Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Luận văn công tác tuyên truyền đối ngoại của đảng trong kháng chiến chống mỹ cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.42 KB, 110 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
--------------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG THẮM

CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội, tháng 5 năm 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
--------------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG THẮM

CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHÙNG THỊ HIỂN




3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là trung thực, minh bạch và chưa được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thắm


4

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô Khoa Lịch sử Đảng, Học
viện Chính trị Khu vực I đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong thời gian
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS
Phùng Thị Hiển, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thắm



5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


7


MỞ ĐẦU
1.

Tình hình cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng, công tác tuyên truyền là

một trong những mặt công tác được Đảng chú trọng hàng đầu. Công tác tuyên
truyền luôn đi trước so với các mặt công tác khác và giữ vai trò quyết định
trong việc điều chỉnh nhận thức, hình thành niềm tin cho các đối tượng trong
xã hội về những vấn đề thuộc về tư tưởng, chính trị.
Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, công tác tuyên truyền của
Đảng đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi chung của cách mạng. Đặc
biệt, trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, công tác tuyên truyền
của Đảng nói chung, công tác tuyên truyền đối ngoại nói riêng đã để lại
những dấu ấn đậm nét trong lịch sử về những thành tích cũng như những bài
học kinh nghiệm trên lĩnh vực này.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta phải trải qua
những thử thách khắc nghiệt nhất. Để vượt qua được, Đảng ta đã xác định
phải kháng chiến lâu dài trên mọi lĩnh vực. Thắng lợi của cuộc chiến tranh
mười nghìn ngày đó không chỉ là thắng lợi trên mặt trận quân sự khi ta và Mỹ
đụng đầu trực tiếp trên chiến trường mà còn là thắng lợi trên nhiều mặt trận
khác như kinh tế, chính trị và đặc biệt là đối ngoại. Tuy nhiên, điều kiện để
cho hoạt động đối ngoại của ta có hiệu quả lúc bấy giờ không hề thuận lợi,
thậm chí vô cùng khó khăn bởi nhiều yếu tố, trong đó khó khăn lớn nhất là sự
bưng bít, phong tỏa thông tin của phía kẻ thù khiến bạn bè và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới không hiểu hết những gì đang diễn ra, những gì là bản
chất đích thực của cuộc chiến tranh ở Việt Nam để rồi họ có sự ủng hộ, giúp
đỡ chí tình cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong
hoàn cảnh đó, công tác tuyên truyền đối ngoại trở thành một trong những yếu



8

tố quan trọng góp phần thúc đẩy các hoạt động đối ngoại của Đảng và ngoại
giao của Nhà nước trở nên có hiệu quả. Thực tế này đã tạo nên một thời kỳ
thành công rực rỡ của công tác tuyên truyền nói chung và công tác tuyên
truyền đối ngoại của Đảng nói riêng, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có
giá trị về công tác tuyên truyền của Đảng.
Hiện nay, tuy không còn có chiến tranh, song những yêu cầu bức thiết
của thời kỳ hội nhập sâu với thế giới đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết nhiều hơn
nữa với thế giới bên ngoài, đồng thời cũng rất cần thế giới bên ngoài hiểu rõ
hơn về một Việt Nam đổi mới và phát triển. Việc tiếp tục các hoạt động tuyên
truyền đối ngoại để đáp ứng những yêu cầu đó vẫn đang là một trong những
chủ trương lớn của Đảng ta hiện nay. Trong vấn đề này, dù điều kiện đã có
nhiều thay đổi so với thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, song những kinh nghiệm
về công tác tuyên truyền đối ngoại của thời kỳ khó khăn đầy cam go thử thách
đó vẫn là những kinh nghiệm có giá trị đối với hiện tại.
Do vậy, việc nghiên cứu công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng
trong thời kỳ công tác này gặp những khó khăn thử thách lớn nhất đồng thời
cũng gặt hái được những thành tựu lớn nhất này, một mặt sẽ góp phần tìm ra
câu trả lời hữu ích cho công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong giai
đoạn hiện nay là một việc làm có ý nghĩa và cần thiết. Mặt khác, dưới góc độ
khoa học, đây là vấn đề cũng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống,
chuyên sâu và toàn diện, do đó việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm sáng rõ
hơn bức tranh toàn cảnh về lịch sử công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng
của Đảng thời kỳ chống Mỹ, bổ sung những dữ liệu lịch sử cho công tác
nghiên cứu về Lịch sử Đảng nói chung và lịch sử công tác tuyên truyền của
Đảng nói riêng.



