Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội thanh hoá, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.85 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ TRƯỜNG LÂM

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI THANH HOÁ,
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ TRƯỜNG LÂM

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI THANH HOÁ,
TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Hồi Loan

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Hồi
Loan.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
HỌC VIÊN

Vũ Trường Lâm


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT .............................. 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài nghiên cứu ................. 11
1.2. Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt ................... 25
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm.............................. 34
1.4. Cơ sở pháp lý ..................................................................................... 34
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ
HỘI THANH HÓA ....................................................................................... 36

2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Thanh Hoá. Vấn đề người tâm thần phân liệt
tại Thanh Hóa. Sơ lược về Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hóa ........... 36
2.2. Thực trạng người tâm thần phân liệt tại Trung tâm Bảo trợ xã hội
Thanh Hóa ................................................................................................ 42
2.3. Thực trạng công tác xã hội nhóm với người tâm thần phân liệt tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hóa....................................................... 43
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm ............ 46
2.5. Ứng dụng tiến trình công tác xã hội nhóm vào thực tế ..................... 50
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỪ THỰC TIỄN CÔNG
TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI
TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI THANH HÓA ................................... 66
3.1. Định hướng ........................................................................................ 66
3.2. Một số giải pháp ................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt

1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13

BTXH
CBVC-LĐ
CSSKTT
CTXH
ĐT
LĐTBXH
NCVĐTT
NTT
NVCTXH
NVXH
PHCN
SKTT
WHO

Nội dung
Bảo trợ xã hội
Cán bộ viên chức - lao động
Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Công tác xã hội
Đối tượng
Lao động Thương binh xã hội
Người có vấn đề tâm thần
Người tâm thần
Nhân viên công tác xã hội

Nhân viên xã hội
Phục hồi chức năng
Sức khỏe tâm thần
Viết tắt tên tiếng anh của tổ chức y tế Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các nguyên tắc CTXH nhóm đối với người tâm thần phân liệt đang
thực hiện tại Trung tâm .................................................................................... 45
Bảng 2.2. Trình độ chuyên môn, chuyên ngành đào tạo của công chức, viên
chức và người lao động làm việc tại Trung tâm ............................................. 47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra định nghĩa về sức khỏe là “trạng thái
thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ bao
gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật” (Tuyên ngôn Alma Ata năm
1978). Sức khoẻ tâm thần không chỉ là không bị mắc rối loạn tâm thần. Sức
khoẻ tâm thần được định nghĩa bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) “là trạng
thái hoàn toàn thoải mái mà ở đó mỗi cá nhân nhận thức rõ khả năng của
mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình thường trong cuộc sống, làm
việc hiệu quả và năng suất và có thể đóng góp cho cộng đồng” [6, tr. 11]. Sức
khỏe tâm trí là một bộ phận tạo nên sức khỏe ở mỗi chúng ta. Rối nhiễu tâm
trí biểu thị sự lệch lạc về sức khỏe tâm thần, đây là sự nhìn nhận mới về tình
trạng sức khỏe tâm trí theo hướng dự phòng, điều trị sớm bệnh tâm thần.
Hiện nay, số người bị rối nhiễu tâm trí ở Việt Nam ước tính chiếm khoảng
10% dân số, tương đương gần 9 triệu người, trong đó số người tâm thần nặng
chiếm 2,5% số người rối nhiễu tâm trí (tương đương 200 ngàn người). Số
người có hành vi nguy hiểm cho gia đình, cộng đồng khoảng 154.000 người.

Số người tâm thần có xu hướng gia tăng, đặc biệt là các thành phố, đô thị lớn
[2]. Việc chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm thần là một thách thức
lớn và là một gánh nặng đối với cộng đồng, xã hội. Do áp lực của cuộc sống,
áp lực kinh tế, tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế và nhiều
nguyên nhân khác nhau nên số người tâm thần có xu hướng gia tăng, đặc biệt
tại các thành phố, đô thị lớn.
Thanh Hóa là tỉnh có dân số đông, có khoảng 500.000 người bị bệnh tâm
thần và người rối nhiễu tâm trí chiếm khoảng 15% so với tổng dân số của tỉnh,
trong đó có gần 50.000 người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân
liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều
1


