Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận đường lối:Nguồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc CNHHĐH ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.39 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
______o0o______

TIỂU LUẬN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 4
Lớp tín chỉ: TRI106.6
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thủy

Hà nội – 09/2016


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4
Nhóm trưởng: Dương Thị Thùy Vân
STT
135
101
78
55
77
92
36
103
67
02
17

HỌ TÊN


Dương Thị Thùy Vân
Trần Hồng Sơn
Nguyễn Thị Mơ
Phạm Thị Huyền
Nguyễn Thị Mến
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Nguyễn Minh Hằng
Lê Phương Thảo
Nguyễn Thị Thùy Linh
Phùng Thị Kim Anh
Lê Đức Cường

MÃ SINH VIÊN
1511110914
1511110698
1511110531
1511110376
1511110522
1511110603
1511110251
1511110735
1511110452
1511110060
1518110138


MỤC LỤC


Trong bối cảnh kinh tế quốc tế hiện tại, khi mà Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh

tế thế giới như ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-1995); ASEM (Diễn đàn hợp
tác kinh tế Á-Âu-1996); APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương1998); WTO ( Tổ chức thương mại thế giới – 2006);… Và đặc biệt gần đây nhất là TPP
( Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương – 2015) và AEC (Cộng đồng kinh tế
ASEAN-2015) thì khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phất triển
mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghiệp hiện đại, công nghiệp hóa-hiện đại
hóa (CNH-HĐH) đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát
triển để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Đó cũng là chủ trương của
Đảng và nhà nước Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều yếu tố quan trọng như: vốn,
khoa học-công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,… song yếu nhân tố quan trọng và có tính
quyết định nhất vẫn là con người. Nếu so sánh với các nguồn lực khác thì nguồn nhân lực
là yếu tố nội sinh, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Do vậy so với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trong bối cảnh kinh tế hiện tại của nước ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới,
nguồn nhân lực ở một số nước có thể tự do lưu thông vào một số ngành nghề ở Việt Nam
thì việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của đất nước và có
thể cạnh tranh với nhân lực chất lượng cao ở các nước ngoài là nhiệm vụ vô vùng quan
trọng và cấp thiết. Nhận thức rõ được vai trò của nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực chất
lượng cao, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc đã chỉ rõ “ Giáo dục và Đào tạo
là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong nhiều năm tới là phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp – hiện đại hóa đất nước”. Đó là chiến lược đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên để đạt được điều đó, chúng ta cần nghiên cứu
một cách khoa học và chính xác thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay để tìm ra
giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như phất huy cao nhất
được vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình CNH-HĐH. Đó cũng là lý do chúng tôi
chọn đề tài tiểu luận: “ Nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự nghiệp Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam”.



NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, NGUỒN NHÂN
LỰC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1. Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.

Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
a. Khái niệm nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Theo cách hiểu
thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia hay một vùng
lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có khả năng tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Có quan điểm cho rằng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ
chuyên môn mà con người tích lũy được có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Một quan điểm khác lại cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị ở các mức
độ khác nhau sẵn sàng tham gia vào một công việc lao động nào đó, đó là những người
lao động có kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo quan điểm của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế và tiềm năng để phát
triển kinh tế, xã hội trong một cộng đồng.
Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể các yếu tố
thuộc về mặt thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội,… tạo
nên năng lực con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng.
b. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao


Với quan điểm về nguồn nhân lực như vậy nên đã có nhiều cách hiểu khác nhau về
nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo cách hiểu mang tính chất định tính thì nguồn nhân
lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những
yêu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc,
có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng đồng cũng như của


toàn xã hội. Nếu tiếp cận theo cách hiểu mang tính chất định lượng thì nguồn nhân lực
chất lượng cao được hiểu theo các cách khác nhau.
Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua đào tạo, có
bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trên thực tế, khái niệm “lao động qua đào
tạo” rất phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức và phương pháp đào tạo khác nhau, từ
học nghề ngắn hạn đến cao đẳng, đại học đều có thể được xem là “lao động qua đào tạo”.
Như vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lượng cao là lao động qua đào tạo sẽ dẫn đến một
sự phân hóa lớn về trình độ của nguồn nhân lực này.
Hai là, một cách hiểu theo định lượng hẹp hơn là coi nguồn nhân lực chất lượng cao
là nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và
hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các
trường đại học, cao đẳng… Thực tế, có một cách hiểu hẹp hơn nữa là chỉ xem những
người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ mới là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Có thể thấy, về mặt khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao chưa có sự thống
nhất. Cả hai cách hiểu mang tính định tính và định lượng đều có những hạn chế nhất
định. Cách hiểu về mặt định tính sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thống kê nguồn nhân lực
chất lượng cao. Cách hiểu về mặt định lượng sẽ không tính đến những nghệ nhân, những
người có khả năng đặc biệt làm được những công việc mà ít người làm được nhưng lại
không qua trường lớp đào tạo nào. Mặt khác, không phải bất kỳ người lao động nào đã
qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu của các công việc tương ứng với trình
độ đào tạo nhưng vẫn được xem là nhân lực có chất lượng cao.
Vì vậy, theo chúng tôi nên hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của
nguồn nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những người có trình

độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững của
cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung. Với cách hiểu như vậy, có thể đưa ra 6 tiêu
chí để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao đó là:
Thứ nhất, khả năng thích ứng nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ
khoa học công nghệ mới, với năng lực chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao.
Thứ hai, có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có năng lực kiềm chế bản thân.
Thứ ba, có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua tinh thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm,
tinh thần dân chủ, hợp tác và ý thức về tập thể, vì cộng đồng cao.