9

Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác tuyên truyền đối ngoại
của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” làm
luận văn thạc sỹ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu về công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng

trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - một thời kỳ khá dài với
muôn vàn sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và của Đảng, do vậy liên quan
đến đề tài này trước hết là những công trình nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của các tác giả trong và ngoài nước sau đây:
Thứ nhất, nhóm công trình do các tác giả nước ngoài nghiên cứu về
lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ bao gồm một số tác phẩm tiêu
biểu sau: Pierre Assilin: Nền hòa bình mong manh – Washinhton, Hà Nội và
tiến trình của hiệp định Paris (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006);
Gabrien Conoco: Giải phẫu cuộc chiến tranh, tập 1 (NXB Quân đội Nhân
dân, Hà Nội, 1991); Maicơn Maclia: Việt Nam - Cuộc chiến mười nghìn ngày
(NXB Sự thật, Hà Nội, 1990); Pitơ A Piulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ
Rudơven đến Nichson (NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986); G. Herring:
Cuộc chiến dài ngày nhất của nước Mỹ: Hoa Kỳ và Việt Nam 1950 - 1975;
Robert S. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và những bài học về
Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995); Ilya V. Gaiduk: Liên bang
Xô Viết và chiến tranh Việt Nam (NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2004)….
Trong các tác phẩm nêu trên có một điểm chung đó là các tác giả đều là
người nước ngoài, nhìn cuộc chiến tranh Việt Nam và Mỹ dưới góc độ nghiên
cứu cá nhân, góc nhìn và quan điểm cá nhân, có thể là người trực tiếp tham

chiến viết hồi ký, cũng có thể là người nghiên cứu sau khi chiến tranh kết thúc


10

với những tư liệu cá nhân. Trong các tác phẩm này, họ đều không bàn trực
tiếp đến công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, song, ở từng
trang viết, từng cách đánh giá của họ về vấn đề vì sao Việt Nam thắng Mỹ, vì
sao Mỹ thua Việt Nam, v.v. cũng cho chúng ta tìm thấy được phần nào hoạt
động tuyên truyền của Đảng hoặc ít nhất là những đánh giá của họ về hiệu
quả công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng, xem nó như một trong những
nguyên nhân đưa đến kết quả của cuộc kháng chiến.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến cũng
như lịch sử của hoạt động ngoại giao Việt Nam, giai đoạn từ năm 1954 - 1975
của các tác giả trong nước: Nguyễn Văn Huỳnh: Nghệ thuật ngoại giao Việt
Nam với cuộc đàm phán Paris (NXB Chính trị Quốc gia, 2014); Ngoại giao
Việt Nam, góc nhìn và suy ngẫm (NXB Chính trị Quốc gia, 2011); Mai Văn
Bộ: Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật (NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
1985); Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ; Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kỳ
trước Hội nghị Paris (Viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1990); Nguyễn Duy
Trinh: Mặt trận ngoại giao trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1965 -1975
(NXB Sự Thật, Hà Nội, 1996); Nguyễn Thành Lê: Cuộc đàm phán Paris về
Việt Nam 1968 - 1973 (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); Lưu Văn
Lợi: Lịch sử 50 năm ngoại giao Việt Nam (Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội,
1995); Nguyễn Phúc Lâm: Ngoại giao trong cuộc đụng đầu lịch sử (NXB
Công an nhândân, Hà Nội, 2005). Những công trình này đã khái quát và tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ và đặc biệt là những thắng lợi trên mặt trận
ngoại giao của ta. Thông qua đó, công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng
được đề cập đến thông qua việc thểhiện bối cảnh lịch sử, những chủ trương,
đường lối của Đảng trên các mặt trận, đặc biệt là đối ngoại. Bên cạnh đó, một

số công trình của Nhà nước nghiên cứu về quan điểm, đường lối của Đảng
trên lĩnh vực tư tưởng, công tác tư tưởng: Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương:


