành phần và mối quan hệ giữa chúng trong các mô hình
NLKH 37
4.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của các mô hình nông
lâm kết hợp trên địa bàn xã Hương Lộc 56
4.4.1. Hiệu quả về kinh tế 56
4.4.2. Hiệu quả về xã hội 58
4.4.3. Hiệu quả về môi trường 58
4.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của hộ gia đình. 58
4.5.1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên 59
4.5.2. Ảnh hưởng của nguồn lực đến sản xuất của hộ gia đình 62
4.5.3. Ảnh hưởng thị trường đầu vào và đầu ra các sản phẩm 65
4.6. Một số giải pháp phát triển hệ thống nông lâm kết hợp theo hướng bền
vững 65
4.6.1. Hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư phân bón cho hộ gia đình 65
4.6.2. Giải pháp về chỉ đạo sản xuất 66
4.6.3. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 67
4.6.4. Giải pháp xây dựng tổ chức bộ máy khuyến nông 67
4.6.5. Giải pháp về vốn 67
4.6.6. Giải pháp về thị trường 68
PHẦN 5 68
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 68

5.1. Kết luận 69
5.2.Đề nghị 69
PHẦN 1
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông lâm kết hợp (NLKH) là phương thức trồng cây ngắn ngày xen
với cây dài ngày theo sự phối trí về không gian và thời gian. Cây ngắn ngày
trong mô hình nông lâm kết hợp có vai trò rất quan trọng trong sử dụng đất
dốc bền vững: trước hết cây ngắn ngày cung cấp lương thực đáp ứng nhu cầu
trước mắt của người dân, cung cấp thức ăn cho gia súc, phát triển chăn nuôi
hộ gia đình, cung cấp rau xanh, cây dược liệu, nguồn phân xanh cho sản xuất
nông nghiệp trên đất dốc. Cây ngắn ngày còn là một lớp thảm che phủ, chống
xói mòn khi cây rừng chưa khép tán, đồng thời còn hỗ trợ về mặt sinh thái
cho cây gỗ và cây trồng dài ngày khác. Hiệu quả kinh tế của cây ngắn ngày
phụ thuộc không chỉ vào giá trị sản phẩm mà nó cung cấp trong từng thời vụ
mà nó phụ thuộc vào khoảng thời gian có khả năng trồng xen với cây lâu
năm, trong cả giai đoạn kết hợp [3].
Trên thế giới, hệ thống nông lâm kết hợp đã xuất hiện từ lâu và phát triển
rất mạnh. Đặc biệt ở các nước phát triển, các mô hình nông lâm kết hợp phát
triển với quy mô lớn dưới dạng trang trại và đạt hiệu quả rất cao như ở Hoa Kỳ,
Hà Lan, Nhật Bản…Các mô hình này đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội, môi
trường rất tốt và còn đảm bảo tính bền vững cao.
Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống, trong khi đó diện tích
đất đồi núi khá lớn chiếm 3/4 diện tích cả nước nên việc kết hợp các mô hình
canh tác nông lâm kết hợp để tận dụng một cách có hiệu quả trên diện tích đất
hiện có nhằm vừa đảm bảo tạo thu nhập vừa bão vệ được môi trường sinh thái
là điều tất yếu. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa nông lâm ngư nghiệp trong
các mô hình trang trại ở nước ta đã có từ rất lâu, nhưng mới phát triển mạnh
trong những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Thực tiễn cho
thấy đây là một trong những phương thức thích hợp trong việc quản lý các

nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng đa dạng và bền vững. Do đặc điểm
tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi địa phương khác nhau đã tạo
nên nhiều mô hình NLKH đa dạng, đặc biệt tại các vùng cao, vùng sâu vùng
xa, nơi cần thiết vận dụng và phát triển những tiến bộ mới trong canh tác
hướng đến bảo tồn đất và nước.
5
Nhận thấy được vai trò của các mô hình NLKH, Nhà nước đã có các
chính sách hỗ trợ phát triển nông lâm kết hợp như: Các chính sách về đất đai
của Chính phủ được phản ánh ở trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư
(Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/01/1999, thông tư liên tịch số
62/2000/TTLT/BNN - TCĐC, ngày 6/6/2000; quyết định số 178/2001/QĐ -
TTg, ngày 12/11/2001…), các chính sách về khoa học công nghệ và các chính
sách về khuyến lâm để hỗ trợ phát triển NLKH, chính vì thế có nhiều mô hình
NLKH được xây dựng và phát triển khá nhanh. Nhiều nơi nông lâm kết hợp
thực sự đã đưa lại những hiệu quả đáng kể, góp phần nâng cao đời sống người
dân miền núi thông qua việc cung cấp các sản phẩm lương thực thực phẩm
(rau, trứng, thịt, sữa…), đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các hộ gia đình đó
là các sản phẩm như gỗ, củi, tinh dầu, v.v. giải quyết công ăn việc làm cho
người dân miền núi, tăng thu nhập cho người nông dân [6].
Mặt khác, hiện nay khí hậu toàn cầu đang bị biến đổi nghiêm trọng gây
ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của toàn nhân loại. Biến đổi khí hậu làm thay
đổi chế độ mưa nắng, nguy cơ nóng nhiều hơn, lượng mưa thay đổi sẽ dẫn
đến hiện tượng xói mòn và rửa trôi đất. Theo thông báo của Trung tâm
Nghiên cứu Nông - Lâm quốc tế (ICRAF), các mô hình NLKH là giải pháp
tốt nhất để tăng độ che phủ, giảm xói mòn rửa trôi và điều quan trọng nhất là
giảm sự nóng lên của toàn cầu, đồng thời giảm đói nghèo ở các nước đang
phát triển [5]. Như vậy một biện pháp để cải tạo khí hậu là tăng diện tích rừng
bằng cách trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Huyện Nam Đông nằm cách thành phố Huế khoảng 60 km về phía Tây-
Nam với tổng diện tích là 650,518 km