Thứ tư, có kỹ năng làm việc nhóm, khả năng thay đổi, thích ứng nhanh, hội nhập
cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc.
Thứ năm, có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có
năng lực cạnh tranh, có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội…
1.2. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số nước trên thế
giới và bài học rút ra cho Việt Nam
Trong xã hội hiện đại, nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát
triển của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào, bởi phải có những người đủ khả năng, trình độ mới
khai thác tốt các nguồn lực khác. Do đó, các quốc gia đều tập trung vào việc đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực để tăng khả năng cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển bền vững của
đất nước. Bí mật về sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Mỹ, Nhật Bản, các nước phương
Tây trong những năm giữa thế kỷ XX, hiện tượng những “con hổ”, “con rồng” ở khu vực
Đông Á phần lớn đều nhờ vào nguồn lực có chất lượng. Và quá trình phất triển nguồn
nhân lực ở những nước này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý gia đáng để cho Việt
Nam ta noi theo.
 Kinh nghiệm đào tạo ở một số quốc gia trên thế giới

Thứ nhất, kinh nghiệm của Mỹ
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là quốc gia có nền khoa học – công

nghệ tiên tiến nhất. Năm 2012, dân số của Mỹ là 314,07 triệu người. Chỉ số phát triển con
người (HDI) năm 2011 là 0,910; GDP năm 2011 là 15.094 tỷ USD; GDP bình quân đầu
người năm 2011 là 48.386 USD. Để có kết quả như trên, Mỹ đã trải qua hơn 200 năm
phát triển với triết lý thực dụng và phương châm “nguồn nhân lực là trung tâm của mọi
phát triển”. Mỹ đã đưa ra chiến lược xây dựng nguồn nhân lực với hai hướng chủ lực: tập
trung cho đầu tư giáo dục – đào tạo và thu hút nhân tài.
Về phát triển giáo dục – đào tạo: Mỹ được xem là quốc gia không thành công trong
giáo dục phổ thông nhưng lại là một điển hình cần được nhân rộng trong giáo dục đại
học. Hệ thống giáo dục đại học của Mỹ được xây dựng với hai đặc trưng cơ bản là tính
đại chúng và tính khai phóng. Với hơn 324 triệu dân nhưng Mỹ có tới hơn 4.200 trường
đại học. Theo kết quả đánh giá và xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới thì Mỹ
có tới 88/200 trường đại học hàng đầu thế giới, chiếm 44%. Mỹ phát triển rộng rãi hệ
thống đại học cộng đồng (nơi đào tạo đại trà, giải quyết số lượng), tỷ lệ là 1/30. Tức là cứ
có một trường đại học nghiên cứu thì có 30 trường đại học cộng đồng. Mức học phí cũng
khác nhau phù hợp với mọi đối tượng, học phí trường đại học cộng đồng rẻ hơn nhiều so
với đại học nghiên cứu. Với hệ thống giáo dục đại học đa dạng (trường công lập, trường


tư thục, trường cộng đồng …), nước Mỹ đã đào tạo được một nguồn nhân lực chất lượng
cao đồi dào, chiếm tới 40% tổng số lực lượng lao động quốc gia.
Về thu hút nhân tài: Chính phủ Mỹ không chỉ chú ý đến việc đào tạo mà còn chú
trọng việc thu hút và sử dụng nhân lực, đặc biệt là người tài từ các quốc gia khác. Những
nhân tài kiệt xuất của nước Đức, những nhà khoa học lỗi lạc của Nga và châu Âu, những
chuyên gia tầm cỡ quốc tế của Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia đang phát triển
khác đã “hội tụ” về Mỹ. Hiện nay toàn cầu có 1,5 triệu lưu học sinh và học giả đang học
tập hoặc làm công tác nghiên cứu ở nước ngoài, trong đó có 500.000 người tập trung ở
Mỹ. Con số này làm cho Mỹ trở thành quốc gia của người nhập cư. Trong quá trình thu
hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nước Mỹ đặc biệt chú trọng thu hút đội ngũ các nhà
khoa học sáng chế và đội ngũ chuyên gia trong các ngành công nghệ cao, tạo điều kiện
tốt về lương, chỗ ở, điều kiện đi lại…để các chuyên gia làm việc và cống hiến.