11

Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng, văn hóa (NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000); 70 năm công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng,
truyền thống vẻ vang, trách nhiệm to lớn (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000)…. Các công trình này đã đề cập sâu hơn đến công tác tuyên truyền,
trong đó có tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong từng thời kỳ. Đây cũng
chính là những nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài.
Thứ ba, nhóm các bài viết đăng trên các báo, tạp chí như: bài của tác
giả Phan Doãn Nam: Ngoại giao Việt Nam 60 năm đấu tranh và trưởng thanh
(Tạp chí nghiên cứu lịch sử, 2005); Vũ Dương Huân: Nghiên cứu lịch sử
ngoại giao Việt Nam và việc rút ra những bài học kinh nghiệm về ngoại giao
(Tạp chí Học tập, 6/1969); Nguyễn Khắc Huỳnh: Ngoại giao trong đàm phán
ở Paris (Tạp chí Quan hệ Quốc tế, 1/1993); Nguyễn Trọng Phúc: Tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao sau Hiệp định Giơnevơ (Tạp chí nghiên
cứu lý luận, 2/1995); Phùng Thị Hiển: Chuyển hướng tư tưởng của Đảng ở
Miền Bắc những năm 1965 - 1975 (Tạp chí Tuyên giáo, 7/2009); Những
thành công nổi bật của công tác tư tưởng trong kháng chiến chống Mỹ
(Tạpchí Lịch sử Đảng, 8/2004); Trần Minh Trường: Đồng chí Lê Duẩn với
việc lãnh đạo xây dựng đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước (Tạp chí Lịch sử Đảng, 10/2006). Những bài viết trên đã đề cập đến
từng khía cạnh về đối ngoại của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong
đó chứa đựng những nội dung liên quan đến tuyên truyền đối ngoại của Đảng.
Thứ tư, nhóm các công trình luận văn, luận án của các tác giả liên quan
tới đề tài như: Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Văn Bạo: Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến tháng 1/1973 (2007,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); Luận án Tiến sĩ của tác giả Phùng
Thị Hiển: Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ động chính trị ở Miền Bắc


12

(1960 – 1975) (2009, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); Trần Tăng
Khởi: Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường tiến
lên Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (1954 - 1975) (2001, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh); Nguyễn Xuân Tú: Đảng chỉ đạo dành thắng lợi từng
bước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ 1965 - 1975 (2001,
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn)…
Như vậy, đã có không ít các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng thời kỳ chống Mỹ, cứu nước được
công bố. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về công
tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong thời kỳ này. Những công trình khoa
học trên là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị, gợi mở nhiều vấn đề để tác giả
tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” nhằm mục đích làm rõ quá
trình Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền đối ngoại trong những năm chống
Mỹ, cứu nước với những chủ trương, đường lối của Đảng, quá trình chỉ đạo
thực hiện và kết quả thực hiện công tác tuyên truyền đối ngoại; từ đó rút ra
những nhận xét, đánh giá khách quan về thành công, hạn chế, nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm của Đảng trong việc lãnh đạo công tác tuyên truyền đối
ngoại thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng đối với công tác này trong thời hiện tại và bổ sung cứ liệu lịch sử về

công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3.2

. Nhiệm vụ nghiên cứu


13

Để đạt mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ bối cảnh lịch sử và những vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên
truyền đối ngoại của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).
- Hệ thống hóa và phân tích những chủ trương của Đảng về công tác
tuyên truyền đối ngoại trong các giai đoạn 1954 - 1965 và 1965 - 1975.
- Khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả thực hiện công tác
tuyên truyền đối ngoại của Đảng trong 2 giai đoạn nêu trên.
- Rút ra nhận xét về những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo công tác tuyên truyền đối ngoại trong thời
kỳ chống Mỹ, cứu nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với
công tác tuyên truyền đối ngoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu, khảo sát toàn bộ thời gian diễn
ra cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bắt đầu từ sau tháng 7 năm 1954
đến tháng 4 năm 1975.
- Phạm vi về không gian: Do đặc thù của công tác này là nhắm đến các

đối tượng tuyên truyền là người nước ngoài, ra bên ngoài nước nên các hoạt
động tuyên truyền của Đảng cũng được tiếp cận ở cả hai hướng: tuyên truyền
đối ngoại diễn ra ngay trên địa bàn trong nước và tuyên truyền đối ngoại diễn
ra bên ngoài nước.


