Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.4 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ QUỲNH NGỌC

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRẺ KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Minh

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Hữu Minh. Các trích dẫn
và số liệu sử dụng trong luận văn là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ ràng. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, năm 2016
Tác giả luận văn

Hồ Quỳnh Ngọc



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ...................8
ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRẺ KHUYẾT TẬT ............................................................8
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ..............................................................8
1.2. Các khái niệm công cụ ...................................................................................11
1.3. Cơ sở pháp lý trong công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật .....18
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRẺ
KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT –
HÀN,THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………………………………………….22
2.1. Một số đặc điểm về thực trạngđịa bàn nghiên cứu…………………….22
2.2. Một số đặc điểm về gia đình trẻ khuyết tật tại Trung tâm……………..28
2.3. Thực trạng nhu cầu của trẻ khuyết tật và gia đình trẻ khuyết tật tại Trung tâm31
2.4. Hoạt động công tác xã hội đối với gia đình có trẻ khuyết tật tại Trung
tâm hiện nay………………………………………………………………………..37
2.5. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện công tác xã hội đối
với gia đình trẻ khuyết tật tại Trung tâm hiện nay…………………………………50
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI GIA ĐÌNH TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC
NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .....................................................55
3.1. Một số định hướng trong công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật tại
Trung tâm ..............................................................................................................55
3.2. Một số giải pháp cơ bản trong công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật
tại Trung tâm .........................................................................................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1

CTXH

Công tác xã hội

2

GĐTKT

Gia đình trẻ khuyết tật

3

PHCN

Phục hồi chức năng

4

TKT

Trẻ khuyết tật


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG SỐ LIỆU

STT


TRANG

Hình 1.1.

Tháp nhu cầu theo “Lý thuyết nhu cầu” của Maslow

13

Bảng 2.1.

Đánh giá nhu cầu của gia đình và sự hỗ trợ của

36

Trung tâm qua ý kiến của gia đình và cán bộ nhân
viên
Bảng 2.2.

Tổng hợp thứ bậc nhu cầu theo đánh giá của gia đình

38

trẻ khuyết tật và cán bộ nhân viên về các dịch vụ
cung cấp cho trẻ khuyết tật tại Trung tâm
Bảng 2.3.

Sự hài lòng của gia đình về việc đáp ứng các nhu cầu

40


phục hồi chức năng tại Trung tâm
Bảng 2.4

Sự hài lòng của cán bộ, nhân viên Trung tâm về việc

42

đáp ứng các nhu cầu cho gia đình trẻ khuyết tật tại
Trung tâm
Bảng 2.5

Sự tham gia của gia đình vào các giai đoạn quản lý

52

ca
Bảng 2.6

Sự tham gia của gia đình vào việc xây dựng kế hoạch

53

trợ giúp cho trẻ khuyết tật
Biểu đồ

Tỷ lệ đánh giá cán bộ nhân viên Trung tâm trong

2.1.


việc tuân thủ nguyên tắc trợ giúp khi làm việc với gia

54

đình trẻ khuyết tật
Biểu đồ

Biểu đồ 2.2: So sánh về đánh giá hiệu quả công tác

2.2.

phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật giữa gia đình
và cán bộ nhân viên Trung tâm

56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác xã hội (CTXH) đối với gia đình trẻ khuyết tật (GĐTKT) là một
lĩnh vực chuyên biệt trong ngành CTXH, nhằm đem lại sự hỗ trợ cho trẻ
khuyết tật (TKT) và GĐTKT, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh cho TKT và
GĐTKT. Trong những năm gần đây, sự nỗ lực của Chính phủ và các tổ chức
xã hội đã đáp ứng phần nào nhu cầu được chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức
năng (PHCN) của TKT và hỗ trợ cho các GĐTKT. Tuy nhiên, ở nước ta hiện
nay việc thực hiện các nội dung CTXH đối với GĐTKT còn nhiều hạn chế,
điều đó đã tạo ra khoảng cách khá lớn giữa nhu cầu của GĐTKT và những đáp
ứng của xã hội đối với GĐTKT. Với ý nghĩa đó, việc thực hiện các hoạt động
CTXH đối với GĐTKT, không chỉ nâng cao nhận thức cho các GĐTKT về các
nội dung giáo dục và chất lượng PHCN cho TKT, mà còn thể hiện sự kết hợp

giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác PHCN cho TKT.
Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn,thành phố Hà Nội (sau đây
gọi tắt là “Trung tâm”) là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội. Trung tâm có chức năng nuôi dưỡng, chăm
sóc, điều trị, PHCN và hướng nghiệp dạy nghề cho TKT trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Để thực hiện chức năng này, bên cạnh việc chú trọng đến công
tác đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ nhân viên, Trung tâm còn thường
xuyên tổ chức các khóa tập huấn nâng cao kiến thức cho GĐTKT và cán bộ
địa phương về kỹ năng, phương pháp PHCN cho TKT tại cộng đồng.
Phần lớn TKT đang PHCN tại Trung tâm là TKT đặc biệt nặng, dù các
TKT tại Trung tâm đều có gia đình, nhưngcác GĐTKT tại Trung tâm thường
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tham gia vào quá trình PHCN cho TKT.
Từ thực tiễn quá trình PHCN cho TKT tại Trung tâm, chúng tôi nhận
thấy vai trò của GĐTKT rất quan trọng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải

1


làm thế nào để mỗi GĐTKTcó thể giúp đỡ, hỗ trợ cho TKT một cách tốt nhất.
Dù hiện nay, Trung tâm đã tiến hành các hoạt động CTXHđối với GĐTKT,
song thực tế hiệu quảcủa hoạt động này chưa cao. Do vậy, để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm; đồng thời, phát huy tốt hơn nữa vai trò
của gia đình trong quá trình PHCN cho TKT,với mục đích tìm hiểu nhu cầu và
cung cấp các kỹ năng, phương pháp cho các GĐTKT, để phối hợp với
cácGĐTKT thực hiện có hiệu quả quá trình PHCN cho TKT. Chính vì vậy,việc
thực hiện các hoạt động CTXH đối với GĐTKT đang được nuôi dưỡng, chăm
sóc, điều trị, PHCN, giáo dục và hướng nghiệp dạy nghề tại Trung tâm là việc
làm cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc.
Xuất phát từ những lý do cơ bản đó, tôi chọn đề tài: “Công tác xã hội
đối với gia đình trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng
Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ ngành CTXH.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CTXH đối với gia đình và đối với người khuyết tật đã trở thành một
lĩnh vực nổi bật trong thực hành CTXH từ những năm 50 của thế kỷ XX. Kể
từ đó, đã có rất nhiều công trình khoa học được tiến hành nghiên cứu, nhiều
giáo trình và tài liệu tham khảo được xuất bản, đồng thời có nhiều cuộc hội
thảo ở nhiều cấp độ khác nhau được tổ chức. Trong luận văn này, chúng tôi
liệt kê và đánh giá về một số tài liệu đề cập đến lĩnh vực CTXH đối với gia
đình và đối với người khuyết tật có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng
tôi như sau:
Đỗ Hạnh Nga, nghiên cứu chuyên đề về “Những khó khăn của gia đình
có trẻ khuyết tật phát triển và nhu cầu của họ đối với các dịch vụ xã hội”. Tác
giả đã phân tích những khó khăn của gia đình có trẻ khuyết tật và nhu cầu của
họ đối với các dịch vụ xã hội, kết quả khảo sát trên 105 gia đình có con khuyết
tật có dấu hiệu chậm phát triển đang học tại trường chuyên biệt tại thành phố

2


Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy phụ huynh còn thiếu hiểu biết về các dấu hiệu
chậm phát triển của con, thiếu những NVXH hỗ trợ họ trong việc phát hiện
sớm, chẩn đoán đánh giá khuyết tật của con họ cũng như giúp phụ huynh tìm
kiếm các dịch vụ xã hội. Từ đó, đề xuất xây dựng một số công việc mà NVXH
cần thực hiện để hỗ trợ gia đình NKT.
Trước hết là tập bài giảng “Công tác xã hội với cá nhân và gia đình”
do Tôn Nữ Ái Phương biên soạn, Trường Đại học Mở Thành Phố Hồ Chí
Minh xuất bản. Trong tài liệu này, tác giả đã đưa ra khái niệm CTXH với
trường hợp, trong đó có trường hợp của gia đình gặp khó khăn và cần sự giúp
đỡ, các gia đình được xem xét với tư cách là một hệ thống khách hàng. Tuy
nhiên, tài liệu này mới chỉ đề cập đến những vấn đề CTXH với gia đình nói
chung mà chưa đề cập đến các nội dung CTXH với GĐTKT.[37]

Cuốn “Giáo trình Nhập môn công tác xã hội” do tác giả Bùi Thị Xuân
Mai biên soạn được xuất bản năm 2010.Trong giáo trình này, khi bàn về nội
dung CTXH đối với gia đình, tác giả chủ yếu đề cấp đến nội dung phúc lợi gia
đình như một lĩnh vực hoạt động của CTXH có liên quan tới việc hoàn thiện,
tăng cường và ủng hộ gia đình đáp ứng các nhu cầu của họ. Đặc biệt, tác giả
có nói đến các hoạt động của nhân viên CTXH trong việc thực hiện phúc lợi
gia đình bao gồm: giúp gia đình giải quyết vấn đề; huy động các nguồn lực
hiện có và nếu có thể để tạo lập các nguồn lực mà gia đình cần; làm việc với
các cá nhân, nhóm để giúp đỡ gia đình có hiệu quả; thường xuyên đánh giá sự
thích hợp và hiệu quả của các chính sách, chương trình và dịch vụ hiện hành
có liên quan đến gia đình; giám sát các hoạt động khác nhau trong mối quan
hệ với gia đình được phục vụ..[32].
Cuốn tài liệu “Làm việc với cá nhân và gia đình (Công tác xã hội với
cá nhân và gia đình)” của khóa đào tạo CTXH cho các nhà quản lý trong lĩnh
vực CTXH, thuộc Dự án đào tạo CTXH tại Việt Nam do các tổ chức