lần nhưng chưa thuyên giảm, có trên 18.000 người tâm thần nặng, lang thang
có hành vi gây nguy hiểm đến gia đình và cộng đồng [19].
Trung tâm Bảo trợ Xã hội Thanh Hoá hiện là cơ sở chuyên biệt của tỉnh
đang quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, điều trị và phục hồi chức năng cho 580
người tâm thần phân liệt. Hiện tại việc điều trị và phục hồi chức năng cho đối
tượng chủ yếu thông qua việc dùng thuốc, các dịch vụ tư vấn, tham vấn tâm
lý, trợ giúp xã hội, quản lý ca….và các hoạt động của nghề công tác xã hội
chuyên nghiệp mới đang được bắt đầu áp dụng tại Trung tâm.
Với mục tiêu 90% số người tâm thần có hành vi nguy hiểm đến gia đình,
cộng đồng và số người tâm thần lang thang được phục hồi chức năng luân
phiên tại các cơ sở bảo trợ xã hội theo Quyết định 1215/QĐ-TTg ngày
22/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án trợ giúp xã hội
và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiều tâm trí dựa vào
cộng đồng giai đoạn 2011 – 2020 (gọi tắt là đề án 1215), người tâm thần phân
liệt đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội như tại Trung tâm Bảo
trợ xã hội Thanh Hoá cần được phục hồi để duy trì cuộc sống, kéo dài khả
năng ổn định để có cơ hội hoà nhập cộng đồng, tạo điều kiện cơ sở vật chất để

luân phiên nuôi dưỡng, phục hồi chức năng cho các đối tượng tâm thần phân
liệt khác.
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền
tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá
nhân, nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn
lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững. Nghề công tác xã hội có
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội thông qua việc hỗ trợ các đối tượng
tự giải quyết vấn đề gặp phải, góp phần đảm bảo công tác an sinh xã hội và
phát triển bền vững.
Phương pháp công tác xã hội nhóm là phương pháp rất có hiệu quả trong
việc trợ giúp các đối tượng có vấn đề xã hội nói chung và với người tân thần
2


nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta phương pháp này còn chưa được áp
dụng triệt để trong thực hành trợ giúp người tâm thần tại các Trung tâm
BTXH dành cho người tâm thần trên phạm vi cả nước. Người tâm thần
thường bị cô lập, xa lánh mọi người, ngại giao tiếp, vì thế sử dụng phương
pháp công tác xã hội nhóm trước tiên để tạo ra môi trường giao tiếp, giúp họ
giao tiếp với nhau, tăng cường kỹ năng giao tiếp.
Từ những đặc điểm trên, với kiến thức được trang bị từ khoá đào tạo
cao học ngành công tác xã hội và trải nghiệm thực tế nhiều năm công tác
trong lĩnh vực nuôi dưỡng, chăm sóc người tâm thần phân liệt tôi đã chọn đề
tài “Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt từ thực tiễn Trung
tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình trạng rối loạn tâm thần trên thế giới
Người bị rối loạn tâm thần là một trong số những người ít được quan
tâm nhất trên thế giới. Tại nhiều cộng đồng, bệnh tâm thần không được coi là
một bệnh lý thực sự mà được xem như một sự khiếm khuyết trong tính cách.

Thậm chí ngay cả khi được công nhận là có bệnh, bệnh nhân tâm thần thường
nhận được sự điều trị thiếu tính nhân đạo. Sự miệt thị đối với bệnh tâm thần
có thể loại bỏ bằng cách làm cho cộng đồng nhận thức được rằng các rối loạn
tâm thần có thể phòng chống được.
Có gần 54 triệu người trên thế giới mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần
như bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Thêm vào đó là
154 triệu người bị mắc trầm cảm. Các con số gần đây nhất chỉ ra rằng có gần
1 triệu người tự tử mỗi năm.
Trong đó, có hơn 50% các nước phát triển không cung cấp bất cứ sự
chăm sóc tại cộng đồng nào cho những người bị rối loạn tâm thần. Kết quả là
hơn 75% người bị rối loạn trầm cảm tại các nước đang phát triển không được
chữa trị thỏa đáng [30].
3


2.2. Tại Việt Nam
Báo cáo trong đề án 1215 (năm 2010): gần 9 triệu người bị rối nhiễu
tâm trí.
Các luật sức khỏe nhân dân (1989), Luật người khuyết tật (2010), luật
người cao tuổi (2010), Luật phòng chống bạo lực gia đình (2007).
Chương trình thuộc dự án ảo vệ sức khỏe tâm thần 1999-2010 lồng
ghép nội dung CSSKTT với các nội CSSK tại cơ sở xã phường tạo điều kiện
hoà nhập cộng đồng.
Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 của bệnh viện Tâm thần
Trung ương I: 10 bệnh tâm thần phổ biến: Rối nhiễu tâm thần do nghiện ma
túy 5,3%; Rối nhiễu tâm thần lạm dụng rượu 5,3%; Trầm cảm 2,8%; Lo âu
2,7%; Chậm phát triển trí tuệ 0,63%; Mất trí tuổi già 0,9%; (dự báo 66 triệu
người vào năm 2030); Rối nhiễu hành vi ở thanh thiếu niên 0,9%; Rối nhiễu
tâm thần do chấn thương sọ não là 0,51%; Tâm thần phân liệt 0,47%; Động
kinh 0,33%;