14

- Tuyên truyền đối ngoại ở đây được đặt trong sự đối lập với tuyên
truyền đối nội. Nếu đối nội được hiểu là đối với những người trong cuộc bao
gồm những người trực tiếp trên cả hai phía Việt Nam và Mỹ, thì đối ngoại
được hiểu là những người ngoài cuộc chiến, có thể ở trong hay ở ngoài lãnh
thổ Việt Nam. Theo đó, đề tài này về phạm vi nội dung chỉ nghiên cứu hoạt
động lãnh đạo chỉ đạo của Đảng đối với công tác này trên các mặt như nội
dung tuyên truyền, hình thức, phương tiện tuyên truyền, bộ máy tuyên truyền
ra bên ngoài như thế nào…
- Phạm vi không gian nghiên cứu cũng chỉ giới hạn các hoạt động lãnh
đạo chỉ đạo của Đảng đối với công tác này diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên để có căn cứ đánh giá kết quả công tác tuyên truyền đối ngoại, đề
tài cũng nghiên cứu các tài liệu viết về công tác này diễn ra bên ngoài lãnh
thổ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những nguyên lý, học thuyết khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề chiến tranh
cách mạng, tuyên truyền, cổ động cách mạng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử,

phương pháp logic và sự kết hợp của hai phương pháp đó. Bên cạnh đó, luận
văn còn sử dụng một số phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng
hợp….


15

6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác tuyên
truyền đối ngoại trong những năm chống Mỹ, cứu nước.
- Trình bày có hệ thống quá trình chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền
đối ngoại của Đảng trong những năm chống Mỹ, cứu nước.
- Phân tích, đánh giá có cơ sở khoa học về những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân của công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng thời kỳ này.
- Rút ra một số kinh nghiệm lịch sử có giá trị tham khảo.
- Có thể sử dụng Luận văn làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng từ năm 1954 đến
năm 1964
Chương 2: Công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng từ năm 1965 đến
năm 1975
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm


16

CHƯƠNG I: CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1964
Công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng là các hoạt động của Đảng
nhằm truyền bá, phổ biến rộng rãi ra bên ngoài nước Việt Nam những thông
tin có mục đích về tình hình trong nước trên cơ quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng thông qua hoạt động của các cơ quan tuyên truyền
với những nội dung và hình thức đa dạng.
Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử, công tác tuyền truyền đối ngoại
của Đảng lại có những nội dung, hình thức, đối tượng và phương tiện tuyên
truyền khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu của đất nước.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, công tác tuyên truyền đối ngoại của
Đảng trở thành một nhiệm vụ quan trọng, một yêu cầu bức thiết đối với cuộc
kháng chiến. Chính sự bức thiết đó, công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng
thời kỳ này đã được đẩy lên tầm chiến lược, góp phần quan trọng đưa cuộc
kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
1.1.

Hoàn cảnh lịch sử và những vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên

truyền đối ngoại của Đảng trong những năm 1954 - 1964
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1.1. Tình hình thế giới
Sau năm 1954, thế giới có những chuyển biến quan trọng tác động đến
Việt Nam. Trước hết, đó là sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa về kinh tế và quốc phòng. Năm 1955, Liên Xô đã
hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm xây dựng CNXH. Năm 1957, Liên
Xô đã sản xuất được tên lửa vượt đại dương và phóng thành công vệ tinh
nhân tạo đầu tiên của loài người, mở ra thời kỳ mới của công cuộc chinh phục
vũ trụ. Các nước XHCN Đông Âu đã tiến hành công cuộc hợp tác hóa nông