2
, với 2/3 diện tích đất là đồi núi. Trong
đó rừng tự nhiên chiếm 39.939.01 ha và 10/11 xã, thị trấn là có rừng tự nhiên.
Ngoài ra còn có hơn 1,859 ha rừng trồng. Do phía Nam bị chắn bởi các dãy
núi thuộc vườn quốc gia Bạch Mã nên ở đây có lượng mưa trung bình hàng
năm thuộc loại cao nhất nước. Lượng mưa trung bình hàng năm lên đến 4000-
5000 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm là từ 24-25
0
C, độ ẩm tương đối trung
bình hàng năm là 87-88% với đặc điểm tự nhiên khí hậu đó, nơi đây đã tạo ra
tiểu vùng khí hậu đặc trưng với hệ động thực vật phong phú và mang những
điểm thích nghi đặc trưng. Thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển các mô
hình nông lâm kết hợp.
6
Xã Hương Lộc thuộc huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hương
Lộc có địa hình chủ yếu là đồi núi, cuộc sống của người dân ở đây cũng thấp.
Tại đây, sau khi được giao đất giao rừng đã phát triển các mô hình nông lâm
kết hợp rất rộng. Tuy nhiên, các mô hình ở đây chưa được nhiều. Các mô hình
phần lớn là mới thành lập và hiệu quả chưa cao. Sự hiểu biết của người nông
dân quyết định tới việc kết hợp các loài cây trồng, vật nuôi như thế nào trong
hệ thống canh tác của họ là một vấn đề rất quan trọng trong nghiên cứu và
phát triển NLKH. Sự quyết định này sẽ rất đa dạng, nó phụ thuộc rất nhiều
yếu tố khác nhau trong sản xuất nông lâm kết hợp của người nông dân. Vì vậy
chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá hiện trạng và phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của hộ gia đình ở xã Hương
Lộc, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm nghiên cứu sự đa dạng
của mô hình NLKH và các nhân tố ảnh hưởng ở cấp nông hộ.
7
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Một số quan điểm về Nông lâm kết hợp
Hiện nay, trong khi hầu hết chúng ta hiểu một cách rất rõ ràng lâm nghiệp
hay nông nghiệp là gì thì nông lâm kết hợp là một lĩnh vực hết sức phức tạp. Có rất
nhiều khái niệm khác nhau về NLKH được phát triển và thay đổi theo thời gian.
Theo Bene và các cộng sự (1977), NLKH là một hệ thống quản lý đất bền
vững nhằm gia tăng sức sản xuất tổng thể của đất đai; phối hợp sự sản xuất của
các cây hoa màu (kể cả cây lâu năm) và cây rừng và/ hoặc với vật nuôi cùng một
lúc hay kế tiếp nhau trên một diện tích đất; và áp dụng các kỹ thuật canh tác
tương ứng với các điều kiện văn hoá xã hội của người dân địa phương [5].
Nair (1987) đưa ra khái niệm NLKH là một hệ thống sử dụng đất trong đó
có sự phối hợp cây lâu năm với cây hoa màu và /hoặc vật nuôi một cách thích
hợp với điều kiện sinh thái và xã hội theo hình thức phối hợp không gian và thời
gian để gia tăng sức sản xuất tổng thể của cây trồng và vật nuôi một cách bền
vững trên một đơn vị diện tích đất đai, đặc biệt trong các tình huống có kỹ thuật
thấp và trên các vùng đất khó khăn [5].
NLKH là tên chung của những hệ thống sử dụng đất, trong đó các cây lâu
năm (cây gỗ, tre, cây ăn quả…) được trồng có tính toán trên cùng một đơn vị
diện tích đất với cây hoa màu và/ hoặc vật nuôi dưới dạng xen theo không gian
hay theo thời gian. Trong các hệ thống nông lâm kết hợp có mối quan hệ tương
hỗ cả về mặt sinh thái và kinh tế giữa các thành phần của chúng (Lungdgren và
Raintree, 1983) [5].
Hiện nay, NLKH được xem như là một hệ thống quản lý tài nguyên thiên
nhiên. Hệ thống này kết hợp các loài cây trồng ở trang trại và ở các cảnh quan
nông nghiệp (agricultural landcape) để đa dạng hoá và duy trì sản xuất. Mối
quan tâm trong việc đẩy mạnh xúc tiến NLKH bắt nguồn từ lợi ích về kinh tế, xã
hội và môi trường của nó cho tất cả những người sử dụng đất [5].
Có thể nói rằng NLKH trên thế giới bắt đầu phát triển mạnh vào cuối thế
kỷ 19, khi mà hệ thống Taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới sự
bảo hộ của thực dân Anh. Trong các đồn điền trồng cây gỗ Tếch (Tectona
8

grandis), người lao động được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây
chưa khép tán để giải quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Phương thức này sau
đó được áp dụng rộng rãi ở Ấn Độ và Nam Phi. Các nghiên cứu và phát triển các
hệ thống kết hợp này thường hướng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp, được
thực hiện bởi các nhà lâm nghiệp với việc luôn cố gắng đảm bảo các nguyên tắc:
• Giảm thiểu hoặc không gây tổn hại đến các loài cây rừng trồng, là đối
tượng cung cấp sản phẩm chính trong hệ thống.
• Sinh trưởng của cây rừng trồng không bị hạn chế bởi cây nông nghiệp.
• Tối ưu hoá về thời gian canh tác cây trồng nông nghiệp sẽ bảo đảm tỷ lệ
sống và tốc độ sinh trưởng nhanh của cây trồng thân gỗ.
• Loài cây rừng trồng có khả năng cạnh tranh với các loài cây nông nghiệp.
• Tối ưu hoá mật độ để đảm bảo sự sinh trưởng liên tục của cây trồng
thân gỗ.
Chính vì vậy mà các hệ thống này chưa được xem xét như là một hệ
thống quản lý sử dụng đất có ý nghĩa cho phát triển nông nghiệp (Nair, 1995)
[5].
Nhiều nhân tố và sự phát triển trong những năm 1970 đã tạo điều kiện cho
việc công nhận NLKH là một hệ thống quản lý sử dụng đất có khả năng áp dụng
cho cả trên trang trại (nông nghiệp) và trên đất rừng (lâm nghiệp). Các nhân tố
này bao gồm:
• Sự đánh giá lại chính sách phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB).
• Sự tái thẩm định các chính sách lâm nghiệp của Tổ chức Lương Nông
(FAO) thuộc Liên Hợp Quốc.
• Sự thức tỉnh các mối quan tâm khoa học về xen canh và hệ thống canh tác.
• Tình trạng thiếu lương thực ở nhiều vùng trên thế giới.
• Sự gia tăng nạn phá rừng và suy thoái về môi trường sinh thái.
• Cuộc khủng hoảng năng lượng trong thập niên 70 của thế kỷ 20 và sau
đó là sự leo thang về giá cả và phân bón.
• Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Quốc tế (IDRC) của Canada thiết
lập dự án xác định các ưu tiên nghiên cứu về lâm nghiệp nhiệt đới.