Kết quả một khảo sát của Bộ Y Tế, có đến 19,46% học sinh trong độ
tuổi 10-16 gặp trục trặc về sức Khỏe tâm thần. Trong số các trường hợp tự tử,
10% ở độ tuổi 10-17. Nghiên cứu “Những cuộc đời trẻ thơ” cho thấy tỷ lệ rối
loạn tâm thần ở học sinh tiểu học là 20% và tỷ lệ ở bà mẹ đang cho con bú (618 tháng) cũng là 20%.
10% đến 15% phụ nữ ở các nước phát triển mắc trầm cảm sau sinh với
hậu quả xấu cho mối quan hệ mẹ-con ở giai đoạn đầu và cho sự phát triển tâm
lý của trẻ. Ở các nước có thu nhập thấp, tỷ lệ trầm cảm trong giai đoạn mang
thai cao hơn các nước phát triển. Một trong hai nghiên cứu được xuất bản về
sức khỏe tâm thần của bà mẹ ở Việt Nam cho thấy 33% phụ nữ đến phòng
khám sức khỏe tổng quát tại TP. Hồ Chí Minh bị trầm cảm và 19% có ý định
tự tử.
4


CTXH (Social work) là nghề nghiệp tham gia giải quyết các vấn đề liên
quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng
cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống
của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận
về hệ thống xã hội trong quá trình can thiệp các mối tương tác của con người
với môi trường sống (IFSW& IASSW, 2011). CTXH với những chức năng
can thiệp, giải quyết, phòng ngừa các vấn đề xã hội, phát triển tiềm năng cá
nhân, gia đình và cộng đồng, thực hiện các nhiệm vụ sau trong xã hội: Phát
triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội; Trợ giúp con người
trong giải quyết và đối phó với vấn đề khó khăn trong cuộc sống; Nối kết con
người với hệ thống dịch vụ và nguồn lực trong xã hội; Thúc đẩy các tổ chức
xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con người hoạt động có hiệu quả và
mang tính nhân văn (Chalse Zastrow, 1985). Nhân viên công tác xã hội làm
việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần cũng thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ trên của CTXH trong các cơ sở trợ giúp những cá nhân, gia
đình và nhóm người có vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần đã có một lịch sử lâu
đời ở nhiều nước phát triển thên thế giới. Tại Mỹ, việc lồng ghép chuyên môn
CTXH vào hoạt động chữa trị, can thiệp nhằm thúc đẩy chất lượng chăm sóc
sức khỏe tâm thần được xem là một lĩnh vực sớm nhất của công tác xã hội.
CTXH trở thành một dịch vụ tại bệnh viện Manhattan State tại New York
năm 1906 và tại Bệnh viện tâm thần Boston năm 1910. Tại Canada, nhân viên
CTXH đã tham gia vào cung cấp dịch vụ cho những người có vấn đề về tâm
thần và gia đình từ những năm đầu đời của CTXH và từ đó đến nay CTXH
trong chăm sóc sức khỏe tâm thần đã trải qua nhiều thách thức nhưng cũng
đem lại nhiều kết quả minh chứng cho tính hiệu quả của nghề nghiệp này.

5


M. Duggan (2002) đã chỉ ra những lý do mà người ta sử dụng CTXH
trong thúc đẩy chăm sóc sức khỏe tâm thần bởi CTXH tham gia vào: nhấn
mạnh khía cạnh chính sách với sự hợp tác và sự tham gia của các bên; phát
triển môi trường và hệ thống cung cấp dịch vụ và sử dụng dịch vụ; thúc đẩy
khía cạnh nhiều chiều, đa yếu tố của chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần
trong cộng đồng; cung cấp minh chứng cho việc sử dụng CTXH tạo nên tính
thân thiện, hiệu quả và sự bình đẳng trong can thiệp trợ giúp người tâm thần.
Các nghiên cứu về công tác xã hội đối với người tâm thần ở Việt
Nam còn chưa phổ biến, nhất là công tác xã hội nhóm đối với người tâm
thần phân liệt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về CTXH, CTXH nhóm, người tâm
thần phân liệt và thực trạng về phương pháp CTXH nhóm đối với người tâm
thần phân liệt từ thực tiễn, cũng như một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã
hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt tại đây. Trên cơ sở đó, đề xuất một