Như vậy, nhờ có chiến lược và chính sách đúng qua hơn 200 năm phát triển, nền
giáo dục Mỹ đã phát triển mạnh và là một trong những nền giáo dục tốt nhất thế giới.
Nền giáo dục này đã tạo ra một lớp công dân có trình độ học vấn cao, tay nghề vững và
kỹ năng giỏi, góp phần đưa đất nước lên vị trí siêu cường về kinh tế và khoa học – công
nghệ.
Thứ hai, kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật là nền kinh tế đứng thứ ba thế giới, diện tích 378 ngàn km2 , dân số 127,8
triệu người (2011), chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2011 là 0,901, GDP bình quân
đầu người năm 2011 là 34.739 USD. Nhật là một trong những nước có sự thành công
trong phát triển kinh tế với tốc độ nhanh dựa trên nguồn nhân lực kỹ thuật được đào tạo
tốt, có đủ khả năng, trình độ tiếp thu, lĩnh hội kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhập khẩu. Có
thể nói, Nhật là nước đầu tiên ở châu Á đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực. Xuất phát
từ việc Nhật nghèo về tài nguyên thiên nhiên, lại luôn gặp thiên tai, phần lớn nguyên
nhiên vật liệu lại nhập khẩu, nền kinh tế Nhật lại bị phá hủy trong Chiến tranh thế thới
thứ hai. Sau đại chiến thế giới thứ hai, Chính phủ Nhật ưu tiên tuyển chọn, đào tạo những
người tài giỏi thích hợp cho công cuộc hiện đại hóa đất nước. Nhật đã có nhiều chính
sách đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhằm xóa khoảng cách về khoa học –
công nghệ giữa Nhật và các nước tiên tiến khác. Chính phủ Nhật đã triển khai thực hiện
triết lý phát triển: con người Nhật cộng với khoa học kỹ thuật phương Tây.
Để đảm bảo nguồn nhân lực thường xuyên cho phát triển kinh tế - xã hội, Chính
phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành hệ thống giáo dục – đào
tạo nghề trong các công ty, doanh nghiệp. Cùng với việc tăng cường giáo dục – đào tạo


(nhất là đào tạo nghề), Chính phủ có chính sách ưu đãi đối với lực lượng lao động có tay
nghề cao, chuyên môn giỏi, đồng thời khích lệ hoạt động sáng tạo của người lao động
luôn thích ứng với mọi điều kiện. Về sử dụng và quản lý nguồn nhân lực, Nhật thực hiện
chế độ lên lương và tăng thưởng theo thâm niên.
Như vậy, phương thức đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực của Nhật là nhằm phát
huy cao độ tính chủ động sáng tạo của người lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho người

lao động có khả năng thích ứng nhanh với điều kiện làm việc luôn thay đổi và nhạy bén
trong việc làm chủ công nghệ và các hình thức lao động mới.
Thứ ba, kinh nghiệm của Singapore
Từ khi tách khỏi Malaysia năm 1965, Singapore đã thực hiện thành công nhiều giai
đoạn phát triển kinh tế khác nhau, bao gồm giai đoạn công nghiệp hóa (1960 – 1970),
giai đoạn tái cấu trúc nền kinh tế (1970 – 1980), và giai đoạn phát triển công nghệ cao để
xây dựng nền kinh tế tri thức (từ 1990 đến nay). Singapore là quốc gia có diện tích nhỏ,
dân số không đông (5,1 triệu người năm 2010), tài nguyên thiên nhiên ít, nông nghiệp
chiếm tỷ trọng 0%, GDP bình quân đầu người năm 2011 là 59.711 USD. Để đạt được
mục tiêu trên là kết quả của rất nhiều nỗ lực của Chính phủ Singapore. Một trong những
chính sách được đánh giá cao nhất của Chính phủ Singapore là chiến lược phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để mở rộng và phát triển khoa
học và công nghệ cho nền kinh tế, từ đó đưa nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao.
Giáo dục – đào tạo, vốn được đặc biệt coi trọng ở Singapore, lại tiếp tục được nhận
thức như là chìa khóa để củng cố nhân lực, phát triển đất nước. Các nhà lãnh đạo
Singapore quan niệm rằng: thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua về
phát triển kinh tế. Vì vậy, chính phủ Singapore đã thực hiện những bước đi trọng tâm
trong giáo dục để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính phủ Singapore đã
dành một khoản đầu tư rất lớn để phát triển giáo dục. Từ mức đầu tư khoảng 3% GDP
những năm 1990 đã tăng dần lên 3,6%, 4% và dự kiến tăng lên tới 5% trong những thập
niên đầu thế kỷ XXI. Mức chi cho giáo dục tài khóa 2007 – 2008 là 6,796 tỷ đô la
Singapore (SGD), 2008 – 2009 là 8,22 tỷ SGD và 2009 – 2010 là 8,7 tỷ SGD. Để phát
triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát triển kinh tế, Singapore đã xây dựng một hệ
thống trường cao đẳng nghề, trường đại học quy mô lớn và khuyến khích các công ty
tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Ngoài việc đầu tư mạnh cho giáo dục – đào tạo, Singapore còn được đánh giá là
một trong những quốc gia có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt
là nguồn nhân lực tài năng bài bản nhất thế giới. Quốc gia này coi việc thu hút nhân tài là