3


MOLISA - ULSA - CFSI- ASI - AP - UNICEF phối hợp tổ chức năm 2012.
Cuốn tài liệu này có đề cập đến một số vấn đề chung về CTXH với gia đình
mà không đề cập đến CTXH với từng đối tượng gia đình cụ thể, trong đó có
GĐTKT[30].
Trong cuốn sách “Công tác xã hội với người khuyết tật” của PGS. TS
Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát
hành cũng đề cập đến tác động của tình trạng khuyết tật đối với các mối quan
hệ gia đình, đồng thời đưa ra một số cách tiếp cận khi làm việc với
GĐTKT.[16]
Như vậy, nghiên cứu thuộc ngành CTXH về đề tài gia đình và người
khuyết tật đã được thực hiện rất nhiều, trên đây chỉ là một số công trình tiêu

biểu và có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi. Các công trình nghiên
cứu về người khuyết tật chủ yếu đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực
tiễn ngành CTXH với người khuyết tật, về các chính sách của nhà nước đối
với người khuyết tật. Còn các công trình nghiên cứu về CTXH đối với gia
đình lại thường nghiên cứu về những nội dung CTXH đối với gia đình nói
chung. Chưa có công trình nào nghiên cứu về các nội dung CTXH đối với
GĐTKT, đặc biệt là nghiên cứu về các nội dung CTXH đối với GĐTKT từ
thực tiễn một địa phương hay một ngành, một đơn vị nào... với mục đích tác
động vào các GĐTKTbằng các phương pháp CTXH chuyên ngành, để thông
qua các GĐTKT tác động đến quá trình PHCN cho TKT. Do vậy, việc nghiên
cứu về đề tài “Công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật từ thực tiễn
Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” nhằm góp
phần khắc phục khoảng trống trong nghiên cứu về các nội dung CTXH ở
nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4


3.1 Mục đích nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ
thêm những vấn đề lý luận về CTXH đối với GĐTKT, chỉ ra thực trạng
CTXH đối với GĐTKT tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội
hiện nay. Từ đó kiến nghị các định hướng đối với các giải pháp cơ bản trong
CTXH đối với GĐTKT tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:để đạt được các mục đích nghiên cứu đề ra,
luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về CTXH cá nhân đối với GĐTKT.

Hai là, điều tra, khảo sát thực trạng CTXH đối với GĐTKT tại Trung
tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.

Ba là, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện CTXH
đối với GĐTKT tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Bốn là, đưa ra được một số định hướng và các giải pháp cơ bản để nâng
cao hiệu quả các hoạt động CTXH đối với GĐTKT tại Trung tâm PHCN Việt
– Hàn, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về các nội
dung CTXH đối với GĐTKT và các dịch vụ, nhu cầu CTXH đối với GĐTKT
đang được thực hiện tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:Cáccán bộ tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn
và các gia đình có TKT đang tham gia PHCN tại Trung tâm PHCN Việt –
Hàn, thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên các nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản của khoa học xã hội, trong đó đặc biệt tuân thủ
các nguyên tắc phương pháp luận của ngành xã hội học và ngành CTXH làm

5


cơ sở cho việc lựa chọn các phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội
dung của đề tài.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
Phương pháp CTXH với gia đình: được áp dụng để nghiên cứu về
GĐTKT tại Trung tâm, dựa trên các thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết tiếp
cận dựa trên quyền, thuyết hệ thống, các kỹ năng phỏng vấn, tư vấn, thu thập
dữ liệu, đánh giá vấn đề, lắng nghe, thiết lập mối quan hệ, lập kế hoạch…
Phương pháp CTXH với TKT: được sử dụng để tìm hiểu về đặc điểm
khuyết tật, nhu cầu, cách tiếp cận, kỹ năng… trong suốt quá trình nghiên cứu
và làm việc với GĐTKT.

Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng để thu thập và phân tích,
đánh giá về các tài liệu liên quan đến các nội dung của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả xây dựng mẫu phiếu phỏng vấn
sâu dành cho Ban giám đốc Trung tâm để tìm hiểu về thực trạng, những thuận
lợi khó khăn về hoạt động CTXH đối với gia đình mà hiện nay Trung tâm
đang thực hiện, ngoài ra phương pháp này còn đượng sử dụng để thu thập các
thông tin cần thiết về môi trường, hoàn cảnh, đặc điểm đối tượng nghiên cứu,
qua đó thấy được những thuận lợi, khó khăn và nhu cầu của đối tượng nghiên
cứu để có những nhận định và đưa ra những giải pháp phù hợp.
Phương pháp quan sát: được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu
để thu thập những thông tin liên quan đến đề tài, tác giả quan sát những hành
động, hành vi ứng xử và thái độ, cách giao tiếp, nội dung trao đổi của
GĐTKT đối với Trung tâm. Đồng thời quan sát thái độ, phương pháp quản lý,
chăm sóc, PHCN của cán bộ nhân viên.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tác giả xây dựng bộ câu hỏi điều
tra thực trạng với các dạng câu hỏi đóng và câu hỏi mở để điều tra đối với 38
cán bộ Trung tâm và 100 gia đình có con đang PHCN tại Trung tâm nhằm