số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTXH nhóm đối với người tâm thần
phân liệt nói chung và tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá nói riêng.
Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về CTXH, CTXH
nhóm, người tâm thần phân liệt. Nắm được những hiểu biết và kỹ năng thực
hành CTXH của đội ngũ CBNV Trung tâm trong hoạt động trợ giúp đối với
NTT. Tìm hiểu thực trạng CTXH nhóm đối với người tâm thần phân liệt tại
Trung tâm. Chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với
người tâm thần phân liệt. Định hướng vai trò của nghề CTXH, phương pháp
CTXH nhóm đối với người tâm thần phân liệt được nuôi dưỡng trong các cơ
sở BTXH. Đưa ra số giải pháp khả thi nâng cao hiệu quả CTXH nhóm đối với
người tâm thần phân liệt trong các cơ sở BTXH.
6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa lý thuyết được áp dụng cho phương pháp công tác xã hội
nhóm đối với người tâm thần phân liệt.
Tìm hiểu, nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đối với người tâm
thần ở Việt Nam
Đánh giá thực trạng công tác xã hội, CTXH nhóm đối với người tâm
thần phân liệt từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá.
Áp dụng thử nghiệm phương pháp công tác xã hội nhóm vào hỗ trợ
người tâm thần phân liệt tại Trung tâm
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt.
4.2. Khách thể nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Khách thể nghiên cứu: Người tâm thần phân liệt ở mức độ nhẹ
đang trong giai đoạn phục hồi; Cán bộ tại sơ sở Trung tâm BTXH.
4.2.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về mặt không gian: tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá.
Về mặt thời gian: Từ tháng 12/2015 – 6/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Từ những đánh giá thực trạng về người tâm thần phân liệt, thực trạng
của công tác xã hội đối với người tâm thần phân liệt trong Trung tâm Bảo trợ
xã hội Thanh Hoá, rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về
biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần
phân liệt trong các cơ sở Bảo trợ xã hội.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những
lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan
như dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với người tâm thần phân liệt, hệ
thống chính sách đối với người tâm thần phân liệt.
7


5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương
hướng giúp cho các nhà nghiên cứu có cái nhìn khách quan và đúng đắn về
bản chất sự vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đòi hỏi khi nghiên cứu về một
hiện tượng, sự kiện hay vấn đề nào đó trong hệ thống một chỉnh thể toàn diện,
trong đó các bộ phận có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau để
thực hiện chức năng của hệ thống đó. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đòi hỏi khi
nghiên cứu chúng ta phải có sự nhìn nhận xem xét vấn đề trong bối cảnh
không gian, thời gian nhất định.
Dựa trên cơ sở đó, tôi nhận thấy rằng khi nghiên cứu về thực trạng
CTXH nhóm đối với người tâm thần phân liệt từ thực tiễn Trung tâm BTXH
Thanh Hóa luôn được xem là bộ phận của một chỉnh thể của một hệ thống các
bộ phận thống nhất trong xã hội. Các bộ phận này có quan hệ mật thiết với
nhau, tương tác với nhau thay thế lẫn nhau trong điều kiện cụ thể. Các hoạt
động CTXH nhóm đối với người tâm thần luôn vận động, biến đổi và phát

triển không ngừng theo sự biến đổi của không gian, thời gian, gắn với sự phát
triển của xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông
tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các
nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
+ Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn
đề CTXH đối với người tâm thần, người tâm thần phân liệt.
+ Phân tích các tài liệu, báo cáo như: Quyết định số 32/2010/QĐ – TTg,
ngày 25/02/2010 về việc phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai
đoạn 2010 – 2020, gọi tắt là “đề án 32”;Quyết định 1215/QĐ-TTg ngày
8


22/07/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án trợ giúp xã hội
và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiều tâm trí dựa vào
cộng đồng giai đoạn 2011 – 2020; “Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Đề án
trợ giúp xã hội và PHCN cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí giai
đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020 của Bộ Lao động –
Thương binh và xã hội’’...
+ Tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính sách
hỗ trợ đối với người tâm thần.
- Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu thông qua
các tri giác như nghe, nhìn, …để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm
đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp quan sát để tìm
hiểu sâu hơn về thực trạng người tâm thần phân liệt đang được nuôi dưỡng
trong trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá. Thông qua phương pháp này, giúp

tôi có cái nhìn khách quan, sinh động về thân chủ, mối tương tác giữa các
thân chủ trong buổi sinh hoạt nhóm từ đó để có hướng điều chỉnh phù hợp.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (đối tượng phỏng vấn là lãnh đạo và 50
cán bộ nhân viên trực tiếp quản lý chăm sóc, trợ giúp người tâm thần phân
liệt tại các phòng khoa trong Trung tâm)
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được
sử dụng để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động
cơ, quan điểm, chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn
đề liên quan.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu để tìm hiểu về đời
sống, tâm tư nguyện vọng cũng như nhu cầu của người tâm thần trong Trung
tâm BTXH Thanh Hoá và thuận lợi, khó khăn gặp phải của đội ngũ cán bộ khi
9