• Sự hình thành Trung tâm Quốc tế về nghiên cứu NLKH (ICRAF) [5].
9
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông
lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời như các hệ thống canh tác nương rẫy
truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều
vùng địa lý sinh thái trên khắp cả nước… Từ thập niên 60, song song với phong
trào thi đua sản xuất, hệ sinh thái Vườn - Ao - Chuồng (VAC) được nhân dân
các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều biến
thể khác nhau thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể. Sau đó là các hệ thống
Rừng - Vườn - Ao - Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển mạnh ở các
khu vực dân cư miền núi. Trong hai thập niên gần đây, phát triển nông thôn
miền núi theo phương thức nông lâm kết hợp ở các khu vực có tiềm năng là một
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Quá trình thực hiện chính sách
định canh định cư, kinh tế mới, gần đây các Chương trình 327, Chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng (661) và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại đều có liên quan tới việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm
kết hợp tại Việt Nam [5].
Các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng đã được một số nhà
khoa học, tổ chức tổng kết dưới những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn
phẩm của Lê Trọng Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ
sinh thái nông nghiệp vùng trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân
văn. Các hệ thống nông lâm kết hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi
FAO và IIRR (1995) cũng như đã được mô tả trong ấn phẩm của Cục Khuyến
Nông và Khuyến lâm dưới dạng các “mô hình” sử dụng đất. Mittelman (1997)
đã có một công trình tổng quan rất tốt về hiện trạng nông lâm kết hợp và lâm
nghiệp xã hội ở Việt nam, đặc biệt là các nhân tố chính sách ảnh hưởng đến sự
phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên các tài liệu nghiên cứu về tương tác giữa
phát triển nông lâm kết hợp với môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội xung quanh
(vi mô và vĩ mô) vẫn còn rất ít [ 5].
2.2. Vai trò của Nông lâm kết hợp

Nông lâm kết hợp nghiên cứu, tìm hiểu các mô hình phù hợp tốt nhất cho
những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau. Các mô hình nông lâm kết hợp có
vai trò rất lớn cả về mặt dân sinh kinh tế, xã hội và môi trường. Về mặt kinh tế,
các mô hình này đã đem lại thu nhập cho người dân từ việc khai thác, trao đổi
10
các sản phẩm sản xuất được đến việc cung cấp lương thực, thực phẩm tiêu dùng
hàng ngày đặc biệt là nhằm đảm bảo an ninh lương thực cho người dân, đồng
thời cung cấp thức ăn cho gia súc, tạo ra các vùng nguyên liệu cho tiểu thủ công
nghiệp, cung cấp vật liệu xây dựng nhà, nông trại…
Về mặt xã hội, nông lâm kết hợp góp phần tạo công ăn việc làm cho
người dân, vừa sử dụng được công lao động nhàn rỗi vừa tăng được thu nhập
cho gia đình và giảm được các tệ nạn xã hội, giảm áp lực lên các thành phố…
Còn về mặt môi trường, hơn 20 năm nghiên cứu nông lâm kết hợp phối
hợp với các kết quả nghiên cứu về sinh thái học, nông nghiệp, lâm nghiệp và
khoa học đất đã cho thấy các hệ thống nông lâm kết hợp - nếu được thiết kế và
quản lý thích hợp - sẽ có khả năng: giảm dòng chảy bề mặt và xói mòn đất, duy
trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát huy chu trình tuần hoàn dinh
dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và vật nuôi. Nhờ vậy
gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm sức ép của dân số gia
tăng lên tài nguyên đất (Young, 1997), không những thế nông lâm kết hợp còn
làm giảm hiệu ứng nhà kính [5].
Lợi ích của phương thức canh tác trồng xen cây nông nghiệp, cây dược
liệu, và cây đặc sản có khả năng chịu bóng hoặc ưa bóng dưới tán rừng là:
- Chúng ta đã gắn bó chặt chẽ được các hoạt động sản xuất của người dân
địa phương với hoạt động sản xuất lâm nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng. Do họ
có thu nhập thường xuyên, hàng năm từ các cây trồng xen dưới tán để bảo đảm
cuộc sống của họ [1].
- Các loại rừng tự nhiên và rừng trồng là loại gỗ lớn, quý với chu
kỳ khai thác dài 40-50 năm hoặc lâu hơn, vẫn có khả năng bảo vệ và phát triển ở
các địa phương trong nước với sự đầu tư của nhà nước không nhiều [1].