6


khảo sát về thực trạng CTXH đối với GĐTKT tại Trung tâm hiện nay, cũng
như là những nhu cầu của gia đình cần được Trung tâm đáp ứng.
Phương pháp đàm thoại: Thông qua các cuộc trò chuyện trực tiếp với gia
đình và cán bộ nhân viên Trung tâm để khai thác thông tin, xử lý và phân tích
các thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu góp phần nhận thức đúng về
lợi ích và vai trò của hoạt động CTXH đối với gia đình trong các cơ sở bảo
trợ xã hội từ thực tiễn Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Đồng

thời, góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận trong CTXH đối với
GĐTKT, chỉ ra các yếu tố chi phối CTXH đối với GĐTKT, cũng như làm rõ
thêm các cơ sở pháp lý trong CTXH đối với các GĐTKT.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn:Đề tài đề xuất một số định hướng và giải pháp có
tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả trong CTXH đối với GĐTKT tại Trung
tâm. Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác phối
hợp giữa gia đình và Trung tâm trong quá trình PHCN cho TKT tại Trung tâm
và các đơn vị khác về những vấn đề liên quan.
7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung luận văn được thực hiện trong 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với gia đình trẻ
khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tậttại
Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp về công tác xã hội đối với gia đình
trẻ khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRẺ KHUYẾT TẬT
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Thuyết về nhu cầu của con người
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow - người được xem là “cha
đẻ” của lý thuyết nhu cầu cho rằng, hành vi của con người bắt đầu từ nhu cầu
của họ. Nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các bậc thang khác
nhau và ông chia các nhu cầu đó thành nhu cầu cấp thấp và nhu câu cấp cao.
Nhu cầu cấp thấp: bao gồm các nhu cầu về vật chất (ăn, uống, mặc,

ngủ, nghỉ, đi lại…) và nhu cầu an toàn (không bị đe dọa về sức khỏe, tính
mạng, công việc, gia đình… thể hiện trong cả thể chất và tinh thần).
Nhu cầu cấp cao: bao gồm các nhu cầu về xã hội (nhu cầu về tình yêu
thương, được chấp nhận và được tham gia vào các tổ chức, đoàn thể trong xã
hội) và nhu cầu về tôn trọng, nhu cầu về phát triển (nhu cầu về những giá trị
cá nhân như quyền lực, địa vị, uy tín…).
Theo Maslow, khi con người được thỏa mãn các nhu cầu bậc thấp đến
một giới hạn nhất định sẽ nảy sinh các nhu cầu bậc cao hơn. Đối với các
GĐTKT ở Trung tâm hiện nay, việc đáp ứng các nhu cầu của con em mình là
vấn đề rất được họ quan tâm. Do đó, việc tiếp cận lý thuyết nhu cầu của
Maslow sẽ giúp chúng ta thấy được các gia đình có nhiều cấp bậc nhu cầu
khác nhau do điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình. Trong luận
văn này, tác giả sẽ sử dụng các nội dung cơ bản trong thuyết nhu cầu của
Maslow để tập trung nghiên cứu và tìm hiểu việc đáp ứng các nhu cầu cho
GĐTKT tại Trung tâm hiện nay, đồng thời chỉ ra những nhu cầu của các gia

8


đình chưa được Trung tâm đáp ứng, từ đó đưa ra kế hoạch và giải pháp phù
hợp nhằm đạt được mục đích nghiên cứu.
Hình 1.1: Tháp nhu cầu theo “Lý thuyết nhu cầu” của Maslow

Nhu cầu tự khẳng định
mình
Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu được yêu thương
Nhu cầu được an toàn
Nhu cầu sinh lý, sinh tồn


1.1.2. Lý thuyết về hệ thống
Quan điểm hệ thống cho rằng, hành vi của một đứa trẻ phải được liên
kết với các thành viên khác trong gia đình, các dấu hiệu được xem xét như sự
biểu hiện của các tập hợp thói quen và khuôn mẫu trong nội bộ gia đình. Quan
điểm này dựa trên các nhận định cho rằng, hành vi có vấn đề của thân chủ có
thể: Thứ nhất, dùng để thực hiện một chức năng hoặc mục đích nào đó cho
gia đình. Thứ hai, không có tính chủ định, duy trì trong quá trình của gia đình.
Thứ ba, là một hệ quả khi gia đình gặp bế tắc trong việc vận hành hiệu quả
các chức năng, đặc biệt trong các thời kỳ chuyển tiếp, phát triển. Thứ tư,là
một triệu chứng của sự rối loạn chức năng trong các khuôn mẫu kế thừa qua
các thế hệ.
Do đó, những nỗ lực thay đổi sẽ được tạo điều kiện thuận lợi nhất bằng
cách làm việc với gia đình và xem xét tổng thể các mối quan hệ bên trong.
Việc quan sát sự tương tác của các thành viên trong gia đình cũng như bối
cảnh rộng hơn mà cá nhân đó sinh sống là một điều rất quan trọng.
9


Đối với TKT tại Trung tâm, mặc dù các trẻ được học tập và sinh hoạt
nội trú tại Trung tâm, song các trẻ vẫn chịu nhiều tác động từ phía gia đình và
các thành viên gia đình. Xét đến cùng, gia đình là yếu tố rất quan trọng đối
với hiệu quả của quá trình PHCN cho trẻ. Chính vì vậy, luận văn sẽ sử dụng
lý thuyết hệ thống trên để tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về sự tác động của
gia đình đối với cá nhân TKT. Hoàn cảnh, môi trường sống và sự tham gia
của gia đình tác động đến sự phát triển và PHCN của trẻ như thế nào.
1.1.3. Thuyết tiếp cận dựa trên quyền
Thuyết có chứa đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ
thống quyền con người trong quá trình lập kế hoạch, cũng như tiến trình thực
hiện các hoạt động CTXH. Thuyết lấy quyền con người là trục xoay để giải
quyết vấn đề của thân chủ nhằm đảm bảo an sinh cho họ, hướng tới các giải