thực hiện chính sách trợ giúp người tâm thần phân liệt tại Trung tâm. Thực
trạng công tác xã hội nhóm với người tâm thần phân liệt tại Trung tâm Bảo
trợ xã hội Thanh Hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm khía cạnh
lý luận của CTXH nhóm với người tâm thần phân liệt bởi đây là một nội dung
mới chưa có nhiều công trình nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở cho việc phát triển dịch vụ
CTXH nhóm cho người tâm thần phân liệt, đổi mới cách thức phục hồi chức
năng cho người tâm thần, cung cấp dịch vụ, đổi mới tổ chức hoạt động đồng
thời góp phần hoàn thành mục tiêu của Đề án 32 về phát triển nghề CTXH tại
Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, mục lục, nội dung của
Luận văn có 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm đối với người tâm
thần phân liệt.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với người tâm thần
phân liệt tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Thanh Hoá.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
xã hội nhóm đối với người tâm thần phân liệt.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI NGƯỜI TÂM THẦN PHÂN LIỆT
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm công tác xã hội
Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011)
thống nhất một định nghĩa về CTXH như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp
tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền
lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học
thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự
tương tác của con người với môi trường sống.
Theo các nhà nghiên cứu về CTXH Philippines: “Công tác xã hội là
một nghề bao gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ nhằm thúc đẩy hay
điều phối các mối quan hệ xã hội và sự điều chỉnh hòa hợp giữa cá nhân và
môi trường xã hội để có xã hội tốt đẹp hơn” [12, tr. 12]
Các nhà khoa học Việt Nam: Công tác xã hội là hoạt động thực tiễn
mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp

nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng trong việc giải quyết các
vấn đề đời sống của họ - qua đó, công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì hạnh
phúc con người và tiến bộ xã hội.
Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 32/2010/QĐ-TTg thì CTXH được định
nghĩa như sau: “CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn, được thực hiện
theo các nguyên tắc và phương pháp riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia
đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư trong việc giải quyết các vấn đề của
họ. Qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ
xã hội”.

11


Theo Nguyễn Hồi Loan (2015): “Công tác xã hội là một hoạt động
thực tiễn xã hội, được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp nhất
định và được vận hành trên cơ sở văn hóa truyền thống của dân tộc, nhằm trợ
giúp cá nhân và các nhóm người trong việc giải quyết các nan đề trong đời
sống của họ, vì phúc lợi và hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội” [10].
Như vậy, từ những khái niệm trên giúp cho ta hiểu được những nội dung
cụ thể của CTXH đặc trưng cho văn hóa của mỗi cộng đồng:
+ CTXH là một khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống
kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và những quy định chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp khi thực hành loại ngành nghề này.
+ Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm và cộng
đồng, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, gia đình
nghèo, người già, NKT, những người có hoàn cảnh khó khăn nên khó hòa nhập
xã hội và chức năng xã hội bị suy giảm.
+ Hướng trọng tâm của CTXH là tác động đến con người như một tổng
thể; tác động đến con người trong môi trường của họ.

+ Mục đích của CTXH là hướng tới giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng
đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra
những thay đổi về vai trò, vị trí của cá nhân, gia đình, cộng đồng từ đó giúp
họ hòa nhập xã hội.
+ Vấn đề mà cá nhân, gia đình hay cộng đồng gặp phải và cần tới sự can
thiệp của CTXH là những vấn đề có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan cá nhân
như sự hạn chế về thể chất, sức khỏe, tinh thần, thiếu việc làm, không được đào
tạo chuyên môn, nghèo đói, quan hệ xã hội suy giảm.
Từ những khái niệm và phân tích trên tôi đưa ra khái niệm như sau: CTXH
là một khoa học, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân,
nhóm, cộng đồng yếu thế nâng cao năng lực, tăng cường các chức năng xã hội
nhằm ứng phó với những vấn đề xã hội tiêu cực xảy ra từ đó hướng đến mục
tiêu phát triển bền vững.
12


1.1.2. Khái niệm công tác xã hội nhóm
Trong đời sống của mình, mỗi cá nhân không thể tách mình khỏi các hoạt
động xã hội. Những hoạt động mà cá nhân tham gia rất đa dạng, đó có thể là các
hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động học tập, hoạt động kinh tế, chính trị.
Sự phân công lao động buộc cá nhân muốn thực hiện nhiệm vụ của mình phải
hợp tác với các cá nhân khác. Sự hợp tác ấy hình thành nên các nhóm.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nhóm nhưng tựu chung đều khẳng
định các dấu hiệu sau đây:
- Số lượng thành viên nhóm phải có từ 3 thành viên trở lên. Thông
thường trong CTXH nhóm, muốn đạt hiệu quả cao thì số lượng nhóm viên nên
ở mức vừa phải (nhóm từ 7-11 thành viên). Tuy nhiên, không cứng nhắc hay
có một khuôn mẫu đóng về số lượng nhóm viên.
- Các thành viên trong nhóm phải có mối liên hệ tương tác với nhau,
thống nhất trong mọi hành động.