chiến lược ưu tiên hàng đầu. Chính phủ Singapore đã xây dựng chính sách sử dụng người
nhập cư hay còn gọi là chính sách tuyển mộ nhân tài nước ngoài như đòn bẩy về nhân
khẩu để bù vào sự thiếu hụt lực lượng lao động người bản địa. Nguồn nhân lực có kinh
nghiệm và chất lượng tốt ở nước ngoài được tuyển dụng một cách tích cực và có hệ thống
bổ sung cho những khu vực còn hạn chế của nguồn nhân lực trong nước. Những người
này được trợ giúp để cư trú tại Singapore. Chính phủ Singapore miễn xét thị thực cho du
học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa phải, môi
trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng.
Như vậy, là một quốc gia đi lên từ điểm xuất phát thấp và đạt được nhiều thành tựu
ấn tượng mà cả thế giới phải thừa nhận. Có thể nói Singapore đã biến việc trọng dụng
nhân tài trở thành một thương hiệu quốc gia, từ đó, tạo lực kéo người đến và giữ người ở
lại phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của
Singapore được coi là hình mẫu cho các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.
2. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
2.1. Tính tất yếu và mục đích của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
a. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
 Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có
nền kinh tế lạc hậu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan niệm
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá

trình phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải
thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng nghành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải
qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ


công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu
có thể và mang tính quyết định.
 Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương
ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của
lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là sự biến
đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật; tính chất và
trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật
chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản
xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ
nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa
tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và
cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy
luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có công
nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là
những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các nước này phải thực hiện quy
luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, tiếp
thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất,


hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ
không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mỗi bước tiến
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
b. Mục đích của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mục tiêu cơ bản là cải biến nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với mọi
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng - an ninh vững chắc, dân giau, nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội X xác định mục tiêu cụ thể hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sơm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa hiện
đại.
2.2. Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Nguồn lao động luôn luôn là yếu tố quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế. Nguồn
lực quý báu, quan trọng nhất, quyết định sự phát triển và phồn thịnh của các quốc gia,
cộng đồng trên thế giới không còn là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà là “nguồn
nhân lực” với phẩm chất, tầm nhìn, kiến thức, kỹ năng cao. Các nghiên cứu về phát triển
nguồn nhân lực trong những thập niên gần đây chủ yếu tập trung vào nguồn nhân lực, tức
chủ yếu tập trung vào vốn nhân lực (được hiểu là lực lượng lao động có kỹ năng). Đặc
biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) được xem là nguồn lực chính, nhân tố
quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế -xã hội và quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Truyền thống Việt Nam cũng đã xác
định “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Trong xu thế phát triển nền kinh tế thị trường,
toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là NNLCLC ngày
càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (1)
Áp dụng công nghệ mới, (2) Phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (3) Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là


những con người, đặc biệt là NNLCLC - tức là những con người được đầu tư phát triển,
có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn
vốn - vốn con người, vốn nhân lực” (the human capital). Giữa nguồn lực con người
(NLCN), vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, KHCN…có mối quan hệ
nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi
phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám
có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp
lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy
được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người
với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản
xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Lực lượng nhà khoa học và quản lý trình độ cao là nguồn tài nguyên

nhân lực chủ chốt cho phát triển kinh tế tri thức .Chiến lược CNH, HĐH đất nước ta cần
dựa vào sự dẫn dắt, thực hiện của các nhà khoa học và quản lý trình độ cao. Trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những
quốc gia có NNLCLC, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, môi trường chính trị - xã
hội ổn định.
Là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nên
phát triển nguồn nhân lực được xem là một yếu tố có tính chiến lược then chốt nhất cho
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và CNH, HĐH ở nước ta nói riêng. Quá trình CNH,
HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp là do quy định của nhiều
yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tùy thuộc vào năng lực của con người, vào chất
lượng của NLCN. Phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong
hệ thống phát triển các nguồn lực và đầu tư, chăm lo cho con người là đầu tư có tính
chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững, bảo đảm sự phồn vinh,
thịnh vượng của mọi quốc gia và là chìa khóa của sự phát triển bền vững.

II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1. Chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: Dù ở
thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò quyết


định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội VII, khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm
công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế

với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội”(1).
Tại Đại hội VIII, vấn đề phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao càng được Đảng ta chú trọng, coi đây là động lực chính tạo nên lực lượng sản
xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới
ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn phát triển đất nước bền vững
không thể không chăm lo phát triển con người. Đảng ta xác định: con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có
hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp CNH,
HĐH. Đại hội VIII nêu rõ: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH”(2).
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước, Trung ương Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết về các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ
đến năm 2000 khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững”(3). Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng
những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Nghị
quyết xác định: phát triển nguồn nhân lực phải là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then
chốt, là quốc sách hàng đầu; phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh... Chú trọng
phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái
độ… Những quan điểm, chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính
sách, chương trình, dự án nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.


Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn

nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH”, đồng thời
khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng
nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”(4).
Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo, chấn hưng giáo dục để phát triển nguồn nhân lực cao có chất lượng cao(5)… với
các giải pháp cụ thể: quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực cao trong mối
quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua
phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
Đại hội XI (2011) của Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó
khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao”(6). Đại hội xác định: “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”(7). Để thực hiện chiến lược này, Đảng ta đưa ra
nhiều giải pháp: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”(8); “xây dựng và thực hiện chiến
lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”(9). Đảng ta nêu rõ 4
định hướng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập: gắn phát triển
nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; gắn việc phát triển
nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có
hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng sử dụng đội
ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; có chiến lược phát triển con người trên cơ sở một hệ
thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề này sẽ tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực,
cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập. Trong đó, một trong vấn đề mấu chốt được
Đảng nêu ra là: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và

tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài”(10). Nghị quyết khẳng định: Việt
Nam chỉ có thể đi tắt đón đầu sự phát triển trên thế giới trong thời kỳ hội nhập bằng cách
đầu tư vào yếu tố con người.
Mặc dù đã được đặc biệt quan tâm và đạt nhiều thành tựu to lớn nhưng trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cao đặt ra cấp thiết.


Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thấp
hơn so với nhiều nước, đặc biệt là thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật
bậc cao. Chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm (xếp thứ 11/12 nước
châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia
là 5,59; Thái Lan là 4,94... Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối.
Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỷ trọng thấp, trong
khi đó các ngành khoa học xã hội như: luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại chiếm tỷ lệ khá cao.
Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu nhân lực.
Như vậy, việc nâng cao trình độ nguồn nhân lực – chất lượng cao là một yêu cầu
cấp thiết trong xây dựng và phát triển đất nước. Chúng ta cần nhanh chóng đầu tư phát
triển nguồn nhân lực, tiến tới “nền kinh tế tri thức”; cập nhật, trọng dụng và phát huy tài
năng, giá trị của nguồn nhân lực cấp cao để theo kịp tốc độ chung toàn cầu.
Thời kỳ hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm với những yêu cầu ngày càng cao
đối với người lao động, nhất là: kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, ngoại ngữ, tin học và
tác phong công nghiệp… Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực cao nước ta còn nhiều hạn
chế, chưa được trang bị tốt về chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng mềm và trình độ
ngoại ngữ nên không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng.
Bên cạnh đó, thị trường lao động còn có sự chênh lệch giữa cung - cầu, giữa nhu
cầu của nhà tuyển dụng với người lao động, giữa những kiến thức được đào tạo trong nhà
trường với thực tiễn cuộc sống… Công tác dự báo và thông tin thị trường lao động còn
nhiều hạn chế…
Để có thể phát huy được thế mạnh về nguồn nhân lực và tận dụng được thời kỳ
“dân số vàng” trong quá trình hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao

của Việt Nam cần phải được trang bị, rèn luyện chuyên môn nghề nghiệp, nâng cao năng
lực tư duy khoa học, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, áp dụng công nghệ mới
không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp…
2. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
2.1. Thực trạng tình hình nhân lực hiện nay ở Việt Nam
Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng
lại rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học;
1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và
công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong số đó 49% giảng viên đại học có
trình độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp;
11.200 giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số 9.000 tiến sĩ


được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm công tác chuyên
môn. Theo kết quả điều tra gần đây, hiện tại ở nước ta 63% số sinh viên tốt nghiệp đại
học chưa có việc làm, nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm việc phải mất
từ 1 đến 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm thì về cơ bản
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc... Rõ ràng là chất lượng nguồn nhân lực của
nước ta chưa cao, có sự mâu thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực chất lượng
cao.
2.2. Thành tựu đạt được
Việt Nam được coi là quốc gia có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với gần 90 triệu
dân, là nước đông dân thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 13 trên thế giới. Việt Nam
đang trong thời kỳ “dân số vàng” khi có 66%-67% dân số trong độ tuổi lao động
(khoảng 60 triệu người. Đồng thời, nguồn nhân lực của Việt Nam rất cần cù, thông minh
và có khả năng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học - công nghệ mới, hiện đại…
Lực lượng lao động Việt Nam hiện nay được các chuyên gia quốc tế và khu vực
đánh giá là rất năng động, học hỏi nhanh, có khả năng bắt kịp trình độ thế giới ở một số
lĩnh vực nghề nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi và cũng là ưu điểm mà đội ngũ nhân lực
Việt Nam thời kỳ mới sẽ tiếp tục duy trì và phát huy để đáp ứng yêu cầu phát triển của

đất nước.
Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 của Chính phủ đã thực
hiện được gần bốn năm, với mục tiêu bình quân mỗi năm đào tạo hơn một triệu lao động
nông thôn, giải quyết cơ bản nhiều vấn đề trong phát triển kinh tế - xã hội ở các địa
phương đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tính riêng trong năm 2013, cả
nước đào tạo nghề cho hơn 1,7 triệu lao động. Tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo có
nơi đạt tới hơn 90%. Cùng với đó, từ các chính sách vĩ mô như xây dựng nông nghiệp,
nông thôn gắn liền với việc làm, thu nhập và đời sống của người nông dân, đã tạo hiệu
quả thiết thực khi lực lượng lao động nông thôn yên tâm với nghề nghiệp, với nguồn thu
nhập đủ bảo đảm cuộc sống.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu
thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt
nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705
người.
Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao. Theo
báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra


trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó
thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị
là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động
đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm
việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm
2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là
68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu
hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn
thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y

tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về
số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc
tế.
2.3. Hạn chế trong đào tạo
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền,
địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội,
gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu
cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên
môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành
và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ
sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là
công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm
việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao
động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn
hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.


Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác,
đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các
nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Một cách nhìn khác:
Những hạn chế có thể nhìn nhận ở ba góc độ: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quốc gia và đặt trên vai các
trường đại học. Trong những năm qua, hệ thống giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo trình
độ cao được phát triển và mở rộng, nhưng chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế và yếu

kém. Nguyên nhân là do thiếu đội ngũ giảng viên trình độ cao; nội dung chương trình đào
tạo chưa thường xuyên cập nhật đáp ứng sự thay đổi của khoa học - công nghệ; quản lý
kinh tế trong môi trường quốc tế hóa; cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm thực hành,
phòng thí nghiệm, thư viện, giáo trình nghèo nàn. Phương pháp giảng dạy và học tập lạc
hậu, cũng như ý chí và quyết tâm vươn lên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của
một bộ phận không nhỏ lớp trẻ hiện nay còn hạn chế.
Công tác quản lý nhà nước, nhất là quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển
nguồn nhân lực của các ngành vẫn còn yếu kém, khá manh mún và thiếu đồng bộ. Công
tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội cũng rất hạn
chế, cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch lâu dài. Các
cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung, cầu lao động, nên việc xây dựng ngành nghề,
chỉ tiêu và trình độ đào tạo hằng năm không sát thực tiễn.
Việc sử dụng lao động vẫn còn bất hợp lý. Chế độ đãi ngộ “người tài” cũng chưa
phù hợp và chưa tương xứng; tình trạng thu nhập cào bằng đang là rào cản lớn cho sức
sáng tạo của nhân lực chất lượng cao. Các chế độ đãi ngộ nhân tài phần nhiều vẫn Những
yêu cầu đặt ra về phát triển nguồn nhân lực trước yêu cầu CNH-HĐH( đặc biệt là nhân
lực CLC).
3. Những vấn đề đặt ra về phát triển nguồn nhân lực trước yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những
yêu cầu:
Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều


rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng dụng khoa học
và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh
hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và

của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực;…
Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000 người; hàng năm
trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động)(*), một mặt, tạo cơ
hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết
việc làm và đào tạo nghề nghiệp.
Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về
số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những ngành, nghề mới,

Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn
giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh,
quốc phòng để phát triển đất nước.
Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu:
Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình vận
hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh
hưởng ngày càng lớn.
Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do tác động
và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề ra các giải pháp gia tăng cơ
hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công nghệ, tương quan
sức mạnh kinh tế giữa các khu vực.
Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở
nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế
của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế giải
quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực.


III.

GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN VÀ KHAI THÁC HIỆU QUẢ NGUỒN

NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1. Phướng hướng phát tiển và khai thác
1.1. Phương hướng phát triển
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội 5 năm 2016-2020 đã xác định: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải
pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát
triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật
và trách nhiệm công dân. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Quán triệt sâu sắc quan điểm trên của Đảng, theo tôi cần phải sử dụng một hệ thống
giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung vào những vấn đề cơ bản sau :
Thứ nhất, thực hiện mô hình giáo dục đại học đại chúng để gia tăng nguồn nhân lực
chất lượng cao. Để gia tăng nhanh chóng số lượng nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phải thực hiện mô hình giáo dục đại học cho số đông.
Trong mô hình này có sự kết hợp giữa đào tạo chuyên sâu mang tính nghiên cứu với đào
tạo đại trà mang tính cộng đồng. Mô hình giáo dục này được thực hiện thông qua việc
thành lập mới các trường đại học trong nước và quốc tế, đẩy mạnh việc liên kết đào tạo
giữa các trường đại học trong nước và các trường nước ngoài, đặc biệt là với các nước có
nền giáo dục tiên tiến. Có quy định pháp lý rõ ràng về hệ thống đại học công và đại học
tư, trong đó quan niệm rõ ràng về đại học tư vị lợi và đại học tư vô vị lợi.
Thứ hai, Nhà nước cần chú trọng đầu tư để phát triển giáo dục đại học quốc gia,
phải thực sự coi giáo dục đại học là quốc sách hàng đầu. Việc đầu tư lớn phải kết hợp với
việc quản lý hiệu quả nguồn đầu tư, tránh thất thoát, lãng phí. Trong quá trình đầu tư,
không nên dàn trải, cào bằng. Cần đầu tư có trọng điểm để có những đại học thực sự trở
thành những đại học tiêu biểu. Tận dụng và phát huy khả năng tài chính của các cá nhân,
tổ chức nhằm đầu tư cho nền giáo dục quốc gia. Xây dựng đội ngũ giảng viên đại học có

đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Đội ngũ giảng viên đại học cần được đào tạo
trong nước, gửi đi đào tạo ở nước có nền giáo dục tiên tiến. Ngoài việc đào tạo, cần thu
hút những giáo sư, những chuyên gia, những nhà hoạt động thực tiễn tài năng là Việt kiều
hoặc người ngoại quốc tham gia vào đội ngũ cán bộ giảng dạy bậc đại học ở VN.