pháp mang tính bền vững. Cách tiếp cận này cho thấy rõ chủ thể mang quyền
và chủ thể nghĩa vụ, trong đó chủ thể mang quyền là cá nhân hay một nhóm
còn chủ thể nghĩa vụ là Chính phủ, Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thuyết
đặt ra câu hỏi về hành động và trách nhiệm của chủ thể nghĩa vụ đối với chủ
thể mang quyền.
Theo cách tiếp cận này, TKT cũng có các quyền như những trẻ em bình
thường trong xã hội. Do đó, Chính phủ phải có trách nhiệm thực thi, đảm bảo
các quyền cho TKT để họ trở thành những tác nhân có ích cho sự phát triển
xã hội chứ không phải là dân số lệ thuộc. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không
tuyệt đối hóa quyền mà lãng quên đi nghĩa vụ mà quyền và trách nhiệm phải
đi đôi với nhau, không có yếu tố nào quan trọng hơn yếu tố nào.
Phần lớn TKT tại Trung tâm thuộc mức độ khuyết tật đặc biệt nặng, các
em gặp nhiều khó khăn trong nhận thức về quyền của mình. Tuy nhiên, các
em còn có gia đình và gia đình sẽ cùng với Trung tâm đem lại cho các em
quyền lợi chính đáng mà các em được hưởng. Vận dụng lý thuyết này trong

10


quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ làm rõ vai trò của nhân viên CTXH với
tư cách là người biện hộ cho đối tượng khi đối tượng đã hoặc chưa nhận thức
được về quyền của họ. Theo nghĩa đó, nhân viên CTXH là người kết nối giữa
chủ thể mang quyền và chủ thể nghĩa vụ, là người đại diện khi chủ thể mang
quyền chưa ý thức được về quyền của họ và chủ thể nghĩa vụ chưa đáp ứng
được quyền cho đối tượng.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm gia đình, trẻ khuyết tật và gia đình trẻ khuyết tật
1.2.1.1. Khái niệm gia đình
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về gia đình được tiếp cận từ những
góc độ khác nhau. Trong luận văn này, chúng tôi liệt kê một số khái niệm

điển hình và có liên quan đến đề tài nghiên cứu của chúng tôi như sau.
Theo Từ điển Xã hội học của Pháp (1973): “Gia đình là nhóm người
gắn bó với nhau bằng mối liên hệ hôn nhân, huyết thống hay việc nhận nuôi
con nuôi, có tác động qua lại giữa vợ và chồng, giữa bố và mẹ, giữa cha mẹ
và con cái, giữa anh chị em và họ hàng xa”.
Tác giả Mai Bích Loan (2000) đưa ra một khái niệm tổng quát về gia
đình như sau: “Gia đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội
hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân(quan hệ tính giao và quan hệ tình
cảm), và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân(cha, mẹ, con cái,
ông bà, họ hàng nội ngoại)”.
Theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau”.
Trong luận văn này, gia đình được hiểu là những người gắn bó với
nhau trong các mối quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, các thành viên
trong gia đình có trách nhiệm, nghĩa vụ với nhau.

11


1.2.1.2. Khái niệm trẻ khuyết tật, phân loại trẻ khuyết tật, mức độ khuyết tật
- Về khái niệm trẻ khuyết tật
Theo Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO):“TKT là những trẻ có thiếu hụt
cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng dẫn đến những hạn chế nhất
định trong hoạt động của cá nhân và gặp khó khăn, trở ngại (do môi trường
sống đem lại) trong việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả mọi hoạt động trong
xã ội - cộng đồng”.
Theo Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật của Việt Nam năm 1998:“Trẻ tàn
tật là những trẻ từ 0-18 tuổi, không phân biệt nguồn gốc gây ra khuyết tật,
thiếu một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới

những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Theo quan điểm giáo dục: TKT là nhóm trẻ bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể, giác quan (thể chất) hoặc chức năng (tinh thần), biểu
hiện dưới nhiều dạng khác nhau, làm suy giảm khả năng lao động khiến cho
trẻ gặp nhiều khó khăn trong lao động, sinh hoạt, học tập, vui chơi.
- Về các dạng khuyết tật
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã phân loại TKT thành 08 dạng khuyết
tật như: (1) khó khăn về vận động; (2) khó khăn về nhìn; (3) khó khăn về
nghe – nói; (4) khó khăn về học; (5) hành vi xa lạ, khác thường; (6) động
kinh; (7) mất cảm giác; (8) đa tật. Còn theo cách phân loại theo Hội đồng
giáo dục Hoa kỳ (Luật IDEA năm 1997), TKT được phân thành 13 dạng
khuyết tật bao gồm: (1) tự kỷ, (2) điếc mù, (3) điếc, (4) rối loạn cảm xúc, (5)
khiếm thính, (6) chậm phát triển trí tuệ, (7) đa tật, (8) khuyết tật thể chất, (9)
khuyết tật sức khoẻ, (10) khó khăn về học, (11) khuyết tật ngôn ngữ, (12)
tổn thương não, (13) khiếm thị. Ở Việt Nam, theo Luật Người khuyết tật
năm 2010, TKT được phân thành 06 dạng khuyết tật như sau: (1)Khuyết tật