- Khi tham gia vào nhóm, mọi thành viên bao giờ cũng có một mục đích
riêng song mục đích đó thường phù hợp với mục tiêu chung của nhóm. Khi mục
đích cá nhân phù hợp với mục đích nhóm, các thành viên sẽ có ý thức chung về
nhóm và nhận thức được vai trò của mình trong nhóm. Lúc đó, các thành viên sẽ
trở thành một tiểu hệ thống trong một hệ thống lớn mà họ tham gia.
- Nhóm thường được thành lập dựa trên một kiểu cấu trúc nhất định. Có
thể là một cơ cấu chính thức với sự phân định vị thế và vai trò cụ thể gắn với
từng thành viên, có thể là một cơ cấu không chính thức, tồn tại trong một thời
gian ngắn song chúng đều là những cấu trúc tồn tại, xác định.
Từ những phân tích trên có thể xác định: Nhóm xã hội là một tập hợp
người trong đó các cá nhân có cùng chung lợi ích, mục đích, có mối quan hệ
tương tác lẫn nhau và tồn tại theo một kiểu cấu trúc nhất định.
Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận với

13


Công tác xã hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và những
ứng dụng thực hành cụ thể. Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định nghĩa
bao quát được bản chất của Công tác xã hội nhóm và tổng hợp những điểm
riêng biệt của các cách tiếp cận với Công tác xã hội nhóm như sau: “Công
tác xã hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu
nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt
động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn
thể nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ” [28, tr.12]. Hoạt động có
mục đích được các tác giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế hoạch đúng trật
tự, hướng tới nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như để hỗ trợ hay giáo dục
nhóm giúp các thành viên trong nhóm giao tiếp và phát triển cá nhân. Định
nghĩa này cũng nhấn mạnh hoạt động có định hướng không chỉ với cá nhân
thành viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm.

Trong từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm được định nghĩa
là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp CTXH, trong đó các thành
viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường
xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu
cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, mục tiêu CTXH nhóm không chỉ là
trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình cảm mà còn là trao đổi thông tin, phát
triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các định hướng giá trị và làm
chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành các nguồn lực hiệu quả. Các
kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình CTXH nhóm nhưng không
hạn chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu” [28, tr.85].
Khái niệm trên có đưa ra sự khác biệt giữa công tác xã hội nhóm và trị
liệu tâm lý nhóm ở việc “phát triển các kỹ năng xã hội vào lao động, thay đổi
định hướng giá trị và làm chuyển biến hành vi chống lại xã hội”. Để kiểm
chứng cho những khác biệt trên, chúng ta tìm hiểu khái niệm về trị liệu tâm
14


lý, trong đó bao gồm cả trị liệu tâm lý nhóm. Từ điển công tác xã hội của
Barker (1995) nêu: “Trị liệu tâm lý là một hoạt động tương tác đặc biệt và
chính thức giữa một nhân viên xã hội hay các chuyên môn về sức khỏe tâm
thần khác với thân chủ cá nhân, hai người, gia đình hay nhóm, ở đó mối quan
hệ trị liệu được thiết lập để giải quyết những biểu hiện của rối nhiễu tâm thần
Như vậy công tác xã hội nhóm là:
Công tác xã hội nhóm là một phương pháp của Công tác xã hội nhằm
tạo dựng và phát huy sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa các
thành viên, giúp củng cố, tăng cường chức năng xã hội và khả năng giải quyết
vấn đề, thỏa mãn nhu cầu của nhóm.
1.1.3. Mục đích và giá trị của Công tác xã hội nhóm
- Mục đích của CTXH nhóm: Công tác xã hội nhóm tạo ra bối cảnh trong
đó các cá nhân hỗ trợ lẫn nhau, làm cho cá nhân và nhóm có khả năng ảnh

hưởng và thay đổi các vấn đề của cá nhân, của nhóm, của tổ chức và của cộng
đồng. Công tác xã hội nhóm hướng tới mục đích chung là giúp cá nhân thuộc
nhóm thỏa mãn nhu cầu, giải quyết các vấn đề, tiến tới sự tự trợ giúp và đóng
trọn vẹn vai trò xã hội của mình.
- Giá trị của CTXH nhóm: Trên nền tảng triết lý hành động chung của
Công tác xã hội, các giá trị của Công tác xã hội nhóm là:
+ Tạo môi trường, phương thức nâng cao năng lực giúp đỡ lẫn nhau. Sự
tham gia vào nhóm và tạo lập mối quan hệ tích cực giữa những cá nhân khác
nhau, có những đặc điểm riêng thuộc về “cái tôi” nhưng có cùng vấn đề, mục
đích chủ yếu khi tham gia nhóm không phân biệt tuổi, giới tính, chủng tộc, địa
vị hay tầng lớp xã hội.
+ Sự hợp tác và cùng ra quyết định vừa là một nguyên tắc hành động
vừa là một điều kiện quan trọng đảm bảo cho thành công của Công tác xã hội
nhóm. Giá trị này giúp cho các nhóm viên được thừa nhận, được tiếp thêm sức
15