Thứ ba, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thị trường lao
động theo ngành nghề. Trong thực tế phát triển đất nước hiện nay, đào tạo nguồn nhân
lực cần phải đi theo nhu cầu thực tế của xã hội. Các trường đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp tập trung đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên
tiến như báo cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra. Nhân lực được đào tạo có chất lượng, cơ
cấu hợp lý là nhân tố quan trọng để thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế có tỉ trọng
nông nghiệp khá cao như nước ta sang nền kinh tế có tỉ trọng đóng góp chủ yếu từ công
nghiệp và dịch vụ. Chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần gắn bó chặt
chẽ với các chương trình phát triển khoa học – công nghệ mũi nhọn nhằm khắc phục sự bất
hợp lý về cơ cấu đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, sự mất cân đối nghiêm
trọng trong phân phối cán bộ giữa khu vực sản xuất vật chất và phi vật chất, giữa thành thị
và nông thôn, giữa khu vực quốc doanh và khu vực tư nhân.
Thứ tư, quan tâm tạo điều kiện tốt cho nguồn nhân lực trẻ tài năng. Thế hệ trẻ là
tương lai của mỗi quốc gia. Vì vậy, quốc gia nào biết quan tâm, tạo điều kiện để lực
lượng nhân lực trẻ phát huy tối đa khả năng thì họ sẽ góp phần to lớn vào quá trình phát
triển vững vàng của quốc gia trong tương lai. Lao động chất lượng cao phải được trả giá
cao, tương xứng để thúc đẩy khả năng sáng tạo của họ. Cần áp dụng thước đo của thị
trường để trả công xứng đáng cho những tài năng ở cả khu vực công và khu vực tư. Đặc
biệt, vấn đề thu nhập trong khu vực công cần được điều chỉnh một cách mềm dẻo, linh
hoạt để thích ứng với những biến động của thị trường lao động. Chỉ có như thế mới giữ
được những người tài năng làm việc lâu dài trong khu vực công.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo nghề cho người lao động, hoàn thiện hệ
thống đào tạo từ bậc phổ thông, đào tạo nghề, đào tạo đại học. Xây dựng chương trình
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông và bắt buộc thực hiện ở các trường; hoàn thiện hệ

thống giáo trình ở các trường đào tạo theo hướng các trường tự xây dựng giáo trình và
phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia theo quy định; chương trình đào tạo nghề cần tăng
cường giờ thực hành nhiều hơn nữa. Thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho
người lao động để đáp ứng nhu cầu của công việc. Xây dựng mối quan hệ giữa trường
đào tạo và doanh nghiệp, thông qua chính sách, cơ chế hoạt động và khuyến khích các
doanh nghiệp gắn với các trường đào tạo và ngược lại các trường đào tạo gắn với doanh
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động một cách có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
của lao động của doanh nghiệp.
Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đây là bài học
kinh nghiệm sâu sắc của nhiều nước, mà thành công nhất là Nhật, Singapore, Trung
Quốc… VN có hệ giá trị văn hóa truyền thống hàng ngàn năm, trong đó nổi bật là “chủ


nghĩa yêu nước VN”. Những giá trị này cần được kế thừa và phát huy trong điều kiện hội
nhập quốc tế. Đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của nền văn minh nhân
loại. Phát triển nguồn nhân lực phải gắn liền với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy không có một nước công nghiệp hóa nào
đạt đến thành công mà không chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dù hướng nội hay hướng ngoại, các quốc gia đều nhận
thức rõ việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo là yếu tố
quyết định, tạo nên công bằng xã hội, tăng thu nhập và tạo khả năng tăng trưởng, phát
triển kinh tế bền vững.
2. Giải pháp phát triển và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao
2.1. Giải pháp về phương diện thể lực
CNH - HĐH gắn liền với việc áp dụng phổ biến các phương pháp sản xuất công
nghiệp, các thiết bị và công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi sức khỏe và thể lực cường tráng
của người lao động trên các khía cạnh: sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình
sản xuất liên tục, kéo dài. Vì vậy, cần có các giải pháp để tăng cường thể lực người lao

động, đáp ứng những yêu cầu tổ chức lao động khoa học và cường độ làm việc của xã hội
công ngiệp như:
Nâng cao số lượng và chất lượng bữa ăn của cư dân ( đặc biệt là nguồn nhân lực trẻ)
bằng việc tạo ra nhiều việc làm để tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động.
Cần có chế độ tiền lương hợp lý phù hợp với công sức người lao động.
Phát triển mạnh mẽ dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân tạo điều kiện để
mọi người dân đều được khám chữa bệnh đầy đủ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở
mọi vùng miền, địa phương.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe dinh dưỡng cho cộng
đồng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Cần trau dồi thêm kiến thức đối với phụ nữ
mang thai và cho con bú, nhằm đề phòng các bệnh còi xương, suy dinh dưỡng…
Phát triển các hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ cộng đồng.
Ban hành các chính sách triệt để bài trừ tệ nạn xã hội và phòng ngừa dịch bệnh.
Cải thiện môi trường sống: các dự án đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội phải tuân
thủ luật bảo vệ môi trường; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm trọng cần
mạnh dạn đóng cửa hoặc phải thay đổi quy trình công nghệ.


