Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG đội NGŨ TRÍ THỨC TỈNH bắc NINH THỜI kỳ đẩy MẠNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.08 KB, 102 trang )

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Chủ nghĩa xã hội
Đội ngũ trí thức
Khoa học và công nghệ
Kinh tế - xã hội
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

VIẾT TẮT
CNH,HĐH
CNXH
ĐNTT
KH&CN
KT - XH
UBND
XHCN


MỤC LỤC
Trang

3

MỞ ĐẦU

Chương
1



MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

10

1.1. Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh và xây dựng đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
1.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

10
35

Chương YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
2 TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

50

2.1. Yêu cầu xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

50

2.2. Một số giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

56
87
89
93


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang phát triển mạnh mẽ và tác
động sâu sắc, toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội, của mọi quốc
gia, dân tộc. Khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
là động lực quan trọng đối với sự phát triển KT - XH, làm thay đổi cách thức
tổ chức sản xuất cũng như vai trò của các yếu tố trong quá trình sản xuất.
Trước sự tác động của cách mạng KH&CN, việc xây dựng, phát triển kinh tế
tri thức đã trở thành xu thế khách quan của các quốc gia. Đội ngũ trí thức là
lực lượng đi đầu trong việc phát triển, ứng dụng tiến bộ KH&CN hiện đại vào
sản xuất và đời sống, xây dựng nền kinh tế tri thức. Với mục tiêu sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đòi hỏi chúng ta
phải khai thác mọi nguồn lực, phát huy tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt
là vai trò của ĐNTT. Nghị quyết Trung ương bảy khoá X của Đảng xác định:
“Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân
tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là

đầu tư cho phát triển bền vững” [11, tr.90,91].
Cùng với sự phát triển của đất nước, ĐNTT Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, hện nay ĐNTT còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập,
nhất là về chất lượng và cơ cấu, chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trong khi đó sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước và hội nhập quốc tế không chỉ tạo ra những điều kiện và thời cơ
thuận lợi để xây dựng, phát huy vai trò của ĐNTT, mà còn đòi hỏi phải có


4

ĐNTT vững mạnh. Vì vậy, đầu tư xây dựng ĐNTT không chỉ là vấn đề có
tính chiến lược lâu dài, mà còn là một đòi hỏi bức thiết hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, tam giác tăng
trưởng của đồng bằng Bắc Bộ; là một trong những tỉnh có tốc độ CNH,HĐH
nhanh nhất Miền Bắc hiện nay. Mục tiêu Bắc Ninh đặt ra là tiếp tục: “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2015” [1, tr.24]. Để đạt mục tiêu đó, một trong những
vấn đề hết sức quan trọng đặt ra đối với Bắc Ninh là phải quan tâm xây dựng
ĐNTT Tỉnh, tạo sự phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng và bảo
đảm sự hợp lý về cơ cấu.
Trong những năm qua, ĐNTT tỉnh Bắc Ninh lớn mạnh về mọi mặt,
đóng góp không nhỏ vào sự phát triển KT - XH của Tỉnh và đất nước. Tuy
nhiên, nhận thức của một số tổ chức, lực lượng ở Bắc Ninh về vị trí, vai trò
của trí thức đối với sự nghiệp CNH,HĐH còn biểu hiện chưa thống nhất, chưa
đầy đủ, dẫn đến chưa thật sự quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ này đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH của Tỉnh và đất nước. Công tác xây dựng
ĐNTT của tỉnh Bắc Ninh vẫn còn những hạn chế nhất định, ĐNTT Tỉnh còn
ít về số lượng, chất lượng chưa thật cao, cơ cấu còn bất hợp lý, chưa tương

xứng với vị trí, vai trò của nó trong sự nghiệp CNH,HĐH. Vì vậy, việc xây
dựng ĐNTT tỉnh Bắc Ninh vững mạnh đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH
đang đặt ra một cách cấp thiết.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” làm luận
văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trí thức và xây dựng ĐNTT là vấn đề quan trọng trong công tác của
Đảng và có ý nghĩa sâu sắc đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước;


5

nên vấn đề này luôn được các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều công trình khoa học được công bố
liên quan đến đề tài.
Nhóm công trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan về trí
thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam:
“Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của
Đỗ Mười, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Cuốn sách là tập hợp các bài nói, bài
viết của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười. Thông qua các bài nói, bài viết,
nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã đã khẳng định: trí thức nước ta đại biểu cho
trí tuệ của dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, trí thức có vai
trò và trách nhiệm to lớn. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng, động viên, phát huy
sự sáng tạo của trí thức là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
“Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay” Luận án tiến sĩ triết học của Phan Thanh Khôi, Hà Nội, 1992; “Một số vấn đề
về trí thức Việt Nam” của Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998;
“Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” của Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2001…
Qua các công trình trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về trí

thức; giới thiệu sự hình thành, phát triển của trí thức Việt Nam qua các chặng
đường lịch sử; luận giải làm rõ những đặc trưng truyền thống của trí thức Việt
Nam; làm rõ vai trò, thực trạng của trí thức trong sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước, cũng như chỉ ra những yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đặt ra đối với
trí thức… Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất những định hướng, giải pháp cơ
bản tạo động lực thúc đẩy trí thức lao động sáng tạo và xây dựng, phát huy
vai trò của trí thức Việt Nam trong quá trình CNH,HĐH đất nước.
Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về việc xây dựng, phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức thuộc các địa phương trong quá trình đổi mới:


6

“Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng trong công
cuộc đổi mới hiện nay” - Luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Hằng
Nga, Hà Nội, 2000; “Đội ngũ trí thức tỉnh Bến Tre: thực trạng và phương
hướng phát triển thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” - Luận văn thạc sĩ
triết học của Nguyễn Thành Phương, Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2001; “Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - thực trạng và giải pháp” - Luận văn thạc sĩ triết học
của Đặng Thị Mai, Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003;
“Đội ngũ trí thức tỉnh Lào Cai trong công cuộc đổi mới đất nước” - Luận văn
thạc sĩ triết học của Nguyễn Thế Hùng, Hà Nội, 2009; “Vai trò của đội ngũ
trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay” - Luận văn thạc sĩ triết học của Lê Phong Hồng, Hà Nội, 2009… Thông
qua các công trình trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về trí
thức, vai trò của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước; phân
tích những đặc điểm cơ bản về CNH,HĐH của từng địa phương và những yêu
cầu đặt ra đối với ĐNTT. Đặc biệt các tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ
những đặc điểm, vai trò, cũng như thực trạng của ĐNTT từng địa phương

trong CNH,HĐH; trên cơ sở đó các tác giả đề xuất yêu cầu và những giải
pháp cơ bản xây dựng và phát huy vai trò ĐNTT của các địa phương trong
quá trình CNH,HĐH đất nước.
Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về việc xây dựng, phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và các lực lượng trí thức
khác nhau trong quá trình cách mạng:
“Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội trong công cuộc
đổi mới ở nước ta”- Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn An Ninh, Hà nội,
1999; “Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” - Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn


7

Đình Minh, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2003; “Xây dựng đội ngũ
trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” - Luận
án tiến sĩ triết học của Lê Quang Quý, Hà Nội, 2005; “Phát huy vai trò đội
ngũ trí thức các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng hiện nay” - Sách
tham khảo của Trịnh Quang Cảnh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005; “Phát huy
nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của tiến sĩ Đỗ Thị Thạch, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005… Thông qua các
công trình khoa học trên, các tác giả đã đi sâu phân tích đặc điểm, vai trò của
trí thức theo từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động, cũng như đặc điểm, vai trò
của các lực lượng trí thức khác nhau; chỉ rõ yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH
đặt ra đối với trí thức thuộc các ngành, các lĩnh vực và các lực lượng trí thức;
từ đó đề xuất những định hướng, giải pháp cơ bản xây dựng, phát huy vai trò
của trí thức theo từng ngành, từng lĩnh vực và của các lực lượng trí thức khác
nhau trong quá trình CNH,HĐH đất nước.
Ngoài các công trình khoa học nói trên, xung quanh vấn đề trí thức và
xây dựng ĐNTT còn có nhiều bài viết của các nhà khoa học được đăng tải trên

các tạp chí như: “Phát huy vai trò của trí thức Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế” của Lê Khả Thọ, Tạp chí Cộng sản số 777 (Tháng 7-2007); “Đội ngũ
trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri
thức” của Đặng Hữu, Tạp chí Lý luận chính trị (Tháng 7-2008); “Xây dựng và
phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới” của Trường Lưu, Tạp chí Cộng sản số 791 (Tháng
9-2008); “Phát huy dân chủ trong xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam” của
Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí Lý luận chính trị số (Tháng 9-2009); “Những biến
đổi quan trọng giai đoạn 2011-2020 và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam” của Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Cộng sản số 804 (Tháng 10-2009); “Tạo
ra tầng lớp trí thức của riêng mình” của PGS.TS, Phan Thanh Khôi, Tạp chí
Tuyên giáo (Tháng 4-2010)… Các bài viết trên các tác giả đã phân tích yêu


8

cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, của hội nhập quốc tế đối
với việc xây dựng, phát triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các
lĩnh vực khác nhau; dự báo tình hình trong nước và thế giới trong những năm
tới tác động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số giải
pháp, biện pháp cụ thể nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng như các nhóm
trí thức đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới.
Như vậy từ nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình
khoa học, các bài viết đã tập trung nghiên cứu những vấn đề rất cơ bản về
trí thức; phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn; rút ra những
bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT
Việt Nam, cũng như xây dựng, phát huy vai trò của trí thức theo đặc điểm,
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng địa phương thời kỳ
CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về xây dựng

ĐNTT tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Vì vậy đề tài
mà tác giả lựa chọn, nghiên cứu là đề tài độc lập, không trùng lắp với bất
kỳ đề tài, công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận
văn
* Mục đích:
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng ĐNTT tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp cơ bản xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm và vai trò của việc xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc
Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
- Đánh giá thực trạng xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc Ninh hiện nay và
phân tích làm rõ nguyên nhân của thực trạng.


9

- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc
Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu việc xây dựng
ĐNTT do tỉnh Bắc Ninh quản lý chủ yếu từ năm 2001 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

về trí thức và xây dựng ĐNTT.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa vào tình hình CNH,HĐH và thực tiễn xây dựng ĐNTT
tỉnh Bắc Ninh; dựa vào các báo cáo tổng kết của các cấp uỷ Đảng, chính quyền
và cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Ninh; thông qua kết quả điều tra, khảo sát,
thu thập tài liệu thực tiễn về ĐNTT và xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc Ninh.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp chuyên gia,
nghiên cứu tư liệu, thu thập thông tin, điều tra xã hội học...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vị trí, vai trò và
đặc điểm của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh, cũng như công tác xây dựng ĐNTT tỉnh
Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
- Luận văn góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, biện pháp
của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cơ quan chức năng tỉnh Bắc Ninh trong


10

xây dựng ĐNTT và làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu về
ĐNTT nói chung, ĐNTT tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục kèm theo.