17

nghiệp và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội quy mô lớn. Tháng 5/1955, Tổ
chức hiệp ước Vacsava được thành lập, khẳng định sức mạnh quân sự của các
nước xã hội chủ nghĩa.
Ba dòng tác cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Phong trào giải
phóng dân tộc đang phát triển rộng khắp châu Á, Phi và Mỹ - La tinh, làm sụp
đổ căn bản chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu đẩy chủ nghĩa thực dân mới
vào khủng hoảng. Tháng 4/1945, Hội nghị đoàn kết Á - Phi gồm 29 nước họp
ở Bangdung (Indonexia) ra bản tuyên bố 10 nguyên tắc hòa bình, trung lập là
một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố
nền độc lập của các nước Á – Phi và bảo vệ hòa bình thế giới.
Tháng 5/1955, Liên minh Vasxava giữa các nước XHCN được thành lập.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc, của hệ thống XHCN và sự trưởng
thành của phong trào dân tộc trên thế giới đã tạo nên sức mạnh mới về thế và
lực cho cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ này, phong trào đấu tranh hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới lên mạnh. Thông tin bùng nổ, lương tri loài người thức tỉnh. Các tầng
lớp nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, tôn giáo các nước đều ủng hộ sự
nghiệp chính nghĩa của các dân tộc. Đó là những thuận lợi cho ta trên bình
diện quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời kỳ này phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
giữa các nước xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những bất đồng về quan điểm
chính trị, gây nên sự chia rẽ giữa các lực lượng cách mạng quốc tế. Đặc biệt là
mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa Trung Quốc và Liên Xô. Bên cạnh đó, xu
thế chung của các nước trên thế giới lúc này là giải quyết các vấn đề tranh
chấp bằng thương lượng hòa bình. Tâm lý chung của nhân dân thế giới là sợ
chiến tranh, sợ một cuộc chiến tranh thế giới có thể xảy ra. Tình hình đó là trở



18

ngại lớn cho việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới,
cho việc tập hợp đoàn kết lực lượng cách mạng trong quá trình tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dân kiểu mới hình thành, điển hình là Mỹ.
Mỹ âm mưu xâm chiếm thuộc địa cũ của các nước. Từ năm 1953 đến năm
1960, trải qua các đời tổng thống Mỹ, các chiến lược toàn cầu hòng “đẩy lùi
chủ nghĩa cộng sản”, tập trung đánh phá phong trào giải phóng dân tộc, đồng
thời đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chia rẽ các nước
XHCN. Tất cả thể hiện âm mưu làm bá chủ thế giới của đế quốc sừng sỏ và
nhiều tham vọng này.
Trong bối cảnh đó, Mỹ quyết định mở rộng chiến lược bao vây và ngăn
chặn chủ nghĩa Cộng sản từ Châu Âu sang Châu Á, thực hiện bành trướng thế
lực của Mỹ, chống lại phe XHCN, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào công nhân ở các nước TBCN. Chính sách cơ bản trong chiến lược
toàn cầu phản cách mạng của Mỹ trong giai đoạn này là thực hiện chủ nghĩa
thực dân mới.
Đối với phong trào giải phóng dân tộc, Mỹ đưa ra học thuyết Đô - mi nô, cho rằng thắng lợi của cách mạng Đông Dương sẽ có tác động dây chuyền
đưa đến thắng lợi của cách mạng các nước Đông Nam Á. Vì vậy, sau thất bại
của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương
được ký kết, Ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố: “Điều quan trọng nhất,
không phải là khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ hội tương lai nhằm
ngăn cản không để mất miền Bắc Việt Nam, để cuối cùng dẫn đến chỗ chủ
nghĩa Cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình
Dương” [55,41].