- Việc trồng xen các cây nông nghiệp, cây dược liệu, cây ăn quả,
cây đặc sản có khả năng chịu bóng hoặc ưa bóng dưới tán rừng còn có tác dụng
sử dụng hợp lý có hiệu quả nguồn năng lượng ánh sáng dồi dào ở vùng nhiệt đới
như ở Việt Nam [1].
- Nó còn có tác dụng làm tăng thêm khả năng thấm nước và giữ
nước, khả năng chống xói mòn đất của rừng tự nhiên, nhất là rừng trồng, nhằm
11
hạn chế lũ lụt trong mùa mưa và có nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp
trong mùa khô trong một khu vực, một vùng tự nhiên [1].
- Những công trình nghiên cứu của Uỷ ban Chính phủ về thay đổi
khí hậu (IPCC) do tập thể các nhà khoa học nghiên cứu về hiện tượng khí hậu đã
chứng minh rằng các hệ thống nông lâm có thể “bẫy” được lượng cacbon gấp 3
lần trên cùng một diện tích đất trồng và đồng cỏ, đồng thời ít ra cũng đạt 60%
trên cùng một diện tích mới trồng trọt và rừng tái sinh. Sanchez nói: “tương lai
của rừng ở các nước đang phát triển là trên đồng ruộng. Trong các vùng có
lượng mưa cao, do dân số gia tăng và đất bị phát quang để canh tác, người nông
dân trồng cây bởi lẽ họ rất cần các sản phẩm của cây cối, khiến họ phải trồng
rừng”. Một báo cáo đặc biệt của IPPC tháng 5/2000 với nhan đề “sử dụng đất,
thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp” đã nêu rõ, việc chuyển đổi đất trồng không
có năng suất và đất chăn thả thành đất nông lâm nghiệp có tiềm năng cao nhất để
hấp thu cacbon của khí quyển. Theo các số liệu thống kê của IPCC, trong một
năm nếu quản lý tốt, đất chưa trồng trọt có thể bẫy được 12 megaton CO
2
khí
quyển, đất chăn thả mới - 240 megaton, rừng mới trồng và tái sinh - 197 đến 584
megaton và nông lâm kết hợp - 390 megaton. Báo cáo còn cho biết, ngược lại
suy thoái rừng phát tán hàng năm 1788 megaton cacbon trong khí quyển [9].
Sản xuất nông lâm kết hợp là việc kết hợp các cây con trên cùng một
đơn vị diện tích. Nông lâm kết hợp gia tăng độ che phủ của đất do trồng các
cây dài ngày, thâm canh hoa màu nên làm cho đất được che phủ thường

xuyên, hạn chế xói mòn đất. Bên cạnh đó trong mô hình còn trồng các loại
keo, các loại đậu có tác dụng cải tạo đất tốt. Mặt khác, trong mô hình còn sử
dụng các loại phân chuồng có tác dụng tốt đối với đất. Do điều kiện địa hình
dốc, nên để hạn chế xói mòn người ta còn tạo ra các hàng ranh trên đó trồng
các cây có tác dụng giữ đất như Dứa, Tre, Lồ ô, các cây ăn quả…
Việc tận dụng triệt để không gian trong mô hình cũng đã sử dụng tối đa
năng lượng Mặt Trời, phát huy tiềm năng sinh thái học, tạo ra hệ sinh thái tối
đa. Cây trồng được thâm canh một cách tối đa trên cùng diện tích nên năng
lượng Mặt Trời luôn được sử dụng. Các loài cây trồng lâu năm và hàng năm
được trồng xen kẽ nhau vừa giảm được xói mòn và tận dụng ánh sáng Mặt
Trời triệt để.
12
Các vùng nông thôn miền núi, đó là những nơi có diện tích sản xuất
lương thực khá nhỏ nên gây khó khăn cho người dân trong vấn đề an ninh
lương thực. Họ hầu như không đủ lương thực trong một năm, trong thời gian
thiếu lương thực họ phải sống dựa vào các sản phẩm từ rừng hoặc là phải đi
mua từ bên ngoài. Do đó, việc sử dụng mô hình nông lâm kết hợp không
những hạn chế được việc mất rừng mà còn tăng cường diện tích sản xuất
lương thực. Trong giới hạn diện tích người ta vừa trồng các cây lâu năm, vừa
trồng các cây hàng năm, giúp cho lấy ngắn nuôi dài mà còn đảm bảo lương
thực cho người dân. Người dân có thể kết hợp các cây hoa màu như sắn,
khoai, lạc, cải…đan xen nhau để tăng năng suất. Sản xuất dựa vào nông lâm
kết hợp giúp người dân sản xuất ổn định trên cùng một diện tích, đảm bảo
lương thực, không gây xói mòn đất, cải tạo điều kiện khí hậu. Như vậy, các
mô hình nông lâm kết hợp góp phần vào quá trình phát triển nông thôn. Trên
thực tế, đã có nhiều hộ gia đình đã vươn lên làm giàu từ các mô hình trang
trại, trong đó các mô hình sử dụng nông lâm kết hợp chiếm đa số.
Nông lâm kết hợp được nghiên cứu về cả mặt lý luận và thực tiễn. Lý
luận của nông lâm kết hợp được viết thành các sách, các bài giảng của các tổ
chức quốc tế, các trường đại học, cao đẳng Từ những lý luận đó, người ta mới

tiến hành nghiên cứu thực tiễn của các mô hình nông lâm kết hợp.
Các nghiên cứu về nông lâm kết hợp nhằm nâng cao đời sống của các
cộng đồng dân cư sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng nhằm giảm áp lực
vào rừng và phát triển bền vững. Lĩnh vực nông lâm kết hợp đã được các tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước quan tâm và nghiên cứu. Những
nghiên cứu về nông lâm kết hợp là một cơ sở để cho người dân phát triển kinh
tế, đồng thời cũng góp phần bảo vệ tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ở nước ngoài, nông lâm kết hợp được áp dụng nhiều và nó đưa lại hiệu
quả kinh tế cao. Nông lâm kết hợp được phát triển trong các trang trại có quy
mô lớn và đầu tư khoa học kỹ thuật cao nên không chỉ có phục vụ trong một
hộ gia đình mà phát triển ở quy mô hàng hoá. Ở trong các trang trại này tỷ lệ
cơ giới hoá cao. Do đó, hiệu quả sản xuất của nó cao hơn, cùng với thị trường
ổn định hơn ở nước ta.
13
Ở nước ta, là một nước có nền nông nghiệp lâu đời và diện tích đồi núi
chiếm phần lớn đất tự nhiên. Vì thế việc áp dụng tổng hợp nhiều thành phần
trong một mô hình sản xuất đã có từ lâu đời. Các mô hình nông lâm kết hợp ở
nước ta còn mang tính tự phát nhiều và dựa chủ yếu vào kinh nghiệm sản xuất
của người dân. Mặc dù vậy, hiện nay ở nước ta đã có nhiều mô hình có hiệu
quả khả quan nhất là ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu và định nghĩa về các mô hình nông lâm kết hợp thì mới xuất hiện
gần đây. Mặc dù vậy, lĩnh vực nông lâm kết hợp vẫn là mảng đề tài được
nghiên cứu tương đối nhiều và đạt kết quả tốt. Các nghiên cứu được cập nhật
qua các trang báo như Nông thôn ngày nay, Kinh tế nông thôn, Tạp chí khoa
học… Những nghiên cứu nổi bật ở đây là hiệu quả của các mô hình nông lâm
kết hợp ở trên các địa bàn khác nhau trong các trang trại. Vì đặc thù của nước ta
địa hình chủ yếu là đồi núi nên việc thuần nhất một loại cây trồng hay vật nuôi là
rất khó. Do đó, việc kết hợp các thành phần nông - lâm - ngư nghiệp trong sản
xuất là điều rất cần thiết và nó cũng đã đem lại những kết quả khả thi.
2.3. Các dạng mô hình Nông lâm kết hợp ở Việt Nam

