Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN đổi mới KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực của học SINH môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.1 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
TRONG MÔN NGỮ VĂN

Học viên: Bạch Thị Thơm
Lớp: Lý luận và phương pháp dạy học Ngữ Văn
Môn học: Lý luận và công nghệ dạy học
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Ngọc Bích

Hà Nội 06/2016


MỞ ĐẦU
Ngày 04 tháng 11 năm 2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các vấn đề đổi mới được nêu rõ một
cách ngắn gọn, toàn diện, trong đó có Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học
tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông. Có thể nói: Để phát huy tính tích cực,
chủ động, độc lập suy nghĩ của học sinh thì việc làm cấp bách hiện nay là phải đổi
mới khâu ra đề, kiểm tra đánh giá năng lực học của học sinh. Trên tinh thần đó, bài
viết dưới đây sẽ nghiên cứu tập trung vấn đề Đánh giá thực tiễn đổi mới ra đề kiểm
tra theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong môn Ngữ văn. Bài viết sẽ
nghiên cứu thực tiễn và đề xuất một số định hướng đổi mới phương thức kiểm tra
đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát
triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi/kiểm tra và đáp án theo
hướng mở; tích hợp kiến thức liên môn; giải quyết vấn đề thực tiễn.




NỘI DUNG
1. Đánh giá thực tiễn
1.1.

Năng lực Ngữ văn của học sinh Phổ thông

Năng lực Ngữ Văn của học sinh Phổ thông bao gồm:
-

Năng lực chung - năng lực giao tiếp: chia làm các kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết, quan sát, trình bày…

-

Các năng lực chuyên biệt như: cảm thụ văn học, sáng tác văn học.

Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn cần hướng tới các năng lực đặc
thù do môn học đảm nhận đó là:
- Năng lực tiếp nhận văn bản: gồm các kĩ năng nghe và đọc.
- Năng lực tạo lập văn bản: gồm các kĩ năng nói và viết.
1.2. Hiện trạng đổi mới đánh giá năng lực môn Ngữ văn
Lâu nay việc Kiểm tra đánh giá đối với học sinh THCS còn nhiều bất cập.
Hầu hết các trường THCS vẫn chủ yếu dựa vào kết quả của các bài kiểm tra 1 tiết,
học kì, thi tuyển sinh vào 10… vẫn phụ thuộc nhiều vào cách đánh giá chủ quan và
cảm tính của giáo viên…
Nội dung kiểm tra vẫn thiên về học thuộc lòng văn bản, ghi nhớ máy móc
một nội dung nào đó của văn bản, kiểm tra trí nhớ là chính. Việc kiểm tra đánh giá
đó theo hướng cung cấp nội dung nên kết quả là học sinh tập trung học thuộc lòng

hoặc sưu tầm chép những bài văn mẫu.
Để khắc phục tình trạng trên, tránh sự khuôn mẫu và để phát huy tính tích
cực, chủ động, độc lập suy nghĩ của học sinh thì việc làm cấp bách hiện nay là phải
đổi mới khâu ra đề, kiểm tra đánh giá năng lực học của học sinh.


Đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực cần xác định được khả năng vận
dụng tổng hợp những gì đã học của học sinh vào việc giải quyết những tình huống
mới.
Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy móc,
nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà coi trọng ý kiến và cách giải
quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy nghĩ sáng tạo, mới
mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập luận
giàu sức thuyết phục…
Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và mức độ
phù hợp với năng lực của học sinh, phù hợp với nội dung, chương trình giáo dục
Trung học.
2. Mục tiêu giáo dục của môn Ngữ Văn
- Giúp HS phát triển năng lực giao tiếp ngôn ngữ ở tất cả các hình thức: đọc,
viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt chính xác, mạch
lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong nhiều ngữ cảnh
đa dạng. Ngoài ra, môn Ngữ văn cũng chú ý giúp HS phát triển năng lực giao tiếp
bằng các phương tiện nghe nhìn hay phương tiện phi ngôn ngữ (tranh ảnh, biểu đồ,
phim,…).
- Thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, giúp HS phát triển năng lực thẩm
mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt; giúp HS biết đọc và có
hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có hứng thú viết, thảo
luận về các tác phẩm văn học, nhờ đó các em có cơ hội khám phá bản thân và thế
giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú,

có quan niệm sống và ứng xử nhân văn.


- Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện,
biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận;
giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập,
năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng.
- Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp
tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học
được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc
nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể
tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc
sống và công việc.
- Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng Việt
và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa.
Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời sống
xã hội.
- Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và văn
học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; có
thói quen và niềm vui đọc sách; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân toàn cầu, nhưng luôn
có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Lên bậc trung học phổ thông, môn Ngữ văn còn có thêm mục tiêu trang bị kiến
thức và kĩ năng theo định hướng nghề nghiệp của HS. Chẳng hạn, những HS có xu
hướng học đại học những ngành nghề có liên quan trực tiếp đến Ngữ văn thì được
học sâu hơn dưới hình thức các phân môn/chuyên đề tự chọn.


3. Đề xuất đề kiểm tra để đánh giá năng lực Ngữ văn của HS Phổ thông
3.1. Hình thức đánh giá và các loại bài kiểm tra/thi:

- Hình thức đánh giá: kiểm tra miệng, kiểm tra viết.
- Các loại đánh giá:
+ Đánh giá thường xuyên: kiểm tra miệng; kiểm tra dưới 1 tiết.
+ Đánh giá định kì: kiểm tra viết từ 1 tiết trở lên; kiểm tra học kì.
3.2. Đề xuất đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn Phổ thông
theo hướng đánh giá năng lực
a. Đánh giá thường xuyên:
- Kiểm tra miệng (về các bài đọc hiểu VB là chính): Hiện nay không có quy định
cụ thể về cách kiểm tra miệng, song không nên kiểm tra học thuộc lòng VB, ghi
nhớ máy móc một nội dung nào đó của VB mà nên yêu cầu HS hiểu và lí giải một
khía cạnh nào đó của VB dưới hình thức nói/trình bày miệng.
- Kiểm tra dưới 1 tiết (thường là kiểm tra 15 phút): Cũng như kiểm tra miệng, hiện
nay không có quy định cụ thể về cách kiểm tra dưới 1 tiết, song không nên kiểm tra
học thuộc lòng VB, ghi nhớ máy móc một nội dung nào đó của VB mà nên yêu cầu
HS hiểu và lí giải một khía cạnh nào đó của VB dưới hình thức viết; yêu cầu HS
tạo lập các VB ngắn hoặc đoạn văn; lập dàn ý cho một đề văn...
- Kiểm tra từ 1 tiết trở lên (45 phút – 90 phút): dưới dạng Trắc nghiệm kết hợp với
Tự luận hoặc Tự luận, ở các mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng; yêu cầu
HS tạo lập VB (tự sự, thuyết minh, nghị luận…) về một vấn đề văn học hoặc đời
sống; phạm vi kiến thức và kĩ năng kiểm tra hẹp (sau một cụm bài, một chương);
nên chia thành các câu nhỏ với độ khó và biểu điểm khác nhau; khuyến khích ra đề
mở.


b. Thi tuyển sinh vào 10:
Do hạn chế của CT, SGK và cách thi tuyển sinh vào lớp 10 hiện hành, nếu chuyển
hẳn sang đánh giá năng lực Ngữ văn sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực. Vì thế,
cần cải tiến đề thi của những năm trước theo hướng không yêu cầu HS ghi nhớ
máy móc, học thuộc lòng, chuyển sang yêu cầu HS hiểu và vận dụng những kiến
thức và kĩ năng đã học để làm bài.