11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1. Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh và xây dựng đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Ninh
Điều kiện tự nhiên và lịch sử văn hóa của Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, nằm ở phía bắc thủ đô Hà Nội, trong vùng
kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,
với hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, rất thuận tiện cho
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đẩy mạnh CNH,HĐH. Dân số của Bắc
Ninh hiện nay có khoảng hơn 1triệu người với thành phần dân tộc Kinh thuần
nhất. Diện tích tự nhiên của Bắc Ninh khoảng hơn 800 km 2, phần lớn diện
tích là đồng bằng, đồi núi chỉ chiếm khoảng 0,53%, chủ yếu tập trung ở hai
huyện Quế Võ và Tiên Du. Là tỉnh đồng bằng, nên tài nguyên, khoáng sản
của Bắc Ninh không nhiều, chỉ có trữ lượng nhỏ về tài nguyên rừng và một số
khoáng sản khác như đất sét làm gạch, ngói, gốm, gạch chịu lửa; đá sa thạch
và than bùn… Tuy trữ lượng không lớn, song đây cũng là một điều kiện quan
trọng để Bắc Ninh phát triển các ngành, nghề thủ công. Bởi thế, với sự sáng
tạo, khéo léo và tinh tế của người dân, nên các làng nghề ở Bắc Ninh rất phát
triển và Bắc Ninh trở thành mảnh đất sở hữu nhiều làng nghề truyền thống nổi
tiếng như: làng tranh Đông Hồ, làng gỗ Đồng Kỵ, làng đồng Đại Bái, làng
mộc Hương Mạc, làng mây tre Xuân Lai, làng gốm Phù Lãng...
Về lịch sử văn hóa, Bắc Ninh là nơi có truyền thống văn hoá lịch sử
lâu đời, đặc sắc; nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo
cho xứ Kinh Bắc sớm trở thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa



12

với một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam. Trải qua
hàng nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm, vùng đất và con người Kinh Bắc
còn được lịch sử giao cho trọng trách là "mảnh đất phên dậu phía bắc của
kinh thành Thăng Long". Chính thế đứng và trọng trách lịch sử ấy đã hun đúc
nên phẩm chất anh hùng, kiên cường, bất khuất của người dân Bắc Ninh.
Truyền thống ấy một lần nữa lại tiếp tục được phát huy cao độ trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng
như trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế hiện nay.
Cùng với quá trình giao lưu và trao đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc,
hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo; Bắc Ninh trở thành một trong những
trung tâm văn hóa, tín ngưỡng của cả nước; nơi tập trung của các di tích lịch
sử văn hóa lâu đời, của các công trình kiến trúc độc đáo, như đền Đô, chùa
Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp... Bắc Ninh còn là một miền quê nổi
tiếng với truyền thống hiếu học, trong đó Luy Lâu (thuộc Thuận Thành ngày
nay) là trung tâm Hán học đầu tiên của cả nước. Dưới các triều đại phong
kiến, Bắc Ninh là miền quê đóng góp nhiều nhất trạng nguyên và tiến sĩ cho
đất nước. Trong hơn 800 năm khoa cử phong kiến Việt Nam, quê hương Kinh
Bắc đã đóng góp cho đất nước 17 trạng nguyên và hơn 600 tiến sĩ, chiếm 1/3
số trạng nguyên, tiến sĩ của cả nước và ở Bắc Ninh có nhiều làng được gọi là
“làng tiến sĩ” như Kim Đôi, Vĩnh Kiều, Vọng Nguyệt… Đặc biệt làng Tam
sơn (thuộc thị xã Từ Sơn ngày nay) - nơi duy nhất của cả nước có đủ “Tam
khôi”, trong đó có 20 tiến sĩ và 2 trạng nguyên…[36, tr.30-31].
Với truyền thống văn hóa, lịch sử, lâu đời, Bắc Ninh là mảnh đất sinh
thành và nuôi dưỡng nhiều nhân tài kiệt xuất của đất nước, tiêu biểu như các
vị vua triều Lý, đã có công lớn trong đấu tranh chống ngoại xâm và trong xây
dựng đất nước thời phong kiến. Trong thế kỷ XX, cũng xuất hiện nhiều nhà
cách mạng xuất sắc như: Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt…

Bắc Ninh còn là miền quê sản sinh ra nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như: hoạ sĩ
Trần Văn Cẩn, Hoàng Tích Chù; nhạc sĩ Huy Du, Nguyễn Đức Toàn; nhà văn