12


vận động, (2) Khuyết tật nghe, nói, (3) Khuyết tật nhìn, (4) Khuyết tật thần
kinh, tâm thần, (5) Khuyết tật trí tuệ, (6) Khuyết tật khác.
- Về mức độ khuyết tật
Theo điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính
phủ, về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người
khuyết tật, có 3 mức độ khuyết tật: Một là,khuyết tật đặc biệt nặng: những trẻ
do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc
không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và
những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có

người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Hai là, khuyết tật nặng: bao
gồm những trẻ do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng,
không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại,
mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt
cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Ba là,
khuyết tật nhẹ: gồm những TKT không thuộc các trường hợp được quy đinh
tại hai mức độ trên.
1.2.1.3. Khái niệm gia đình trẻ khuyết tật
Dựa trên các khái niệm công cụ đã nêu trên, trong luận văn này có thể
hiểu rằng, “gia đình trẻ khuyết tật” là gia đình có ít nhất một trẻ bị mắc phải
các dạng tật kể trên. Do đặc điểm của TKT, trách nhiệm, vai trò, chức năng
của GĐTKT có nhiều thay đổi lớn so với gia đình không có TKT.
1.2.2. Khái niệm công tác xã hội, công tác xã hội với gia đình và công
tác xã hội với gia đình trẻ khuyết tật
1.2.2.1. Khái niệm công tác xã hội
Đã có rất nhiều khái niệm được đưa ra để định nghĩa về CTXH, chúng
tôi liệt kê ra đây một số khái niệm tiêu biểu, được nhiều người thừa nhận và
có liên quan mật thiết đến đề tài của chúng tôi, cụ thể là:

13


Năm 1970, Hiệp hội các nhân viên xã hội Mỹ (NASW) đã đưa ra khái
niệm: “CTXH là một hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những
cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn cảnh khó khăn để họ tự PHCN xã hội
và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được mục đích cá nhân”.
Đến năm 2000, Hiệp hội Nhân viên xã hội quốc tế (IFSW) định nghĩa:
“CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết vấn đề
trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng người
dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng

các lý thuyết về hành vi và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở các điểm
tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã
hội là các nguyên tắc căn bản của nghề CTXH”.
Năm 2010, trong công trình nghiên cứu: “Công tác xã hội - Lý thuyết
và thực hành”, tác giả Trần Đình Tuấn đã định nghĩa:“CTXH là một nghề,
một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng
đồng nâng cao năng lực, đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ
nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề
xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội” [48, tr.19].
Như vậy, từ các quan niệm trên có thể khẳng định: CTXH là một nghề,
một hoạt động chuyên nghiệp, một khoa học thực hiện nhiệm vụ chức năng xã
hội giao phó và được xã hội thừa nhận. Các chính sách, chương trình và dịch
vụ CTXH được triển khai bởi bộ máy tổ chức theo một ngành dọc và liên
ngành. Bên cạnh đó, CTXH được thực hiện trên một nền tảng hệ giá trị,
nguyên tắc, yêu cầu nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Đồng thời,
CTXH còn là một ngành khoa học, bao gồm hệ thống kiến thức lý thuyết và
kỹ năng thực hành được đào tạo ở nhiều trình độ khác nhau.
1.2.2.2. Khái niệm công tác xã hội với gia đình

14


CTXH với gia đình là cách tiếp cận nhằm giúp đỡ những gia đình có khó
khăn trong việc duy trì cuộc sống sinh hoạt bình thường hoặc có nguy cơ rơi vào
tình trạng không thể duy trì hoạt động bình thường. CTXH với gia đình đưa ra
nhiều loại chương trình khác nhau như dịch vụ duy trì gia đình, hỗ trợ gia đình
tại nhà, hướng dẫn gia đình về các mô hình gia đình. [xem 30, tr 77].
Mục đích của CTXH với gia đình là giúp các thành viên gia đình học
cách thực hiện chức năng của mình để đáp ứng các nhu cầu về phát triển và

tình cảm cho tất cả các thành viên trong gia đình (Colins, Jordan, Coleman,
2007). Các mục tiêu cụ thể trong CTXH với gia đình hướng tới bao gồm: Một
là, Tăng cường sức mạnh của gia đình để mọi người sẵn sàng cho những thay
đổi tốt hơn. Hai là, Cung cấp thêm những can thiệp gia đình để gia đình duy
trì thực hiện chức năng một cách hiệu quả. Ba là, Tạo ra những thay đổi cụ
thể trong việc thực hiện chức năng của gia đình nhằm duy trì hoạt động để
đảm bảo tốt cuộc sống hàng ngày.[xem 30, tr 77].
1.2.2.3. Khái niệm công tác xã hội đối với gia đình trẻ khuyết tật
Có thể thấy rằng, CTXH đối với GĐTKT là một lĩnh vực đặc thù trong
CTXH đối với gia đình nói chung. Trên cơ sở các khái niệm về CTXH,
CTXH đối với gia đình và khái niệm TKT, GĐTKT, có thể hiểu CTXH đối
với GĐTKT là quá trình nhân viên xã hội sử dụng phương pháp CTXH đối
với gia đình để tác động lên nhóm đối tượng là GĐTKT có khó khăn trong
cuộc sống do khuyết tật của con mình mang lại. Thông qua tiến trình trợ giúp
đó nhân viên xã hội sẽ đưa ra nhiều loại chương trình khác nhau để hỗ trợ gia
đình vượt qua những khó khăn mà họ đang gặp phải.
Mục đích của CTXH đối với GĐTKT:Một là, giúp các GĐTKT ngăn
ngừa hoặc cải thiện những vấn đề khó khăn của họ, những khó khăn này có
thể do họ không thể thích nghi được với hoàn cảnh sống khi có con bị khuyết
tật, hoặc trong quan hệ của họ với các thành viên trong gia đình và những