2.2. Giải pháp liên quan đến giáo dục
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thì giáo dục- đào tạo là nhân tố quan
trọng nhất. Giáo dục là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần để con người được giao
lưu, được khẳng định, được thăng tiến. Giáo dục còn là nhân tố cơ bản để hình thành,
phát triển ở mỗi con người nhân cách, sức lao động, tạo ra cho con người phát triển hài
hoà cả thể lực - trí lực - tâm lực. Sự phát triển mạnh mẽ giáo dục tạo ra một đời sống xã
hội dân chủ, đó là môi trường để mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người, và là nhân tố
tạo ra vốn con người.
Kinh nghiệm một số nước tiến hành CNH, HĐH đi trước chúng ta cho thấy sự
thành công của họ một phần lớn là họ chú trọng vào giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục
- đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhật Bản đã đưa ra ba nguyên tắc để phát triển
kinh tế - xã hội, đó là: lấy con người làm trung tâm; lấy phát triển nguồn lực là biện pháp

quyết định; và động viên quần chúng tham gia tích cực. Hàn Quốc rất chú ý đến phát
triển giáo dục - đào tạo, coi trọng người thầy, hàng năm Hàn Quốc dành một số lượng
ngân sách rất lớn để đầu tư cho giáo dục - đào tạo, cho phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Sở dĩ, Hàn Quốc có được một nền kinh tế - xã hội phát triển như ngày nay một
phần lớn là nhờ biết chú ý đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao. Xingapo là một nước có diện tích nhỏ, tài nguyên ít nhưng nhờ có chính sách phát
triển giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nên đã đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội, biến Xingapo thành nước công nghiêp - dịch vụ phát triển.
Mỹ luôn coi trọng phát triển nền giáo dục - đào tạo quốc gia, hệ thống giáo dục của
những nước này thường xuyên đổi mới và hoàn chỉnh nhằm khai thác tiềm năng của con
người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Quan điểm của Mỹ là hướng vào phát
triển các công nghệ cao, bồi dưỡng nhân tài, thu hút chất xám, coi trọng tầng lớp trí thức,
lấy giáo dục đại học làm phương tiện để chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong phát minh và
làm chủ công nghệ mới; coi đó là chiến lược cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các nước Tây Âu cũng rất coi trọng phát triển nền giáo dục - đào tạo. Họ cho rằng,
đầu tư cho giáo dục - đào tạo là rất có hiệu quả về mặt kinh tế. Các nước này đặc biệt
chú ý đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, họ cho rằng, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao là phải đánh giá một cách đúng đắn vai trò của nguồn nguồn
nhân lực khoa học - công nghệ đối với CNH, HĐH nhờ đó mà họ có chính sách thúc đẩy
phát triển khoa học - công nghệ. Các nước này ưu tiên đầu tư ngân sách để phát triển,
nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, đặc biệt là khoa học - công
nghệ mới vào thực tiễn sản xuất và đời sống.


Từ những kinh nghiệm trong việc giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
của một số nước trên thế giới cho phép chúng ta rút ra bài học quan trọng là: suy cho
cùng tài nguyên sức người vẫn là nhân tố quyết định tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước chứ không phải do tài nguyên vật chất quyết định, và giáo dục - đào tạo là một
trong những yếu tố quan trọng nhất làm tăng nguồn tài nguyên sức người, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.

Do vậy, để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thì Việt Nam cần chú trọng đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quán lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp. Tiến hành đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học,
trong đó, đặc biệt chú ý phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo bậc đại học, phấn đấu đến
năm 2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế
giới theo như quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020
của chính phủ đề ra.
2.3. Giải pháp liên quan đến phân bổ và nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực
Vấn đề cốt lõi có tính cơ bản gốc rễ ở đây là phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch lao
động phù hợp với cơ cấu kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Từ đó chính
sách và giải pháp phân bố hợp lí nguồn nhân lực con người thực chất là các chính sách
tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, theo vùng và
theo thành phần kinh tế...trong đó những vấn đề có tính đột phá, cần tập trung xử lí như
là:
Một là, tăng nhanh khả năng đầu tư, hướng vào các mục tiêu chuyển đổi mạnh cơ
cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn nhất là đầu tư phát triển ngành nghề, công nghiệp
chế biến nông sản, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, hình thành các khu công
nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả như kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã kiểu mới... khuyến khích
các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển kinh tế tại các vùng miền, nông
thôn.
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn, trước hết là hướng dẫn
người dân cách làm ăn, đào tạo ngắn hạn cho thanh niên nông thôn, gắn chặt với khuyến
nông lâm ngư, với chuyển giao công nghệ mới đặc biệt là công nghệ sinh học vào nông
thôn để sản xuất ra hàng hóa có giá trị kinh tế cao và tạo động lực mới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và lao động nông nghiệp nông thôn.



×