13

Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Kim Lân; nhà thơ Thế Lữ và nhiều
văn nghệ sĩ nổi tiếng khác.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Ninh
Công nghiệp hóa là quy luật chuyển biến xã hội, từ xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp văn minh. Công nghiệp hoá vừa là động lực,
vừa là kết quả tất yếu của sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của lực lượng
sản xuất. Công nghiệp hóa xuất hiện bắt đầu từ nước Anh vào khoảng nửa
cuối thế kỷ XVIII, gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sau đó
lan ra các nước Tây Âu và nhiều nước khác trên thế giới. Hiện nay công
nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và là xu thế khách quan, là nấc thang tất yếu
mà bất cứ nước nào cũng phải đi qua để trở nên giàu có và hùng mạnh.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của CNH,HĐH đối với sự phát triển
đất nước theo định hướng XHCN, thực hiện “đi tắt đón đầu”, khắc phục sự tụt
hậu về KH&CN so với các nước trên thế giới, ngay từ Đại hội III, Đảng ta đã
xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
CNXH. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, trong thời gian dài, công
nghiệp hoá ở nước ta chưa phát triển toàn diện, chủ yếu mới tập trung phát
triển các ngành công nghiệp nặng. Vì thế, cơ bản nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp lạc hậu với cơ cấu kinh tế bất hợp lý.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chỉ rõ: “Mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, văn minh” [6, tr.70]. Tiếp đó, Đại hội IX của Đảng chủ trương: “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp” [8, tr.24]. Đặc biệt, trước yêu cầu
phát triển kinh tế tri thức và trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X
của Đảng khẳng định cần tiếp tục: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh


14

quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức” [9, tr.87].
Như vậy, cùng với quá trình đổi mới, nhận thức của Đảng ta về
CNH,HĐH ngày càng hoàn thiện hơn, đường lối CNH,HĐH ngày càng phù
hợp với đặc điểm, điều kiện của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
cũng như trước sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN hiện đại, của kinh tế tri
thức. Nhờ đó mà công cuộc đổi mới đất nước thu được những thành tựu quan
trọng, tạo ra thế và lực mới, để nước ta tiếp tục vững bước trên con đường
XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ quan điểm của Đảng và thực tiễn CNH,HĐH ở nước ta những năm
qua cho thấy, CNH,HĐH là quá trình đi tắt, đón đầu về KH&CN; trước hết là
quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ mới cho các ngành sản xuất, đặc
biệt là với các ngành then chốt, mũi nhọn, khắc phục sự lạc hậu về công nghệ
để vươn lên trình độ công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đồng thời cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu KT - XH,
theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
của nền kinh tế; là quá trình phát triển các lĩnh vực KT - XH và văn hóa, gắn
với bảo vệ môi trường sinh thái… chứ không chỉ đơn thuần trong lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn là quá trình mở cửa, chủ
động hội nhập, giao lưu với các nền văn minh trên thế giới, tiếp thu tinh hoa

văn hoá nhân loại... Vì vậy, CNH,HĐH là quá trình lâu dài, khó khăn và phức
tạp, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó xây dựng và phát huy
vai trò của ĐNTT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những năm qua, tỉnh Bắc Ninh tích cực đẩy mạnh CNH,HĐH, đầu tư
cải tiến, mua sắm trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ tiên tiến, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế… Giai đoạn 2006-2010, nhiệm
vụ CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn được đặt lên hàng đầu, bước đầu phát
huy được tiềm năng về đất đai và lao động nông thôn. Từ một tỉnh nông


15

nghiệp, đến nay cơ cấu kinh tế của Bắc Ninh đang chuyển dịch mạnh sang
công nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, tỷ trọng các ngành trong GDP của Bắc Ninh
là: công nghiệp - xây dựng 64,8%, dịch vụ 24,2% và nông nghiệp 11%. Đặc
biệt, Bắc Ninh đã quy hoạch được 15 khu công nghiệp với tổng diện tích 7.525
ha. Riêng sản xuất công nghiệp của Bắc Ninh, từ 2005 đến nay, tăng bình quân
27,9%/ năm; năm 2010 đạt 23.000 tỷ đồng, đưa Bắc Ninh từ vị trí thứ 19 năm
2004 lên vị trí thứ 10 năm 2009 về sản xuất công nghiệp [1, tr.2-4]. Các làng
nghề ở Bắc Ninh cũng đang phát triển mạnh, tích cực ứng dụng công nghệ
hiện đại vào sản xuất, đẩy mạnh maketing quảng bá sản phẩm, mở rộng thị
trường ra các nước trong khu vực và thế giới. Về cơ cấu vùng địa phương,
cực phát triển công nghiệp không ngừng được mở rộng địa bàn, gồm thành
phố Bắc Ninh, Từ Sơn, Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong. Vùng trũng các huyện
Gia Bình, Lương Tài, Yên Phong, Quế Võ chuyển sang nuôi trồng và chế
biến thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Với nhiều lợi thế, hiện nay Bắc Ninh là tỉnh thu hút được nhiều nhà đầu
tư lớn trong và ngoài nước, nhất là đầu tư nước ngoài. Chỉ tính trong năm
2008, có 76 dự án đầu tư nước ngoài vào Bắc Ninh, với tổng vốn đăng ký đầu
tư là 1.426.391USD [42]... đưa Bắc Ninh vươn lên đứng thứ 7 toàn quốc và

đứng thứ 2 trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ về thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài [1, tr.2-3]. Hiện nay, Bắc Ninh là một trong những tỉnh có tốc độ
CNH,HĐH nhanh nhất Miền Bắc, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn
định. Năm 2008 đạt mức tăng trưởng 16,2%, năm 2009 tuy ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế toàn cầu, song mức tăng trưởng vẫn đạt 12,54% [32, tr.3], thu
nhập bình quân đầu người và mức sống nhân dân tỉnh Bắc Ninh không ngừng
được nâng lên. Năm 2005, GDP bình quân đầu người đạt 525,7 USD [38,
tr.12], năm 2010 đạt 1.800 USD [1, tr.2], cao hơn gấp 1,5 lần so với mức
GDP bình quân đầu người của cả nước (khoảng 1.200 USD) [13, tr.43].
Trong quá trình CNH,HĐH, các vấn đề xã hội cũng luôn được tỉnh Bắc
Ninh quan tâm giải quyết. Về giáo dục - Đào tạo: Bắc Ninh là một trong ba địa