Tại các nước châu Á cũng như Việt Nam, các cộng đồng dân cư, dân
tộc ít người đã và đang sinh sống tại các vùng rừng núi, vùng sâu vùng xa, nơi
giao thông liên lạc khó khăn chính họ là người tiên phong trong việc hình
thành các mô hình nông lâm kết hợp. Ở Việt Nam do điều kiện địa hình đồi
núi chiếm phần lớn, cùng với khí hậu nhiệt đới gió mùa lắm nắng nhiều mưa
cho nên các mô hình được lựa chọn nhiều nhất vẫn là các mô hình Vườn - Ao
- Chuồng (VAC), Vườn - Ao - Chuồng - Rừng (VACR), vườn cây ăn quả,
vườn cây công nghiệp… Những mô hình này là hệ thống nông lâm kết hợp
truyền thống, mang đậm những kinh nghiệm sản xuất bản địa của người xưa,
nên rất phù hợp với từng vùng địa phương, góp phần giải quyết về kinh tế,
giải quyết lao động dư thừa trong xã hội và trình độ sản xuất thấp, đồng thời
cũng đảm bảo môi trường không bị thay đổi nhiều. Các mô hình kinh tế
chuyên canh hầu như rất ít, thường phân bố ở các vùng Tây Nguyên như trang
trại cà phê, điều…, vùng Nam Bộ, vùng Tây Bắc. Còn ở các vùng khác nhất
là các vùng miền Trung thì các mô hình đa cây, con là rất phổ biến [5].
14
Nguyên nhân của việc lựa chọn các mô hình trên vừa đảm bảo được cả
tính kinh tế, môi trường, xã hội.
- Nếu canh tác trên các vùng đất dốc mà sử dụng độc canh cây ngắn
ngày sẽ gây ra xói mòn lớn, làm thay đổi môi trường sống và sản xuất hiệu
quả không cao do đất đai ngày càng xấu đi, khí hậu khắc nghiệt.
- Nếu canh tác chỉ chăn nuôi hay cây lâu năm như cây rừng thì sẽ không
đủ lương thực cho đời sống vì người dân nông thôn miền núi đang có nguy cơ
thiếu lương thực nghiêm trọng. Mặt khác, sử dụng đa cây, con trong các mô hình
cũng góp phần giảm thiểu rủi ro của biến động thị trường gây nên.
- Theo Nguyễn Văn Trương (1985) đã nghiên cứu về một số đặc điểm
về đất đai, khí hậu và cây trồng phòng hộ, kiến trúc các mô hình nông lâm kết
hợp trên các vùng đất hoang, đồi núi trọc, xây dựng mô hình nông lâm trên gò
đồi, hệ nông lâm trên đồi núi, xây dựng hệ canh tác trên các hệ tự nhiên.
Trong phần xây dựng các mô hình nông lâm trên gò đồi đã đưa ra một số mô

hình như: Mô hình trồng thuần loài cây nhỏ bé trên vùng gò đồi, kiến trúc
nông lâm trên vùng đồi núi có độ dốc vừa 15 - 20
0
, mô hình rừng cây bãi cỏ
và rừng để chăn nuôi. Hệ thống nông lâm trên đồi núi có mô hình nương bậc
thang, mô hình rừng - vườn - ruộng bậc thang, mô hình phức hợp rừng, rừng
vườn và nương bậc thang, mô hình nông lâm kết hợp tạm thời. Diện tích đất
hoang đồi núi ở nước ta hiện nay cũng tương đối lớn. Đó là kết quả của
phương thức sử dụng tài nguyên rừng, đất, nước theo các cách khai thác mở.
Chúng ta hiểu rõ đặc điểm hệ tự nhiên, đánh giá đúng các tác nhân không lợi
và phát huy sự đóng góp của những nhân tố khác, mở mang canh tác một cách
khoa học, thì rõ ràng chúng ta không làm ảnh hưởng đến môi trường mà còn
kiến tạo ra những hệ canh tác bền vững, phong phú, góp phần làm cho dân
giàu, nước mạnh. Trên những vùng đồi núi chúng ta có nhiều đồi núi trọc, kết
quả việc sử dụng mang tính chất bóc lột thiên nhiên nhưng bên cạnh đó lại có
những rừng quế, rừng hồi, những rừng vườn rất phong phú, cung cấp nhiều
sản phẩm, bền vững trên đất đồi, những nơi có mưa to và có mùa khô [4].
15
2.4. Thực trạng và những thách thức khi thiết lập các mô hình Nông lâm
kết hợp
Thực trạng xây dựng và phát triển các mô hình nông lâm kết hợp trên
đất nước ta rất đáng chú ý. Những hiệu quả của các mô hình hay những vấn
đề còn tồn tại được xem xét ở nhiều khía cạnh để đưa ra các hướng phát triển
cũng như các giải pháp khắc phục thể hiện qua các trang báo của Tạp chí
khoa học, báo điện tử… như:
Đời sống người dân ở nước ta còn thấp vì thế việc quan tâm đầu tư vào
các mô hình còn ít, chưa được chú trọng, kèm theo đó là trình độ văn hoá còn
thấp nên rất khó khăn trong việc áp dụng các khoa học kỹ thuật vào sản xuất
cũng như nắm bắt được các thông tin thị trường.
Cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư thoả đáng, phần lớn ở những nơi có mô