- Năng lực đọc hiểu:
+ Kiểm tra kiến thức về tiếng Việt: phát hiện những sai sót về chính tả, ngữ pháp,
chấm câu, dùng từ, logic... chẳng hạn cho một đoạn văn có nhiều sai sót và yêu cầu
HS phát hiện những sai sót trong đoạn văn đó.
+ Yêu cầu tóm tắt ý chính của một đoạn văn bản cho trước. Các văn bản/ngữ liệu
dùng để đọc hiểu có thể là những văn bản quen thuộc, đã được học cũng có thể là
những văn bản mới (có tính chất tương đương về kiểu loại, phù hợp, thiết thực với
người đọc…)
+ Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của biện pháp đó trong một
đoạn thơ/ văn cho sẵn
- Năng lực viết
+ Viết nghị luận xã hội: yêu cầu tích hợp các kiến thức lịch sử, địa lý, đạo đức, văn
hóa… ra theo dạng đề mở và đáp án mở.
+ Viết nghị luận văn học: yêu cầu phân hóa cao hướng tới thi tuyển sinh vào lớp
10. Đề yêu cầu vận dụng sáng tạo những hiểu biết về kiến thức và kĩ năng văn học
để thực hành, phân tích, đánh giá, bình luận, bác bỏ một vấn đề văn học, một văn
bản, trích đoạn chưa được học trong SGK hiện hành.


Lưu ý: Do đặc thù môn học, nên đối với môn Ngữ văn một trong những nội dung
rất quan trọng mà việc đánh giá cần hướng tới là năng lực sử dụng tiếng Việt của
học sinh trong tư duy và giao tiếp. Năng lực này chỉ có thể được bộc lộ qua việc
trình bày bằng ngôn ngữ (nói và viết). Vì thế, việc yêu cầu học sinh thực hiện
những câu hỏi tự luận vẫn là một cách ra đề hiệu quả và phổ biến hiện nay.
+ Theo xu thế đánh giá mới hiện nay trong môn học Ngữ văn, với câu hỏi tự luận
không nên yêu cầu học sinh viết dài mà viết có giới hạn về dung lượng.
+ Cần chú ý tới kiểu câu hỏi vừa khai thác được những kiến thức ở các phân môn
khác nhau vừa kiểm tra được năng lực cảm thụ văn bản và các kĩ năng khi làm văn
để thực hiện tốt yêu cầu tích hợp của chương trình.
+ Cần đa dạng hóa cách ra đề tự luận như: trả lời ngắn, viết đoạn văn, xây dựng

một cuộc thoại, chữa lỗi câu, phân tích tác dụng của biện pháp tu từ bên cạnh yêu
cầu viết một bài văn hoàn chỉnh.
c. Xây dựng hướng dẫn chấm: Đây là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình
xây dựng đề kiểm tra, đề tuyển sinh lớp 10 môn Ngữ văn.
Khác với môn Toán, việc xây dựng hướng dẫn chấm của môn Ngữ văn phức tạp,
khó khăn hơn rất nhiều. Nó vừa đòi hỏi sự chi tiết, cụ thể để chính xác hóa mức độ
đạt được trong phần trả lời của học sinh vừa đòi hỏi độ mở cần thiết để đánh giá
được những sáng tạo bất ngờ của học sinh trong việc thực hiện các yêu cầu của đề
chứ không nên bó buộc cứng nhắc vào một cách làm bài nhất định (vì đặc trưng
của môn Văn còn mang tính nghệ thuật).
Có như vậy mới khuyến khích được những suy nghĩ , những tìm tòi riêng, hạn chế
được kiểu làm bài học vẹt hay sao chép theo khuôn mẫu sáo mòn.