16

phương đầu tiên của cả nước hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Năm 2002,
Bộ Giáo dục và đào tạo đã công nhận tỉnh Bắc Ninh hoàn thành phổ cập trung
học cơ sở. Hằng năm, Tỉnh có từ 35-40% học sinh tốt nghiệp trung học phổ
thông thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Về văn hoá - Thông tin, thể dục,
thể thao có nhiều tiến bộ, mang đậm dấu ấn của truyền thống vùng Kinh Bắc…
Thông tin liên lạc được hiện đại hoá đến 100% xã, phường, thị trấn; hệ thống
y tế từng bước được hiện đại hoá, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ
nhân dân [32, tr.3]. Chương trình xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm có
những tiến bộ đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm dần và thời gian sử
dụng lao động ở nông thôn tăng lên qua các năm… Công tác bảo vệ an ninh
chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội đã đạt được nhiều kết quả [38, tr.2324]. Bên cạnh đó, Bắc Ninh mạnh dạn: “Đổi mới cơ chế quản lý, điều hành theo
hướng tinh giản các thủ tục hành chính, tạo nên hình ảnh về Bắc Ninh thân thiện,
cởi mở trong thu hút các nhà đầu tư và an toàn cuộc sống” [32, tr.3].
Tiếp tục đẩy mạnh CNH,HĐH, Bắc Ninh xác định mục tiêu tổng
quát đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là: “Phát triển kinh tế

nhanh và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
các khu công nghiệp - đô thị hiện đại với công nghệ cao, công nghệ sạch;
tăng cường đầu tư vùng sản xuất nông nghiệp có giá trị kinh tế cao… Phát
triển toàn diện các lĩnh vực, văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường; thực hiện
tốt chính sách an sinh xã hội…” [1, tr.23]. Như vậy trong những năm tới để
đẩy mạnh CNH,HĐH, đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải tập trung nỗ lực, huy động
có hiệu quả mọi nguồn lực, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và phát
huy vai trò của ĐNTT Tỉnh.
* Trí thức
Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, trí thức luôn là lực lượng đại diện cho
trí tuệ đương thời, là nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi
quốc gia, dân tộc. Vì vậy, xây dựng, phát huy vai trò của trí thức luôn giành


17

được sự quan tâm đặc biệt trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có những quan điểm và cách
tiếp cận khác nhau về khái niệm “trí thức”. Từ điển bách khoa Liên - Xô định
nghĩa: “trí thức là tầng lớp những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng
tạo, phát triển và truyền bá văn hoá”; Từ điển Wikipedia định nghĩa: “Trí thức là
người sử dụng trí tuệ để làm việc, nghiên cứu, phản ánh, dự đoán hoặc để hỏi và
trả lời các câu hỏi có liên quan về hàng loạt các ý tưởng khác nhau” [12, tr.66].
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Trí thức: người chuyên làm việc, lao động
trí óc” [40, tr.1075]…
Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình lãnh đạo cách mạng luôn quan tâm
xây dựng và phát huy vai trò của ĐNTT. Quan điểm của Đảng về ĐNTT được
thể hiện trong nhiều văn kiện khác nhau. “Tầng lớp trí thức” là thuật ngữ được
sử dụng phổ biến từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII trở về trước, từ Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta sử dụng thuật ngữ “Đội ngũ trí thức”,
nhằm nhấn mạnh vai trò to lớn, đặc trưng lao động của trí thức và sự có mặt
ngày càng đông đảo của trí thức trên các địa bàn, các lĩnh vực và trong các giai
tầng xã hội. Tuy nhiên, chỉ đến Nghị quyết Trung ương bảy khoá X, Đảng ta
mới chính thức đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về trí thức: “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất
định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra
những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [11, tr.81-82].
Tuy góc độ tiếp cận khác nhau, song các khái niệm trên tập trung đề
cập tới một số dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, trí thức là một tầng lớp xã hội
Từ khi lịch sử có sự phân công giữa lao động trí óc và chân tay, trí
thức có mặt trong mọi xã hội và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên ở xã hội nào cũng vậy, trí thức đều không có quan
hệ riêng và trực tiếp về sở hữu tư liệu sản xuất. Trí thức không phải là một
giai cấp mà chỉ là một tầng lớp xã hội được thu nạp từ nhiều giai cấp, tầng lớp


18

xã hội khác nhau; cho nên trí thức không đại biểu cho một phương thức sản
xuất độc lập nào. Trong xã hội có giai cấp, trí thức luôn của giai cấp thống trị
đã đào tạo ra họ. Vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định: “Nếu không nhập cục với
một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi” [16, tr.552].
Thứ hai, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn của trí thức tuỳ thuộc vào điều
kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Trình độ học vấn và chuyên môn của trí thức được thể
hiện ở trình độ khoa học cơ bản và khoa học chuyên ngành; được hình thành
qua đào tạo, bồi dưỡng và không ngừng phát triển bằng con đường tự đào tạo,

lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Ở nước ta, trình độ học vấn
của trí thức thường được quan niệm từ bậc cao đẳng trở lên. Phần lớn trí thức
được đào tạo từ các trường cao đẳng, đại học và được nhận các bằng cấp khác
nhau. Tuy nhiên bằng cấp cũng chỉ là một trong những tiêu chí để phân biệt
trí thức với các lực lượng khác trong xã hội; bởi trên thực tế, nhiều người
không qua đào tạo cơ bản, không có bằng cấp, nhưng bằng con đường tự học,
tự nghiên cứu và tích cực lao động sáng tạo, nên họ đã trở thành trí thức và bổ
sung vào ĐNTT.
Thứ ba, trí thức là người lao động trí óc, sáng tạo
Lao động trí óc là đặc trưng lao động của trí thức, hoạt động lao động
chủ yếu của trí thức thể hiện trên một số lĩnh vực như: nghiên cứu ứng dụng
KH&CN, sáng tác văn học - nghệ thuật, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận... Do vậy, điều chủ yếu nhất để nói lên trí thức khác với bộ phận
lao động xã hội khác là ở kiểu lao động của họ, đó là lao động trí óc, lao động
sáng tạo. Lao động sáng tạo của trí thức là đi tìm bản chất và phát hiện quy
luật của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan; đem lại những tri thức
khoa học mới, tiến bộ, hữu ích, phổ biến và ứng dụng những tri thức đó vào
thực tiễn để nâng cao chất lượng mọi mặt của đời sống xã hội, dự báo tương
lai và đưa ra phương hướng, biện pháp nhằm phát triển xã hội.


19

Sản phẩm lao động sáng tạo của trí thức cũng rất đa dạng phong phú và
có giá trị xã hội to lớn. Những sản phẩm lao động sáng tạo chủ yếu là những
giá trị tinh thần, là sự phản ánh sâu sắc bản chất của sự vật, hiện tượng và là
một nấc thang mới của nhận thức khoa học, chứ không dừng lại ở những tri
thức kinh nghiệm [30, tr.11-13].
Trí thức chân chính là người học thực, để có thực lực và thực tài; có
năng lực tự đào tạo một cách chủ động, sáng tạo, có phương pháp và bản lĩnh

của một nhân cách khoa học, với sự kết hợp hài hoà giữa lý tưởng nghề
nghiệp chuyên môn với lý tưởng chính trị, thể hiện qua thái độ lao động,
trong tư duy khoa học, trong đạo đức và lối sống. Trí thức còn là những người
có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và luôn hướng tới các giá trị chân, thiện,
mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ và công bằng. Đặc biệt:
“Những trí thức chân chính bao giờ cũng nặng lòng yêu nước, thương dân,
dám dũ bỏ tị hiềm, mặc cảm để làm tròn trách nhiệm của mình với dân, với
nước” [31, tr.237].
* Đặc điểm của đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Từ đặc điểm, tình hình của tỉnh Bắc Ninh, từ nghiên cứu khái quát
chung về trí thức, tác giả đưa ra quan niệm về đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước như sau: Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh
là một bộ phận của trí thức nước nhà, bao gồm những người có trình độ học
vấn từ cao đẳng trở lên đang hoạt động, lao động trí óc sáng tạo trong các
ngành, các lĩnh vực, các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Bắc Ninh dưới sự lãnh
đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền của tỉnh Bắc Ninh; là lực lượng
quan trọng trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Tỉnh và góp
phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.


20

Trước hết, ĐNTT tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của trí thức nước
nhà, nên họ cũng mang những đặc điểm chung của trí thức nước nhà. Họ
chịu sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước; hay nói cách khác, họ là đối
tượng được hưởng và chịu sự tác động của những cơ chế, chính sách, pháp
luật về quản lý, xây dựng, trọng dụng và đãi ngộ trí thức... của Đảng, Nhà
nước. Ngược lại, họ cũng có bổn phận, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, có trách nhiệm đối với sự phồn thịnh của dân tộc.

Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh bao gồm những người có trình độ
học vấn từ cao đẳng trở lên, đang hoạt động, lao động trí óc sáng tạo trong
các ngành, các lĩnh vực, các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Bắc Ninh dưới sự
lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền Tỉnh. Họ là lực lượng
giữ vai trò quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH của Tỉnh và
góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Cấu trúc của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh gồm số lượng trí thức, chất
lượng trí thức (gồm chất lượng từng trí thức và cả đội ngũ) và cơ cấu trí
thức về trình độ, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động… Sức
mạnh của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh chỉ có được, vai trò của ĐNTT tỉnh Bắc
Ninh chỉ được phát huy khi có sự kết hợp hài hòa, hợp lý của các yếu tố
cấu thành ĐNTT Tỉnh. Vì vậy, xây dựng ĐNTT tỉnh Bắc Ninh cần quan
tâm xây dựng đồng bộ, toàn diện cả số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của trí thức nước
nhà, song họ lại đang hoạt động, lao động trong các ngành, các lĩnh vực,
các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, họ chịu sự lãnh đạo, quản
lý trực tiếp của các cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh Bắc Ninh, chịu sự tác
động, chi phối bởi những điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa cũng như
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Tỉnh, nên họ mang những đặc điểm
riêng.


21

Thứ nhất, đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh chủ yếu được củng cố,
hình thành trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đang phát triển
mạnh cả về số và chất lượng
Năm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tách ra và tái thành lập từ tỉnh Hà Bắc
cũ, nên khác với nhiều tỉnh khác trong cả nước, ĐNTT tỉnh Bắc Ninh chủ yếu
được củng cố, xây dựng và phát triển cùng quá trình CNH,HĐH của Tỉnh.