hình nông lâm kết hợp chưa có giao thông thuận tiện, điện lưới chưa đầy đủ.
Những chính sách của Nhà nước như giao đất giao rừng, thủ tục vay
vốn còn rất rườm rà…
Do đó, việc thiết lập các mô hình nông lâm kết hợp đang gặp rất nhiều
thách thức. Nước ta là một nước đang phát triển nên nền kinh tế đang còn
thấp, đời sống của người dân còn gặp rất nhiều khó khăn nên việc đầu tư phát
triển sản xuất bị hạn chế. Trình độ dân trí còn thấp, nhất là các vùng nông
thôn miền núi, đây lại là những nơi thực hiện các mô hình nông lâm kết hợp
nhiều nhất. Bên cạnh đó, các chính sách của Nhà nước còn rất nhiều bất cập
gây khó khăn cho người dân trong việc thành lập các mô hình nông lâm kết
hợp như giao đất giao rừng, thuế, vay vốn…Vì vậy, để thiết lập các mô hình
nông lâm kết hợp và đưa lại hiệu quả tốt cần phải kết hợp nhiều yếu tố. Trước
hết, việc lựa chọn mô hình phải thích hợp về điều kiện lập địa, điều kiện kinh
tế cũng như kinh nghiệm sản xuất của người dân là rất cần thiết. Mục tiêu chủ
yếu của việc thiết lập các mô hình là giải quyết sinh kế cho người dân, đặc
biệt là các vùng nông thôn, miền núi. Hiện nay, ở nước ta trình độ sản xuất
cũng như kinh nghiệm quản lý chưa cao. Vì thế, lựa chọn mô hình thích hợp
để người dân có thể chủ động trong quá trình phát triển của mô hình. Thứ hai,
mô hình được thành lập phải đảm bảo tính xã hội. Ở nước ta nói chung, các
vùng nông thôn nói riêng tỷ lệ người thất nghiệp khá cao, cho nên các mô
16
hình sản xuất này còn phải góp phần giải quyết việc làm cho người dân, từ đó
góp phần giảm các tệ nạn xã hội. Mặt khác, các mô hình được lựa chọn phải
đảm bảo về môi trường, không những làm môi trường không thay đổi theo
chiều hướng xấu mà còn làm trong sạch môi trường thiên nhiên.
Nghiên cứu về nông lâm kết hợp được chú trọng nhiều trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam các mô hình nông lâm kết hợp
được viết thành sách, bài giảng…Trên các trang báo điện tử nhất là
www.nongthon.net nhiều tác giả có những bài viết về hiệu quả của các mô
hình làm kinh tế giỏi trong đó các mô hình nông lâm kết hợp được đăng rất

nhiều. Những nghiên cứu về nông lâm kết hợp là bước đầu tạo đà cho sự phát
triển của nông lâm kết hợp.
17
PHẦN 3
MỤC TIÊU - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân loại và mô tả các mô hình nông lâm kết hợp đang tồn tại ở xã
Hương Lộc, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phân tích các thành phần và mối quan hệ giữa chúng trong các mô
hình nông lâm kết hợp
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của
nông hộ.
3.2. Nội dung
3.2.1 Tình hình cơ bản của địa điểm nghiên cứu
3.2.2 Phân loại các mô hình NLKH ở xã Hương Lộc
3.2.3 Các thành phần và mối quan hệ giữa chúng trong các mô hình nông
lâm kết hợp
3.2.4 Một số nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm kết hợp của nông hộ
3.2.5 Một số giải pháp phát triển hệ thống nông lâm kết hợp theo hướng bền
vững
3.3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các mô hình nông lâm kết hợp hiện có trên địa bàn xã Hương Lộc.
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu thứ cấp được xem xét thông qua các
tài liệu, các quyết định, báo cáo, văn bản liên quan đến việc xây dựng các mô
hình nông lâm kết hợp, báo cáo về điều kiện tự nhiên, xã hội, điều kiện kinh
tế của địa phương. Các số liệu thu thập từ Uỷ ban xã, Phòng NN và PTNT,
Phòng Tài nguyên đất và Môi trường…

- Thu thập số liệu sơ cấp: Các thông tin sơ cấp được thu thập thông qua
+ Sử dụng một số công vụ PRA như lát cắt sinh thái
+ Phỏng vấn: Phỏng vấn các hộ gia đình hay nhóm hộ gia đình có xây
dựng các mô hình nông lâm kết hợp, bằng bộ câu hỏi đóng hoặc mở nhằm tìm
hiểu về tình hình sản xuất của các hộ gia đình có mô hình nông lâm kết hợp,
18
hiệu quả sản xuất, khó khăn trong quá trình sản xuất, nhu cầu, nguyện vọng
của họ trong quá trình thực hiện các mô hình…
+ Phương pháp quan sát có sự tham gia: Quan sát các mô hình có sự
tham gia của người dân để mô tả các mô hình về quy mô, kết cấu và đánh giá
sơ bộ hiệu quả của các mô hình…
+ Phương pháp xử lý số liệu: Phân tích hiệu quả kinh tế
* Cây lâm nghiệp:
+ Tổng chi phí cho chu kỳ sản xuất (C)
C = VC + CLĐ
Trong đó:
C: Tổng chi phí cho chu kỳ sản xuất (tính cả lao động gia đình).
VC: Chi phí vật chất (Giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…).
CLĐ: Công lao động gồm (Công lao động xử lý thực bì + Công trồng +
Công chăm sóc + Công quản lý bảo vệ + Công khai thác).
+ Tổng chi phí hàng năm (C1)
C1 = C : N
Trong đó:
C1: là chi phí hàng năm
C: Tổng chi phí cho chu kỳ sản xuất
N: Số năm của chu kỳ sản xuất
+ Tổng thu của chu kỳ sản xuất (TT)
TT = SL × G
Trong đó:
TT: Tổng thu của chu kỳ sản xuất

SL: Sản lượng
G: Giá sản phẩm khi thu hoạch
+ Tổng thu hàng năm (TT1)
TT1 = TT : N
Trong đó:
TT1: Tổng thu hàng năm
TT: Tổng thu của chu kỳ sản xuất
N: Số năm của chu kỳ sản xuất
19
+ Lợi nhuận cả chu kỳ sản xuất (LN)
LN = TT - C
Trong đó:
LN: Lợi nhuận cả chu kỳ sản xuất
TT: Tổng thu của chu kỳ sản xuất
C: Tổng chi phí cho chu kỳ sản xuất
+ Lợi nhuận hàng năm (LN1)
LN1 = TT1 - C1
Trong đó:
LN1: Lợi nhuận hàng năm
TT1: Tổng thu hàng năm
C1: Chi phí hàng năm
+ Tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn (R)
R = (LN1 : C1) × 100%
Trong đó:
R: tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn
LN1: Lợi nhuận hàng năm
C1: chi phí đầu tư hàng năm
* Cây công nghiệp
Chu kỳ sản xuất = Thời kỳ kiến thiết cơ bản (từ khi trồng đến khi chuẩn
bị ra hoa kết quả ) + Thời kỳ kinh doanh (giai đoạn cây cho thu hoạch).