+ Năng lực đọc- hiểu: Vận dụng cách đánh giá của PISA để thiết kế câu hỏi đánh
giá năng lực Đọc hiểu của học sinh trong dạy học. Có 2 dạng câu hỏi: Trắc nghiệm
khách quan (TNKQ) và Trắc nghiệm tự luận (TNTL). TNKQ sử dụng loại câu hỏi
có nhiều lựa chọn và chỉ một phương án đúng. TNTL sử dụng loại câu hỏi mở,
phải viết câu hỏi ngắn theo suy luận của học sinh.
+ Năng lực viết: Trong chương trình đánh giá quốc gia ở Việt Nam những năm gần
đây, việc xây dựng hướng dẫn chấm đã có những đổi mới đáng kể.
Hướng dẫn chấm bài luận thường được chia thành các phương diện cụ thể để đánh
giá như: Hình thức trình bày, cách lập luận, tính sáng tạo, phần nội dung được chia
ra các ý nhỏ, mỗi ý lại được mã hóa theo các mức độ khác nhau (tối đa và chưa tối
đa).
Nên xây dựng Rubric để chấm bài kiểm tra, thi tuyển sinh vào 10 đối với việc kiểm
tra năng lực viết của học sinh.
~ Rubric là một tập hợp các quy tắc nhằm giúp đưa ra những đánh giá về học sinh
thông qua những minh chứng có được từ kết quả học tập của học sinh thể hiện ở
các bài kiểm tra, thi hoặc ở phần đánh giá chung.

~ Mỗi một bài thi phải có rubric để có thể có cơ sở đưa ra những quyết định hợp lý
và tin cậy về kết quả học tập của học sinh. Rubric còn được sử dụng khi cần giải
thích rõ cho học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh và những người khác về chuẩn
quy định cho các mức điểm khác nhau.
~ Giáo viên có thể sử dụng Rubric như là một công cụ để thiết lập mối liên hệ giữa
việc đánh giá, phản hồi và quá trình dạy học.


Rubric cũng mang lại những thông tin đầy đủ nhất để chuyển đến học sinh, phụ
huynh học sinh và giáo viên về kết quả học tập của học sinh và giúp giáo viên điều
chỉnh hoạt động dạy học của mình theo hướng hiệu quả hơn.
~ Với Rubric, giáo viên có thể đánh giá được những kiến thức mà học sinh nắm
được đối với bộ môn và những năng lực/phẩm chất cụ thể.
~ Rubric có nhiều cách thể hiện, song cách rõ ràng, dễ vận dụng và hiệu quả là
trình bày dưới dạng bảng (ma trận 2 chiều). Bảng mẫu thiết kế Rubric sẽ tương tự
như bảng dưới đây.
Câu hỏi
Mức độ kết quả bài thi
Mức đầy đủ
Mức chưa đầy đủ
Không đạt
Câu hỏi 1
Tiêu chí ………
Điểm…
Tiêu chí ………
Điểm…
Tiêu chí ………
Điểm…
Câu hỏi 2
Tiêu chí ………



Điểm…
Tiêu chí ………
Điểm…
Tiêu chí ………
Điểm…
…………
……
……
……


KẾT LUẬN SƯ PHẠM
Như vậy, trong phạm vi ngắn gọn, bài tiểu luận đã nghiên cứu một số vấn đề
cơ bản:
- Đánh giá thực tiễn đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực
trong môn Ngữ văn hiện nay nhằm có một cái nhìn toàn diện, sát thực hơn
khi xem xét vấn đề.
- Nghiên cứu mục tiêu giáo dục đối với môn Ngữ Văn nhằm đưa ra định
hướng đánh giá phù hợp với mục tiêu môn học, phù hợp với chuẩn đầu ra.
- Đề xuất một số định hướng ra đề kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển
năng lực đối với môn Ngữ Văn.
Tuy nhiên, kiểm tra đánh giá là khâu hết sức quan trọng nên cần lưu ý thêm một
số vấn đề sau:
- Cần kết hợp nhiều kiểu, hình thức đánh giá khác nhau, từ đánh giá theo kiểu tự
luận, trắc nghiệm khách quan, đến đánh giá dựa trên kết quả thảo luận, trình bày
trong lớp học và bài tập lớn (dự án); từ đánh giá thường xuyên, đánh giá trong quá
trình học, diễn ra hằng ngày khi HS trả lời câu hỏi, khi GV quan sát HS làm bài
tập, sửa bài viết, khi HS trình bày, thể hiện sản phẩm tự mình viết ra, làm ra (tác