Tuy nhiên hiện nay, Bắc Ninh là một trong những tỉnh có tốc độ CNH,HĐH
nhanh nhất Miền Bắc, cho nên đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
ĐNTT Tỉnh. Bên cạnh đó, các cấp ủy đảng, chính quyền Tỉnh luôn quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác xây dựng ĐNTT. Vì vậy, tuy chủ yếu
được củng cố, xây dựng và phát triển cùng quá trình CNH,HĐH của Tỉnh,
song hiện nay ĐNTT tỉnh Bắc Ninh đang phát triển mạnh mẽ, mà trước hết về
số lượng. Đơn cử như sự gia tăng tỷ lệ giáo viên các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học so với số dân của Bắc Ninh đã cho thấy rõ điều đó.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ giáo viên các trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học so với số dân của một số tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ, trong 3 năm (2005-2007) là: Bắc Ninh 0,41‰, 0,54‰, 0,72‰, Hưng
yên 0,64‰, 0.64‰, 0,7‰, Hải Dương 0,35‰, 0,41‰, 0,64‰, Thái Bình
0,32‰, 0,36‰, 0,4‰ và Bắc Giang 0,24‰, 0,37‰, 0,38‰ [44]. Như vậy,
nếu tính riêng số giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học so với số dân đến năm 2007, Bắc Ninh là tỉnh có tỷ lệ cao nhất và tốc độ
gia tăng nhanh nhất. Về trình độ của ĐNTT Bắc Ninh cũng không ngừng
được nâng lên; xét về trình độ học vấn, năm 2002 toàn Tỉnh chỉ có 35 tiến sĩ,
228 thạc sĩ, đến năm 2008 đã có 68 tiến sĩ và 716 thạc sĩ [43]. Về trình độ lý
luận chính trị của trí thức tỉnh Bắc Ninh cũng khá cao, theo số liệu điều tra,
khảo sát: hiện nay tỉnh Bắc Ninh có 10,92% trí thức có trình độ cao cấp, có
50,42% trí thức có trình độ trung cấp [41].
Thứ hai, đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh đa dạng về cơ cấu


22

Cơ cấu độ tuổi, giới tính: Hiện nay ĐNTT tỉnh Bắc Ninh có đủ các độ
tuổi khác nhau, từ thanh niên, trung niên đến trí thức cao tuổi và đang có xu
hướng trẻ hoá. Thực tế cho thấy, đa số trí thức Bắc Ninh đang ở độ tuổi từ 26
đến 45, chiếm 75,63% [41]. Đây là độ tuổi đang sung sức, năng động, có

nhiều ước mơ, say mê sáng tạo và trí thức thuộc độ tuổi này đang giữ vai trò
nòng cốt của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Về cơ cấu giới tính: hiện nay ở
Bắc Ninh trí thức nam giới đang chiếm đa số.
Về thành phần dân tộc và xuất thân của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh: Bắc
Ninh là tỉnh có dân cư thuần nhất, nên khác với nhiều tỉnh khác cùng trong
vùng đồng bằng Bắc Bộ, trí thức Bắc Ninh đều là người Kinh, do đó mà họ
cùng chung đặc điểm tâm lý, tính cách và trình độ nhận thức tương đối cao,
đồng đều. Về thành phần xuất thân, ĐNTT Bắc Ninh xuất thân từ hầu hết các
tầng lớp dân cư trong xã hội, trong đó chủ yếu là từ gia đình nông dân và
công nhân. Theo kết quả điều tra, khảo sát, có tới 43,7% trí thức xuất thân từ
gia đình nông dân, có 22,96% trí thức xuất thân từ gia đình công nhân, có
26,89% trí thức xuất thân từ gia đình trí thức, chỉ có 6,72% trí thức xuất thân
từ các gia đình khác [41]. Đây là một điều kiện thuận lợi để thực hiện liên
minh công nhân - nông dân - trí thức, cũng như thực hiện đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp dân cư trong quá trình CNH,HĐH, phát triển KT - XH của Tỉnh.
Trí thức Bắc ninh hiện nay khá đa dạng về ngành nghề chuyên môn và
lĩnh vực hoạt động. Họ đảm nhiệm các công việc như, nghiên cứu khoa học,
sáng tác văn hoá nghệ thuật và làm công tác xuất bản, báo chí, chăm sóc sức
khỏe cộng đồng… Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ĐNTT Bắc Ninh có
mặt hầu hết trong các lĩnh vực khoa học, cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật, khoa học xã hội và nhân văn; cả nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, cả công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, giáo dục - đào tạo,
y tế và hện nay một lực lượng trí thức khá đông trong các loại hình hoạt động
sản xuất kinh doanh cá thể. Rõ ràng cơ cấu trí thức Bắc Ninh hết sức đa dạng,


23

đây là một lợi thế để Bắc Ninh phát huy vai trò của trí thức, thực hiện đẩy
mạnh CNH,HĐH và phát triển toàn diện các mặt, các lĩnh vực của Tỉnh.