15


người xung quanh. Hai là, giúp phát huy được những tiềm năng của gia đình và
tận dụng được những nguồn hỗ trợ từ các nhóm phù hợp và từ cộng đồng để
phát triển cuộc sống của họ và giải quyết khó khăn do khuyết tật của trẻ gây ra.
Đặc điểm của CTXH đối với GĐTKT: CTXH đối với GĐTKT là một
quá trình tổng hợp nhiều phương pháp, kỹ năng và các lý thuyết CTXH trong
quá trình giúp đỡ GĐTKT giải quyết vấn đề của họ và để tạo ra những thay

đổi trong môi trường theo hướng có lợi cho khả năng thích nghi của GĐTKT.
Đặc biệt là tập trung vào xem xét các khả năng của gia đình trong việc huy
động mọi nguồn lực để tham gia vào công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và
PHCN cho TKT.
1.2.3. Các nguyên tắc và ý nghĩa của công tác xã hội đối với gia đình
trẻ khuyết tật
Một là, công nhận sự tự quyết của GĐTKT: họ sẽ tự quyết định mọi
vấn đề liên quan đến TKT, chúng ta không được lấy đi quyền tự quyết của gia
đình hay áp đặt họ. Điều này có thể phá vỡ mối quan hệ giữa nhân viên
CTXH với GĐTKT, cũng như có thể làm suy giảm hiệu quả giải quyết vấn đề
của GĐTKT và sự thực hiện chức năng của gia đình đối với TKT. Tuy nhiên,
một số gia đình gặp khó khăn trong việc tự đưa ra quyết định thì nhân viên
CTXH cần hướng dẫn và giúp đỡ để họ có thể tự đưa ra quyết định. Tôn trọng
quyền tự quyết của gia đình cũng là cách khuyến khích các gia đình tham gia
tích cực và thể hiện trách nhiệm trong quá trình PHCN cho TKT.
Hai là, tôn trọng hoàn cảnh và đặc điểm của GĐTKT: chấp nhận và
xem sự khác biệt của các GĐTKT với mọi phẩm chất tốt và xấu, những điểm
mạnh và những điểm yếu mà không có sự phán xét đến các hành vi của họ là
đúng hay sai hoặc không có một điều kiện nào cả. Điều này thể hiện sự tôn
trọng những giá trị của GĐTKT bất kể địa vị xã hội, thành phần xuất thân
hoặc hành vi của họ như thế nào. Chính sự khác biệt và tính độc đáo của mỗi

16


gia đình sẽ tạo nên thế mạnh cho họ trong việc thực hiện các vai trò và chức
năng của gia đình đối với TKT.
Ba là,thái độ không phán xét: Thể hiện qua việc không tỏ vẻ bất bình,
buộc tội hoặc đưa ra những lời phê phán về GĐTKT. Việc giữ quan điểm
trung lập, không phê phán này sẽ giúp cho nhân viên CTXH tạo được niềm

tin ở GĐTKT để họ cảm thấy thoải mái, tin tưởng khi bày tỏ những vấn đề và
nhu cầu của họ trong quá trình PHCN cho TKT.
Bốn là, khuyến khích gia đình tham gia vào quá trình PHCN cho TKT:
gia đình sẽ cảm thấy tự tin khi được khuyến khích hoặc hướng dẫn để đưa ra
những quyết định liên quan đến quá trình PHCN của TKT. Không ai có thể
hiểu được trẻ khuyết tật, đặc điểm và nhu cầu của con họ bằng họ. Chính vì
vậy, việc khuyến khích gia đình tham gia vào quá trình PHCN cho TKT sẽ
giúp cho nhân viên CTXH có những đánh giá đúng đắn về TKT và GĐTKT,
từ đó có thể đưa ra những biện pháp giải quyết phù hợp với nhu cầu và hoàn
cảnh của từng gia đình.
Năm là, bảo vệ bí mật GĐTKT: Đây là yêu cầu đạo đức đối với nghề
CTXH, phải tôn trọng và bảo vệ bí mật tuyệt đối tất cả nhũng thông tin liên
quan đến GĐTKT trong suốt quá trình làm việc với họ. Những thông tin của
GĐTKT chỉ có thể chia sẻ với những người có liên quan trong quá trình giải
quyết vấn đề với điều kiện GĐTKT đã được thông báo, được giải thích và
hiểu rõ lí do tại sao phải chia sẻ thông tin và GĐTKT đã đồng ý với việc đó.
Sáu là, can thiệp và giúp đỡ có kiểm soát: Trong suốt quá trình hỗ trợ
nhân viên CTXH phải thiết lập được mối quan hệ tốt với GĐTKT để có thể tạo
được niềm tin của gia đình, từ đó GĐTKT mới cảm thấy tự tin và thoải mái khi
trình bày vấn đề của mình. Nhân viên CTXH có thể đặt mình vào vị trí của
từng GĐTKT để có thể hiểu được cảm xúc, hành vi và nhu cầu của họ. Điều
này không có nghĩa là nhân viên CTXH sẽ chia sẻ và đồng cảm với những cảm