19


1.1.1.2. Tình hình trong nước
Ngày 7/7/1954, đế quốc Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng
kiêm tổng trưởng nội vụ và quốc phòng của chính quyền Bảo Đại ở Miền
Nam. Và ngay sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, Tổng thống Mỹ
Aixenhao tuyên bố: Hoa Kỳ không bị các điều khoản của Giơnevơ ràng buộc.
Ngày 8/9/1954, Mỹ lôi kéo Pháp, Anh, Úc, Niudilân, Philippin, Thái Lan và
Pakixtan lập ra khối Liên minh quân sự Đông Nam Á (SEATO) và ngang
nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Tháng 9/1954,
chính phủ Mỹ quyết định viện trợ trực tiếp cho Ngô Đình Diệm. Ngày
19/12/1954, Pháp ký hiệp ước trao quyền hành chính chính trị cho Ngô Đình
Diệm ở miền Nam Việt Nam.
Thông qua hệ thống cố vấn và viện trợ, Mỹ đã dung dưỡng chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm, ra sức phá hoại thực hiện hiệp định Giơnevơ, đàn áp
khủng bố ác liệt phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân miền Nam.
Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt phong trào yêu nước và cách
mạng của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ làm bàn đạp
tấn công Miền Bắc, lập phòng tuyến ngăn không cho chủ nghĩa Cộng sản tràn
xuống Đông Nam Á, bao vây uy hiếp, đi đến tiêu diệt các nước XHCN.
Để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, thông qua hệ thống cố
vấn và viện trợ, đế quốc Mỹ đã biến ngụy quân và ngụy quyền thành tay sai
đắc lực cho chúng. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1960, ta từ đấu
tranh giữ gìn lực lượng chuyển sang tiến công làm thất bại hình thức thực dân
mới điển hình của đế quốc Mỹ. Thắng lợi của cao trào Đồng Khởi (1960) đã
giáng một đòn nặng nề vào chế độ Mỹ - Diệm, làm phá vỡ từng mảng lớn
chính quyền địch ở nông thôn. Tạo bước đà lớn để ta đánh thắng chiến lược


20


“chiến tranh đặc biệt” đế quốc Mỹ trong những năm từ năm 1961 đến giữa
năm 1965.
Ở miền Bắc, sau khi quân Pháp rút đi, đất nước bị tàn phá nặng nề, nền
kinh tế lạc hậu, chủ yếu sản xuất cá thể nhỏ lẻ. Đời sống nhân dân khổ cực,
nạn đói đe dọa nhiều vùng dân cư… Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã lãnh đạo
hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và tiến hành khôi phục kinh tế. Tính đến tháng 7/1956, cải cách ruộng đất
về cơ bản đã hoàn thành. Mặc dù còn có một số điểm hạn chế nhưng công
cuộc cải cách ruộng đất đã giải phóng năng lực sản xuất trong nông nghiệp,
tạo động lực trực tiếp phát triển sản xuất, góp phần quan trọng vào việc khôi
phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, tiến hành cải tạo XHCN và thực
hiện thành công kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
Dân tộc Việt Nam đứng trước thách thức nghiêm trọng. Cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi nhưng sự nghiệp thống nhất nước nhà còn chưa
thực hiện được. Đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị
khác nhau: Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH nhưng kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đất nước bị chiến tranh tàn phá, đời
sống nhân dân bị thiếu thốn. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ từng thay chân thực
dân Pháp áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Vì vậy
nhân dân Việt Nam vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh
tế, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, vừa phải đẩy mạnh cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, nhằm chống Mỹ xâm lược và tay sai, giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước, tạo điều kiện đưa cả nước
lên CNXH.


21

1.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền đối ngoại từ năm

1954 đến năm 1964
Từ những diễn biến thế giới và trong nước giai đoạn này đã đặt ra nhiều
vấn đề đối với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nói
chung và đối với công tác tuyên truyền đối ngoại của Đảng nói riêng.
Trước hết đó là vấn đề tuyên truyền đối ngoại nhằm lôi kéo thế giới ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta đòi phía chính quyền Sài Gòn thực hiện
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, thống nhất đất nước bằng con đường hiệp
thương tổng tuyển cử.
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào cho thế giới mà trước hết là nhân dân
yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ, là bạn bè năm châu biết đến nhu cầu
chính đáng và cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, biết đến những âm
mưu và hành động nhằm can thiệp nội bộ và từng bước tiến lên làm bá chủ
thế giới, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội của đế quốc Mỹ và các thế lực thân Mỹ.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong công tác tuyên truyền đối ngoại của
Đảng thời kỳ này là phải chỉ rõ được cho thế giới biết đầy đủ và chính xác
những thuận lợi và khó khăn của đất nước ta để các nước bạn bè trên thế giới
ủng hộ và giúp đỡ chúng ta vượt qua khó khăn lúc này.
Công tác tuyên truyền đối ngoại thời kỳ này cần phải vạch rõ âm mưu của
đế quốc Mỹ đối với Việt Nam và thế giới trước bạn bè thế giới. Đồng thời, tố
cáo bộ mặt thật của kẻ xâm lược là đế quốc Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam,
làm cho thế giới thấy hành động xâm lược của Mỹ là hành động phi nghĩa,
cần lên án mạnh mẽ, làm cho làn sóng phản đối chiến tranh do Mỹ gây ra ở
Việt Nam dâng cao ngay cả ở trong lòng nước Mỹ.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền đối ngoại cũng cần phải cho bạn bè
thế giới thấy rằng Việt Nam đứng lên đấu tranh chống Mỹ là hành động chính