mạnh và tăng cường năng lực trong quá trình tham gia nhóm, thực hiện các
nhiệm vụ, hành động theo mục đích, mục tiêu xác định.
+ Khuyến khích những sáng kiến của cá nhân trong nhóm. Giá trị này
được xây dựng và khẳng định bởi Công tác xã hội nhóm lấy tiến trình nhóm và
phương pháp làm việc theo nhóm làm phương thức tồn tại, phát triển của
nhóm. Sự tham gia ý kiến, sáng kiến được khích lệ sẽ là động lực để cho nhóm
viên thêm tự tin thể hiện năng lực bản thân. Giá trị này tạo sự tôn trọng và đánh
giá đúng đóng góp của các thành viên nhóm sẽ làm gắn kết hơn các thành viên.
+ Quyền tự do tham gia. Đây là một giá trị bảo đảm sự tham gia nhóm
một cách bền vững của nhóm viên. Bởi lẽ, với những nhóm khác trong đời
sống xã hội, rất có thể có sự phân cấp quyền lực và tồn tại sự cao thấp trong
quan hệ. Với nhóm trong Công tác xã hội nhóm, những ranh giới này trở nên
gần gũi và không phải là điều quan trọng, mọi người tham gia nhóm cảm thấy

được tự do, bình đẳng, bao gồm cả về vị trí trong nhóm cũng như việc bày tỏ
suy nghĩ, thực hiện hành động.
CTXH nhóm là phương pháp trong CTXH nhằm giúp tăng cường, củng
cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt động nhóm và khả năng
ứng phó với các vấn đề của cá nhân, có nghĩa là: Ứng dụng những kiến thức,
kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc năng động nhóm). Nhóm nhỏ thân
chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề. Các mục tiêu xã
hội được thiết lập bởi NVXH trong kế hoạch hỗ trợ thân chủ (cá nhân, nhóm,
cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp thân chủ tăng cường
năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các kinh nghiệm của nhóm có
mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu. Konopka
(1963) xác định phương pháp công tác xã hội nhóm là một phương pháp của
ngành công tác xã hội giúp những cá nhân tăng cường chức năng xã hội của
họ thông qua các kinh nghiệm của nhóm mục tiêu và khắc phục một cách hiệu
16


quả hơn các vấn đề của cá nhân, nhóm và cộng đồng. Công tác xã hội nhóm
tạo một bối cảnh trong đó các cá nhân hỗ trợ lẫn nhau, làm cho cá nhân và
nhóm có khả năng ảnh hưởng và làm thay đổi các vấn đề của cá nhân, của
nhóm, của tổ chức và của cộng đồng. Nó mang tính chất chức năng xã hội
nhiều hơn và chính điều này làm cho nó khác hơn với nhóm trị liệu vì nhóm
trị liệu chú trọng nhiều hơn các nhu cầu cảm xúc và các tiến trình tâm lý. Mục
đích của CTXH là giúp thân chủ (cá nhân) hay hệ thống thân chủ (nhóm hay
cộng đồng) thỏa mãn nhu cầu, giải quyết vấn đề, tiến tới tự giúp và đóng trọn
vẹn vai trò xã hội của mình, mặc dù kết quả nhắm tới là một đối tượng và
phương pháp tác động khác nhau. Trong phương pháp cá nhân, đối tượng
được tác động vào là chính cá nhân người được giúp đỡ. Công cụ là mối quan
hệ giữa NVXH và thân chủ. Trong phương pháp nhóm, đối tượng tác động
vào là toàn nhóm, là mối tương tác giữa các nhóm viên, là mục đích, bầu

không khí, sinh hoạt nhóm. CTXH nhóm là sử dụng cơ cấu nhóm và năng
động trong nội bộ nhóm để đem đến những thay đổi về nhận thức, niềm tin và
hành vi. Các thành viên nhóm chia sẻ kinh nghiệm và sử dụng nguồn lực của
cá nhân và của nhóm để giải quyết vấn đề của họ. Trong phát triển cộng đồng,
đối tượng là các tập thể khác nhau trong cộng đồng, mối tương quan sức
mạnh giữa họ, những vấn đề của cộng đồng với mục đích cuối cùng là làm
tăng khả năng tự giải quyết vấn đề cộng đồng.
Yếu tố cần quan tâm trong công tác xã hội nhóm: Trong lĩnh vực Công
tác xã hội nhóm yếu tố cần quan tâm ở đây là: Đối tượng là ai? Nơi sinh hoạt,
bối cảnh sinh hoạt có thuận lợi không? Nhu cầu gì cần được đáp ứng? Nếu
một nhóm có nhu cầu giống nhau thì sẽ đồng nhất và thể hiện sự quan tâm,
hòa hợp mạnh mẽ hơn. Ở một nhóm có nhu cầu và mối quan tâm khác nhau,
sự tham gia vào hoạt động chung của nhóm sẽ bị giới hạn nhiều. Vậy mục
tiêu cần đạt được trong sinh hoạt nhóm là giải quyết vấn đề của nhóm viên,
17