17


xúc đó mà cần phải giữ một khoảng cách để có thể nhận định khách quan về
GĐTKT. Do vậy, mối quan hệ giữa nhân viên CTXH và GĐTKT phải được
xây dựng trên cơ sở quan hệ nghề nghiệp và nhân viên CTXH phải biết cách tự
kiểm soát cảm xúc của mình trong quá trình hỗ trợ GĐTKT.

1.3. Cơ sở pháp lý trong công tác xã hội đối với gia đình trẻ
khuyết tật
1.3.1. Đối với gia đình
Tại điều 2, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong quy định về
những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình có ghi: “Nhà nước,
xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người
khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình”.Cũng trong luật này,
điều 69 khẳng định cha mẹ và các thành viên gia đình có trách nhiệm “Trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình… không được lạm dụng
sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động”.[40]
Cụ thể hơn đối với gia đình người khuyết tật, trong Luật Người khuyết
tật năm 2010 cũng quy định rõ về gia đìnhngười khuyết tật có trách nhiệm: a)
Bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật; b) Tạo điều kiện để người
khuyết tật được chăm sóc sức khỏe và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; c)
Tôn trọng ý kiến của người khuyết tật trong việc quyết định những vấn đề liên
quan đến cuộc sống của bản thân người khuyết tật và gia đình.[39]
Liên quan đến vấn đề này, tại Điều 25 Luật Người khuyết tật năm 2010
quy định về việc PHCN dựa vào cộng đồng cũng quy định rõ trách nhiệm của
GĐTKT, cụ thể là: Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là biện pháp thực
hiện tại cộng đồng nhằm chuyển giao kiến thức về vấn đề khuyết tật, kỹ năng

18


phục hồi và thái độ tích cực đến người khuyết tật, gia đình của họ và cộng
đồng nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội và hòa nhập cộng đồng cho người
khuyết tật. Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để

người khuyết tật PHCN dựa vào cộng đồng.[39]
1.3.2. Đối với trẻ khuyết tật
Năm 1990 Việt Nam đã phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em,
một năm sau Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành, đến
năm 2004 luật này được sửa đổi bổ sung nhằm thể chế hóa việc thực hiện các
quyền của trẻ em tại Việt Nam, trong đó có nhiều quy định cụ thể về những
chính sách đối với TKT. Cụ thể là tại điều 25 của luật này có viết: “Trẻ em
khuyết tật, tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học được gia đình,
Nhà nước và xã hội giúp đỡ, chăm sóc, được tạo điều kiện để sớm phát hiện
bệnh, chữa bệnh, PHCN; được nhận vào các lớp học hoà nhập, lớp học dành
cho trẻ em khuyết tật, tàn tật; được giúp đỡ học văn hoá, học nghề và tham
gia hoạt động xã hội”.[38]
Về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật, được quy định tại điều 4
Luật Người khuyết tật năm 2010, trong đó ghi rõ người khuyết tật được bảo
đảm thực hiện các quyền sau đây: Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã
hội; Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; Được miễn hoặc giảm một số khoản
đóng góp cho các hoạt động xã hội; Được chăm sóc sức khỏe, PHCN, học văn
hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng,
phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch
và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật. Cũng trong luật
này, tại điều 5 “Chính sách của Nhà nước về người khuyết tật” đã khẳng định:
Hàng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về người khuyết
tật. Phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương
tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật. Bảo trợ xã hội; trợ giúp người

19


khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể
thao, giải trí, tiếp cận công trình công cộng và công nghệ thông tin, tham gia

giao thông; ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật
là trẻ em, người cao tuổi. Lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính
sách phát triển kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh
hình, PHCN; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng. Đào tạo,
bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc người khuyết tật. Khuyến khích
hoạt động trợ giúp người khuyết tật. Tạo điều kiện để tổ chức của người khuyết
tật, tổ chức vì người khuyết tật hoạt động.[38]
1.3.3. Một số chính sách pháp luật cụ thể
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính
phủ quy định mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng yếu thế trong đó có trẻ tàn
tật, trẻ là nạn nhân của chất độc hóa học…[4]
Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 25/03/2010 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt đề án nghề CTXH.[5]
Quyết định số 267/QĐ-TTg ngày 22/02/2011 của Thủ tướng chính phủ
phê Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015.[6]
Nghị định số 71/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011 thay thế Nghị định số
36/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.[7]
Quyết định 1215/QĐ-TTg: Phê duyệt đề án trợ giúp xã hội và PHCN
cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn
2011 – 2020[9]
Có thể khẳng định, đây là nhữngcơ sở pháp lý quan trọng trong CTXH
đối với TKT và GĐTKT ở nước ta hiện nay. Tại Trung tâm, những cơ sở
pháp lý trên đã được vận dụng cho TKT và GĐTKT được hưởng các quyền
lợi như được tạo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và PHCN, tôn trọng TKT và

20



×