22

nghĩa, bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Trong chủ trường tuyên truyền, Đảng

cần phải nói rõ những khó khăn của đất nước khi chống lại một đế quốc sừng
sỏ, lớn mạnh bậc nhất thế giới để nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân yêu
chuộng hòa bình có lòng tin tưởng, ủng hộ và giúp đỡ cả về vật chất và tinh
thần cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
Công tác tuyên truyền đối ngoại thời kỳ này ngoài việc nêu rõ chủ trương
chống Mỹ còn cho nhân dân thế giới thấy được tài năng của Đảng ta khi lãnh
đạo cùng lúc hai nhiệm vụ cách mạng là chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam và
tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Công tác tuyên truyền đối ngoại của thời kỳ này còn thể hiện niền tin của
nhân dân với Đảng, với cách mạng. Mặc dù có nhiều khó khăn, gian khổ
trong một cuộc chiến không cân sức, nhưng nhân dân ta luôn tin tưởng vào
một chiến thắng trước đế quốc Mỹ và hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh.
1.2. Chủ trương của Đảng
Căn cứ vào tình hình trong nước và quốc tế cùng những vấn đề đặt ra cho
công tác tuyên truyền đối ngoại sau năm 1954, Đảng ta cũng đã có những chủ
trương nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ tuyên truyền đối ngoại giai đoạn
này.
Sau năm 1954, chủ trương trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là
triệt để thi hành các điều khoản chính trị và quân sự của Hiệp định Giơnevơ
và thay mặt Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố rõ quan điểm đối ngoại
của ta: “Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mối quan hệ thân
thiện, hợp tác với bất kỳ một nước nào trên nguyên tắc tôn trọng sự hoàn
chỉnh về chủ quyền và toàn vẹn về lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn
nhau, bình đẳng, cùng có lợi và chung sống hòa bình” [54;5].


23

Cuộc đấu tranh để đưa Hiệp định Giơnevơ vào thực tế diễn biến Đông
Dương diễn ra trên hai trận tuyến. Một là trận tuyến đấu tranh chính trị pháp

lý tại chỗ của nhân dân miền Nam nhằm thực hiện đình chiến, củng cố hòa
bình, thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh… duy trì lực lượng cách
mạng ở miền Nam, tạo cơ sở đấu tranh chính trị và bạo lực vũ trang khi cần.
Hai là trận tuyến đối ngoại, vận động quốc tế nhằm giương cao ngọn cờ hòa
bình, độc lập thống nhất để tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế,
tạo sức ép để buộc đối phương phải kiềm chế hành động phá hoại Hiệp định
Giơnevơ và thực thi đầy đủ các điều khoản quân sự, chính trị của Hiệp định.
Như vậy, ngay sau khi Miền Bắc được giải phóng, xây dựng CNXH,
Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm chính trị về
ngoại giao rõ ràng, đó là chúng ta sẵn sàng giao lưu, đặt mối quan hệ thân
thiện với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng về chủ quyền lãnh thổ. Bên cạnh
đó, chúng ta cũng nghiêm chỉnh thi hành các điều ước đã ký kết ở Hội nghị
Giơnevơ.
Từ ngày 15 đến ngày 18/7/1954, tại Việt Bắc, Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã xem xét đánh giá tình hình mới và khẳng định kẻ thù chính và
nguy hiểm nhất của nhân dân ta là đế quốc Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ
thù chính của nhân dân thế giới, nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp
của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta là đều nhằm chống đế
quốc Mỹ. Bất kỳ người nào, nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt trận
thống nhất dù tạm thời với ta” [52;589].
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 vạch rõ phương châm chính sách
ngoại giao, trong đó có tuyên truyền đối ngoại của ta đó là: “Củng cố không
ngừng tình đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ


24

nhân dân, thực hiện việc phối hợp chặt chẽ với các nước anh em trong hoạt
động quốc tế và đấu tranh ngoại giao. Giao hảo với bất cứ nước nào cùng ta

tôn trọng nguyên tắc chung sống hòa bình” [15;304] và “ Xúc tiến công tác
tuyên truyền quốc tế, nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế
giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Làm cho nhân dân ta
nhận rõ lập trường quốc tế của ta là đứng hẳn về phe dân chủ nhân dân và xã
hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo” [15;305].
Tháng 1/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Nhà nước ta ra
tuyên bố bày tỏ quan điểm Việt Nam sẵn sàng đặt quan hệ hữu nghị với Lào,
ủng hộ chính sách hòa bình tập trung của Lào, lên án âm mưu phá hoại hiệp
định Giơnevơ và Hiệp định Viên Chăn về Lào. Đối với Campuchia, Việt Nam
bỏ qua những việc làm sai trái của quân đội và chính phủ Hoàng gia
Campuchia, kiên trì đường lối đối ngoại mềm dẻo, đoàn kết.
Ngày 16/2/1955, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 07 CT/TW về đẩy mạnh đấu
tranh phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư
vào Nam. Trước những diễn biến phức tạp khi kẻ địch hòng lôi kéo đông đảo
giáo dân vào Nam, Trung ương đã quyết định “Đẩy mạnh mọi mặt, phá âm
mưu của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư, chủ động tiến
công địch, tranh thủ cảm tình của quần chúng, tranh thủ dư luận trong nước
và thế giới… Làm cho nhân dân trong nước và nhân dân thế giới thấy rõ là ta
thực hiện đúng tự do tín ngưỡng, luôn luôn nêu cao lá cờ hòa bình, thi hành
nghiêm chỉnh hiệp định đình chiến; kẻ phá hoại hiệp định là đế quốc Mỹ và
tay sai của chúng” [16;66]. Bộ Chính trị yêu cầu phải “mở một chiến dịch
tuyên truyền vận động tranh thủ nhân dân, tranh thủ dư luận trong nước và dư
luận quốc tế. Vạch cho nhân dân trong nước và nhân dân thế giới thấy rã tâm
của địch, đập tan mọi luận điệu lừa bịp… Giải thích cho nhân dân trong nước


25

và làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ ta vẫn thi hành đúng hiệp định Giơnevơ,
từ trước đến nay vẫn giúp đỡ đồng bào muốn di cư…” [16;67].

Nghị Quyết Hội nghị Trung ương 7 (3/1955) của Đảng cũng xác định
rằng: “Củng cố không ngừng tình đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc
và các nước dân chủ nhân dân; thực hiện phối hợp chặt chẽ với các nước anh
em trong hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao” [16;216].
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam, tháng 8/1956, Ủy viên Bộ
Chính trị đồng chí Lê Duẩn soạn thảo Đường lối cách mạng miền Nam chỉ rõ
sự cần thiết phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân và của nhân dân tiến bộ thế
giới, vì đương đầu với một thế lực mạnh nhất thời đại, cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam là một bộ phận của phong trào nhân dân tiến bộ thế giới,
nhất định có được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, “do đó mà ta có
được thêm sức mạnh, địch sẽ bị cô lập và yếu thế, ta có thêm điều kiện thuận
lợi để thắng địch, để hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn dân tộc ta”
[17;785].
Từ cuối những năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược một cách bị
động, chúng chuyển sang “chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng
Miền Nam, chiến lại những địa bàn và vùng dân cư đã mất. Trước những
chiến lược mới của Mỹ, chủ trương đối ngoại của Đảng vẫn tiếp tục nêu cao
thiện chí hòa bình và lên án trước dư luận quốc tế về hành động leo thang mở
rộng chiến tranh của đế quốc. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã khẳng định nhiệm vụ và phương hướng của ngành đối ngoại:
“Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chúng ta là một nước xã hội chủ nghĩa có
vị trí quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á. Chúng ta có nhiệm vụ góp
phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung cho chủ nghĩa xã hội, độc lập
dân tộc và hòa bình thế giới… kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân


×