phẩm văn học (thơ, truyện, kịch,…), tranh vẽ, bài đọc sách, bài thuyết trình, bài
nghiên cứu,….) đến đánh giá định kì, cuối kì bằng các bài kiểm tra (15 phút, 1
tiết,…) và bài thi (học kì, cuối năm); từ đánh giá của GV đến HS tự đánh giá mình
và đánh giá nhau. Cần chú ý tăng cường hình thức HS tự đánh giá mình và đánh
giá nhau, vì đó là những hình thức đánh giá có tác dụng rất tích cực đến quá trình
dạy học, nhưng lâu nay chưa được khai thác. Việc HS tự đánh giá nhau, nghĩa là
những người có trình độ gần nhau đánh giá nhau, giúp cho các em biết cách tự
đánh giá mình một cách khách quan. Những hình thức đánh giá này giúp HS được


tham gia trực tiếp vào quá trình đánh giá, nhờ đó các em trở nên tự tin, tự chủ và
tích cực hơn trong quá trình học tập và chiếm lĩnh các mục tiêu cần đạt.
Dù là kiểu hay hình thức đánh giá nào thì cũng đều phải bảo đảm nguyên tắc HS
được bộc lộ, thể hiện thực chất năng lực ngôn ngữ và tư duy của chính các em, chứ
không phải là vay mượn, sao chép.
- Đánh giá phải là một phần của quá trình dạy học. Muốn vậy, GV cần ghi chép
cẩn thận các nhận xét hằng ngày về HS để có cơ sở đánh giá. Những nhận xét đó
không phải chỉ tập trung vào các sai sót để sửa chữa mà còn phải chú ý đến các
điểm mạnh của từng HS. GV phải thấy được những khó khăn mà từng HS gặp phải
cũng như sở trường của từng em trong từng lĩnh vực được đánh giá. Một lớp học
có hàng chục HS, vì thế mỗi ngày chỉ nên tập trung một số em, hôm sau chuyển
sang các em khác. GV phải nắm vững chuẩn CT của các lớp trước và sau lớp mình
dạy học để biết được “đầu vào” và “đầu ra” của mình.
- Không được lạm dụng hình thức trắc nghiệm khách quan, nhưng cũng không nên
loại bỏ, vì đây là hình thức có thể giúp nhà trường đánh giá năng lực đọc hiểu, suy
luận và tư duy phê phán của HS với điều kiện những người ra đề được huấn luyện
kĩ về kĩ thuật. Hình thức trắc nghiệm khách quan trong các kì thi SAT và PISA cho
ta cơ sở để khẳng định như vậy. Điều quan trọng là cần biết dùng các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan ở mức độ thích hợp.
Hơn nữa, hình thức ra đề kiểm tra theo hướng mở cần được ưu tiên nhằm

phát triển khả năng tư duy sáng tạo và thể hiện quan điểm cá nhân của học sinh.
Cùng với đó, việc chấm thi theo đề mở cũng cần được chú trọng, tránh tình trạng
đánh giá chủ quan áp đặt vì môn Ngữ Văn vừa là môn khoa học vừa là môn nghệ
thuật, ưu tiên phát triển khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo 2006. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn.
Hà Nội: Giáo dục.
[2]. Bùi Mạnh Hùng 2013. Về định hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa
môn Ngữ văn. Huế: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thông Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
[3]. Bùi Mạnh Hùng 2013. Chuẩn CT cốt lõi của Mỹ và một số liên hệ với việc đổi
mới CT Ngữ văn ở Việt Nam.Tạp chí Khoa học (Đại học Sư phạm TP. HCM, số
chuyên về Nghiên cứu Giáo dục học), số 4/2013
[4]. Đỗ Ngọc Thống 2013. Dạy học Ngữ văn trong nhà trường Việt Nam – hiện
trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan. Huế: Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức.
[5]. Nguyễn Khắc Phi 2013. Đánh giá chương trình và sách giáo khoa. Huế: Kỷ
yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt
Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
[6]. Nguyễn Minh Thuyết 2013. Một số vấn đề về đánh giá chương trình, sách giáo
khoa hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, sách giáo khoa
mới. Huế: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.




×