Thứ ba, đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh mang đậm cốt cách văn hoá
truyền thống của vùng Kinh Bắc
Bắc Ninh là tỉnh thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, là một trong
những cái nôi văn hoá không chỉ của đồng bằng Bắc Bộ mà của cả nước; là
quê hương của làn điệu dân ca quan họ nổi tiếng đã được Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hoá
phi vật thể thế giới. Người Bắc Ninh anh dũng, kiên cường, nhưng cũng rất
cần cù, thông minh, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, độ lượng và có tinh thần lạc
quan, yêu đời, hiếu học, luôn tự hào về truyền thống văn hoá của mình… Đội
ngũ trí thức tỉnh Bắc Ninh, dù sinh ra lớn lên và trưởng thành từ quê hương
Kinh Bắc, hay được thu hút từ địa phương khác về, đều ít nhiều được thừa
hưởng các giá trị văn hoá truyền thống của vùng Kinh bắc ngàn năm văn hiến
và mang trong mình những nét tâm lý, cốt cách văn hoá của người Kinh Bắc.
Chính đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức phát huy tinh thần
đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong công tác và trong cuộc
sống. Đặc biệt, truyền thống hiếu học là điều kiện thuận lợi để khuyến khích,
cổ vũ trí thức Bắc Ninh trong học tập, tự học, nâng cao trình độ mọi mặt và
trong sáng tạo khoa học, nhất là trong bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống, cũng như sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Bên cạnh
đó, tinh thần lạc quan, yêu đời cũng là những phẩm chất không thể thiếu của
những nhà khoa học, những văn nghệ sĩ; thừa hưởng phẩm chất này giúp cho
trí thức Bắc Ninh không chùn bước trước những khó khăn, thách thức, phát
huy tinh thần sáng tạo, tạo ra những sản phẩm khoa học, những sản phẩm văn
hóa, nghệ thuật mang giá trị xã hội cao.
* Yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đặt ra đối với đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Ninh


24


Từ nghiên cứu điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, cũng như sự
nghiệp CNH,HĐH ở Bắc Ninh; từ nghiên cứu về trí thức nói chung và đặc
điểm của ĐNTT tỉnh Bắc Ninh, cho thấy: đẩy mạnh CNH,HĐH đặt ra yêu cầu
rất cao đối với ĐNTT Tỉnh. Yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đặt ra đối với
ĐNTT Tỉnh thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bắc Ninh,
đòi hỏi phải có đông đảo trí thức với đa dạng các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Ninh là một quá trình khó khăn,
lâu dài, phức tạp; thực hiện bước chuyển căn bản từ sử dụng lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ của KH&CN, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, mà
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả văn hóa, y tế và giáo dục - đào
tạo... Chính vì vậy, CNH,HĐH yêu cầu ĐNTT Tỉnh phải đông đảo về số
lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, làm chủ được
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, ứng dụng có hiệu quả vào
các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và mọi mặt của đời sống xã hội.
Thứ hai, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bắc Ninh, đặt
ra yêu cầu cao về trình độ, chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ trí thức Tỉnh
Trước yêu cầu phát triển của khoa học, tiếp nhận chuyển giao và ứng
dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất và đời sống, đòi hỏi ĐNTT tỉnh Bắc
Ninh phải có trình độ tri thức cao, thành thạo chuyên môn, nghề nghiệp, có
năng lực tiếp thu và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của KH&CN hiện
đại, những tinh hoa văn hóa, văn minh thế giới và những di sản văn hóa dân
tộc vào thực tiễn Bắc Ninh. Điều đặc biệt quan trọng là CNH,HĐH đòi hỏi
phải có đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong từng lĩnh vực KT - XH, tạo ra lực
lượng xung kích trong việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận chuyển giao



25

công nghệ tiên tiến, thực hiện ứng dụng có hiệu quả vào các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh và đời sống; đồng thời thực hiện dẫn dắt, hướng đạo bộ phận
có trình độ thấp hơn vươn lên bắt kịp dòng chảy chung của thời đại. Trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi ĐNTT Bắc Ninh, ngoài trình độ chuyên
môn, phải có kiến thức về ngoại ngữ và tin học để giao tiếp, xử lý thông tin
kịp thời, nhạy bén, thích nghi nhanh và thực sự làm chủ tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại.
Thứ ba, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi đội ngũ trí thức
tỉnh Bắc Ninh phải có các phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của lao động
công nghiệp và của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Lao động công nghiệp đòi hỏi ĐNTT phải có tác phong công nghiệp,
làm việc một cách khoa học, sáng tạo, khẩn trương, nghiêm túc có ý thức kỷ
luật và có tinh thần hợp tác cao, nhất là trong sáng tạo khoa học. Trong điều
kiện hiện nay, mỗi người dù tài giỏi, nhưng cũng rất khó có thể thành công
nếu ý thức tổ chức kỷ luật kém, nếu thiếu sự hợp tác, thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ
của tập thể.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,HĐH, một trong những vấn
đề quan trọng là phải phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Tuy
nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động không nhỏ đến
mỗi người dân nói chung và mỗi trí thức nói riêng. Vì vậy, đòi hỏi ĐNTT
Tỉnh trước hết phải có lương tâm nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao
với công việc, với sản phẩm mình làm ra và trách nhiệm cao đối với sự phát
triển, sự giàu mạnh của Tỉnh và đất nước. Kinh tế thị trường đặt ra với mỗi trí
thức nói chung, trí thức Bắc Ninh nói riêng phải có ý chí, nghị lực để vượt
qua những tính toán vị kỷ, hẹp hòi; vững vàng trước những cám dỗ đời
thường, trước sự mua chuộc, lôi kéo của các thế lực thù địch, sẵn sàng hy sinh
lợi ích cá nhân vì nghĩa lớn, vì lợi ích của Đảng, của nhân dân và dân tộc.



×