giúp nhóm viên thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi và có khả năng đương đầu
với những khó khăn mới.
Các loại hình công tác xã hội nhóm:
Nhóm giải trí: rèn luyện đạo đức và phát triển nhân cách. Mỗi hình
thức và nội dung giải trí được nhân viên xã hội (NVXH) chọn lựa đều có mục
đích xã hội (Trong nhà mở, chiếu phim truyện cho trẻ xem hoặc kể chuyện
cho trẻ nghe, sau đó cho các em thảo luận về nội dung, giúp trẻ phân biệt cái
tốt/cái xấu cần tránh).
Nhóm giáo dục: Giáo dục về kiến thức và kỹ năng (Nhóm các bà mẹ
phòng chống suy dinh dưỡng cho con, nhóm chăn nuôi, nhóm đồng đẳng
HIV/AIDS…).
Nhóm tự giúp: Nhóm hỗ trợ nhau để vượt khó (Nhóm người khuyết
tật, nhóm đồng đẳng, nhóm cai nghiện…). Thường nhóm được NVXH giúp

trong giai đoạn đầu, sau đó rút dần vai trò để nhóm tự đề ra các hoạt động, khi
cần thiết thì NVXH mới can thiệp.
Nhóm với mục đích xã hội hóa hay tái xã hội hóa: Nhóm giúp tăng
cường khả năng xã hội. Ví dụ: Nhóm trẻ có hành vi không thích nghi (nhóm
học sinh cá biệt tại trường học, nhóm trẻ đường phố…). Mục đích ở đây là
phát triển nhân cách, giáo dục con người. Đi từ thấp đến cao có nhóm giải trí,
nhóm kỹ năng cho trẻ em và thanh thiếu niên như hướng đạo, nhóm CLB.
Nhưng ở đây khía cạnh tâm lý xã hội được quan tâm nhiều chứ không chỉ chú
trọng đến dạng kỹ năng. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên đây là một môi
trường xã hội hóa bổ sung cho gia đình và trường học hết sức quan trọng.
Những nhu cầu cơ bản được đáp ứng để hình thành dần những nhân cách lành
mạnh, sung mãn. Kế đó sẽ có những con người tháo vát, biết hợp tác, cống
hiến cho xã hội.

18


CTXH nhóm còn đặc biệt hướng đến những thanh thiếu niên do hoàn
cảnh đẩy đưa tới cuộc sống theo băng nhóm, phá quậy. Bằng cách từ từ lôi
cuốn họ tham gia vào các hoạt động giải trí, thể dục, thể thao, văn hóa xã hội,
họ sẽ thay thế những hành vi chống xã hội bằng những hành vi tích cực. Đó là
mục đích tái xã hội hóa. Công việc này tất nhiên rất khó khăn. Thường thì các
tác viên xã hội phải “thâm nhập” các băng nhóm sẵn có để tìm hiểu và từ từ
giúp thay đổi cơ chế của nhóm cũng như hướng tới các hoạt động mang tính
tích cực xã hội.
Nhóm trị liệu: Nhóm là môi trường chia sẻ cảm xúc và trao đổi những
kinh nghiệm, những vấn đề gặp phải (Nhóm cai nghiện, nhóm gia đình…).
Nhóm gặp nhau định kỳ, trao đổi, tâm sự những vấn đề của mình (thất bại
trong cuộc sống, phản hồi, góp ý cho nhau, cá nhân nhìn thấy vấn đề rõ hơn
và có hướng giải quyết vấn đề). Ở đây là những đối tượng có vấn đề tâm lý

mà thay vì chỉ dùng biện pháp cá nhân, sinh hoạt nhóm sẽ giúp thân chủ có
điều kiện tâm lý xã hội tốt hơn để tự bộc lộ, thay đổi thái độ, hành vi (nhóm
nghiện ma túy đang trên đà phục hồi chẳng hạn). Khi vấn đề nằm ở mối quan
hệ như thành viên một gia đình, CTXH nhóm vừa giúp cá nhân có vấn đề vừa
giúp điều chỉnh lại mối quan hệ.
Nhóm trợ giúp: Nhóm giúp tăng cường khả năng đồng cảm với người
khác (Nhóm đồng đẳng HIV/AIDS vừa là tự giúp nhau vừa tác động xã hội để
xã hội hiểu biết và đồng cảm với họ, không phân biệt đối xử). Nhóm hành
động (nhằm cải tạo môi trường và điều kiện xã hội). Trong đời sống hàng
ngày con người tự nguyện liên kết với nhau để giải quyết những vấn đề chung
như cải thiện nhà ở, bảo vệ môi trường v.v... hay các quyền lợi khác. Ngày
nay có nhiều nhóm gọi là “nhóm tự giúp” là các tổ chức do chính những
người trước đó cần rất nhiều sự giúp đỡ của tổ chức và NVXH. Đó là những
cựu bệnh nhân các loại, những người khuyết tật, những người trước kia là nạn
19


×