Tổng chi phí hàng năm = Khấu hao thời kỳ kiến thiết cơ bản + Chi phí
hàng năm ở thời kỳ kinh doanh.
Khấu hao của thời kỳ kiến thiết cơ bản = Tổng chi phí thời kỳ kiến thiết
cơ bản/ Số năm của thời kỳ kiến thiết cơ bản.
Chi phí hàng năm ở thời kỳ kinh doanh = Công lao động chăm sóc +
Các loại vật tư kỹ thuật chuyên dùng + Chi phí vật rễ mau hỏng hàng năm +
Công lao động thu hoạch.
Tổng thu ở thời kỳ kinh doanh = Sản lượng x Đơn giá.
Lợi nhuận hàng năm ở thời kỳ kinh doanh = Tổng thu hàng năm ở thời
kỳ kinh doanh – Chi phí hàng năm ở thời kỳ kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn = Lợi nhuận hàng năm ở thời kỳ kinh
20
doanh/ Tổng chi phí hàng năm x 100%.
* Cây hàng năm
+ Tổng chi phí hàng năm (C)
C = VC + CLĐ
Trong đó:
C: là chi phí hàng năm
VC: Chi phí vật chất (Giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…)
CLĐ: Công lao động gồm (Công làm đất + Công trồng + Công chăm
sóc + Công quản lý bảo vệ + Công thu hoạch)
+ Tổng thu hàng năm (TT)
TT = SL × G
Trong đó:
TT: Tổng thu hàng năm
SL: Sản lượng
G: Giá sản phẩm khi thu hoạch
+ Lợi nhuận = Tổng thu hàng năm - Tổng chi phí của cây hàng năm.
* Chăn nuôi
Tổng doanh thu trong năm = Sản lượng x Đơn giá

Tổng chi phí trong năm = Con giống + Thức ăn + Thuốc trị bệnh +
Công chăm sóc
Lợi nhuận trong năm = Tổng thu trong năm - Tổng chi phí trong năm
21
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình cơ bản của địa điểm nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Hương Lộc nằm về phía Đông của huyện và gần kề trung tâm
huyện lỵ.
Toạ độ địa lý của xã:
• Điểm cực Bắc: 16
0
11’27’’ vĩ Bắc, 107
0
48’51’’ kinh Đông.
• Điểm cực Nam: 16
0
07’42’’ vĩ Bắc, 107
0
45’34’’ kinh Đông.
• Điểm cực Đông: 16
0
10’01’’ vĩ Bắc, 107
0
52’32’’ kinh Đông.
• Điểm cực Tây: 16
0
09’25’’ vĩ Bắc, 107

0
43’22’’ kinh Đông.
Ranh giới hành chính của xã:
- Phía Bắc giáp xã Hương Phú
- Phía Nam giáp xã Thượng Lộ
- Phía Đông giáp huyện Phú Lộc và tỉnh Quảng Nam
- Phía Tây giáp thị trấn Khe Tre và xã Thượng Lộ
Xã Hương Lộc có tổng diện tích tự nhiên là 6.633,60 ha, toàn xã được
tổ chức thành 03 thôn, bao gồm: Thôn 1 (Lộc Hưng), thôn 2 (Lộc Mỹ), thôn 3
(Mỹ Hưng).
Xã Hương Lộc có dạng dẹt, kéo dài theo hướng Đông - Tây, có tỉnh lộ
14B chạy dọc theo phía Bắc của xã, nối liền các xã trong huyện, đồng thời là
trục giao thông chính nối liền huyện lỵ Nam Đông với quốc lộ 1 qua đèo La Hy.
Xã Hương Lộc còn là vùng phòng hộ đầu nguồn sông Hương, vì vậy nó
chiếm một vị trí quan trọng đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái và phát
triển kinh tế của cả tỉnh Thừa Thiên Huế [7], [8].
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình xã Hương Lộc chủ yếu là đồi núi có dạng lòng chảo, trũng ở
giữa và thông với thị trấn Khe Tre, xã Thượng Lộ bởi vùng trũng dọc theo
sông Phú Mậu. Hướng nghiêng chung của địa hình là hướng Nam - Bắc. Phía
Nam được bao bọc bởi các dãy núi có nhiều đỉnh cao trên 1.000m như núi
ĐLịp (1.230m), núi Ki Giao (1.200m), núi Bạch Mã (1.085m), núi Nôm
22
(1.038m). Khu vực phía Bắc tiếp giáp với núi Nôm (671m).
Với dạng địa hình được núi bao bọc ba phía, địa hình thấp dần về phía
trung tâm xã, tạo thành một khu vực bằng phẳng ở trung tâm xã có độ cao
trung bình 248m so với mực nước biển.
Địa hình xã Hương Lộc được phân chia thành 02 bộ phận chính:
- Vùng gò đồi xen vùng thấp trũng trung tâm xã có dạng một lòng chảo
kéo dài theo hướng Đông Bắc - Tây Nam.

- Vùng núi thấp và trung bình chiếm diện tích lớn, phân bố ở phía Nam
và một phần nhỏ ở phía Bắc.
4.1.1.3. Điều kiện khí hậu
Nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ nên khí hậu xã Hương Lộc nói riêng
và huyện Nam Đông nói chung thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa
Đông lạnh. Hương Lộc ít chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng vào mùa
Hè vì nó đã bị các dãy núi ở phía Tây của lãnh thổ chặn lại nên về mùa hè có khí
hậu mát hơn, mưa nhiều hơn so với khu vực đồng bằng.
+ Nhiệt độ trung bình: Nhiệt độ trung bình hàng năm là từ 24-25
0
C.
Nhưng nhiệt độ cao nhất của các tháng trong năm có thể lên đến 38
0
C như
tháng 4 và tháng 5 năm 2003, nhiệt độ trung bình là 38,5 và 38,6
0
C. Nhiệt độ
thấp nhất thường rơi vào tháng 1 và 2 với nhiệt độ từ 10-14
0
C. Như vậy nhiệt
độ ở đây rất thích hợp cho sự phát triển của các loại cây trồng, tuy nhiên vào
những tháng nhiệt độ cao, lượng mưa ít gây ra hạn hán, thiếu nước tưới tiêu,
cây trồng thường cằn cỗi, sinh trưởng chậm, ngoài ra một số cây ăn quả còn
bị nám quả… vào những tháng lạnh, nhiệt độ hạ thấp xuống kèm theo mưa
làm cho độ ẩm không khí tăng lên, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
một số loại vi rút, vi khuẩn gây bệnh ở cây trồng (nấm quả, thối thân, phấn
trắng ở keo…) và vật nuôi (cúm gia cầm, gà rù, gia súc bị chết do quá
lạnh…), như vậy nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng và phát
triển của cây trồng và vật nuôi.
+ Lượng mưa trung bình hàng năm lên đến 4000-5000mm, nhưng phân

bố không đồng đều giữa các tháng trong năm. Lượng mưa cao nhất của các
tháng trong năm tập trung vào các tháng từ 10-12, lượng mưa thấp nhất là vào
23
tháng 5. Sự phân bố không đồng đều lượng mưa có ảnh hưởng lớn đến sản
xuất và sinh hoạt của bà con nông dân. Vào những tháng mưa nhiều, lượng
mưa tập trung 80% lượng mưa cả năm với cường độ lớn gây xói mòn đất, lũ
lụt trên toàn bộ diện tích, có khi còn xảy ra lũ quét. Làm ngập úng các cây
trồng nông nghiệp làm giảm năng suất cây trồng. Ngược lại vào những tháng
nhiệt độ cao, lượng mưa ít sẽ bị hạn hán thiếu nước sinh hoạt và sản xuất của
các hộ gia đình.
+ Độ ẩm không khí tương đối trung bình hàng năm là 87-88%, độ ẩm
cao nhất là thường vào mùa mưa từ tháng 10-12 với độ ẩm trung bình lên đến
95%. Độ ẩm cao là một thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng, vật nuôi.
Tuy nhiên, độ ẩm cao kèm theo mưa nhiều, thiếu ánh sáng sẽ là điều kiện
thuận lợi cho các sinh vật gây bệnh cho cây trồng và vật nuôi. Làm giảm năng
suất, gây thiệt hại kinh tế.
Nhìn chung, khí hậu nơi đây thuận lợi cho việc phát triển sản xuất
nông, lâm nghiệp với nhiều công thức luân canh đa dạng và phong phú.
Khí hậu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống con
người. Nó chi phối mạnh đến quá trình sản xuất của người dân như lịch mùa
vụ, thời điểm chăm sóc, loại cây trồng… Tuy nhiên cần phải theo dõi thời tiết
để đưa ra kế hoạch sản xuất và phòng trừ sâu bệnh cho cây con.
4.1.1.4. Tài nguyên
a/ Đất
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của con người, là lãnh thổ để con
người sinh sống và phát triển nhưng đây cũng là nguồn tài nguyên không thể
tái tạo và có giới hạn về không gian. Đất là tài nguyên vô cùng quan trọng cho
sự phát triển của bất cứ một vùng nào. Đặc biệt, ở các vùng sản xuất nông
nghiệp thì đất không những là công cụ sản xuất mà còn là tư liệu sản xuất.
Do nền địa chất phức tạp và với tính chất đa nham của vùng bao gồm:

Đá granit, điorit, cát kết, phiến thạch sét, phù sa bồi tụ Cùng với tác động
của khí hậu nhiệt đới ẩm nên ở đây có nhiều loại đất. Theo bản đồ đất tỷ lệ
1/50.000 thì ở xã Hương Lộc bao gồm các loại đất sau:
24
Bảng 1: Tổng hợp các loại đất ở xã Hương Lộc
Đơn vị tính: ha
STT
Loại đất Ký hiệu
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
1 Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét Fs 3.718,41 50,05
2 Đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ Fp 87,86 1,32
3 Đất phù sa ngòi suối Py 182,47 2,75
4 Đất phù sa không được bồi Pk 117,21 17,67
5 Đất vàng đỏ phát triển trên đá granit Fa 2.483,89 37,44
6 Đất sông suối, núi đá - 44,16
Tổng 6.633,60 100,00
(Nguồn: Phòng tài nguyên và môi trường năm 2008)
Theo phân tích từng loại đất thể hiện như sau:
• Nhóm đất phù sa (p ):
Được hình thành do sự bồi tụ của các sông với diện tích 299,68 ha, chiếm
20,32% diện tích tự nhiên. Thành phần cơ giới chủ yếu là thịt nhẹ, thịt trung
bình. Mặc dầu chỉ chiếm 20,32% diện tích tự nhiên nhưng được phân bố ở khu
vực bằng phẳng. Đây là loại đất rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp đặc biệt
là các loại cây lương thực, thực phẩm như: lúa, ngô, khoai, bí, mướp đắng…[8].
• Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét (Fs):
Diện tích 3.718,41 ha, chiếm 50,05% diện tích tự nhiên, được phát triển
trên sản phẩm phong hoá của đá macma bazơ và trung bình, đá vôi…Phân bố

ở địa hình tương đối cao đến bằng thoải lượn sóng. Đất có thành phần cơ giới
nặng đến trung bình, hàm lượng dinh dưỡng trung bình thấp, tầng đất trung
bình đến dày, thoát nước tốt. Nhóm đất này thích hợp cho việc trồng cây ăn
quả, nông lâm kết hợp (cao su, hồ tiêu, mía, keo, màu…) [8].
• Ngoài ra các loại đất như: đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp), đất đỏ
vàng phát triển trên đá Granit (Fa), loại đất này thường phân bố ở khu vực sản
xuất nông nghiệp, có tầng dày khá, thoát nước tốt, hàm lượng các chất dinh
dưỡng trong đất từ trung bình đến khá, thích hợp cho việc trồng các loại cây
công nghiệp ngắn và dài ngày [8].
25

×