Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TRÍ THỨC hóa CÔNG NHÂN các DOANH NGHIỆP NHÀ nước TRÊN địa bàn hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.95 KB, 102 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa tư bản
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Doanh nghiệp nhà nước
Giai cấp công nhân
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa

CHỮ VIẾT TẮT
CTQG
CNXH
CNTB
CNH, HĐH
DNNN
GCCN
Nxb
XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRÍ
THỨC HOÁ CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN


NAY
1.1. Trí thức hoá công nhân và vai trò của trí thức hoá công nhân

10

trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1.2. Thực trạng trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp nhà

10

nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay
Chương 2: YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TRÍ

28

THỨC HOÁ CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN
NAY
2.1. Yêu cầu trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp nhà

54

nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản trí thức hoá công nhân trong các

54

doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN


62
84

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
PHỤ LỤC
91
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


3
Nghị quyết Trung ương sáu, khoá X, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lực
lượng nòng cốt trong khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng” [13, tr.43-44].
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH, gắn với
phát triển kinh tế tri thức, với mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2010 là: “…
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn
lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…mở rộng quan hệ đối ngoại;
chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã
hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
[12, tr.76]. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên đòi hỏi phải phát huy sức
mạnh tổng hợp, trong đó nội lực là quyết định mà trực tiếp là không ngừng

nâng cao dân trí, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Giai cấp công
nhân Việt Nam là lực lượng có ý nghĩa quyết định nhất đến sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Sự lớn mạnh của
GCCN là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương, giải pháp
sắp xếp, đổi mới DNNN để DNNN phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Mặc dù còn một số những hạn chế nhất định, nhưng
nhìn chung cổ phần hoá DNNN đã đạt được những kết quả tích cực. Khi bàn
về vai trò của DNNN, Nghị quyết Trung ương sáu, khoá X về “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã chỉ ra: “Tiếp
tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh

3


4
của doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo
của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” [13, tr.143].
Qua 30 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH,HĐH đất nước, GCCN
nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu, chất lượng được nâng lên đáng kể, dần hình thành một bộ phận
công nhân trí thức đang tiếp tục khẳng định vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, sự
phát triển của GCCN hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp, kỷ
luật lao động, ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế, đa phần công nhân từ nông
dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm

thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của GCCN còn mờ nhạt,
chưa phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của cả nước, Hà
Nội luôn là nơi hấp dẫn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, thu hút một lực lượng rất lớn lao động tham gia.
DNNN có vai trò nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đội ngũ công nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội là một bộ
phận của giai cấp công nhân Việt Nam; động lực to lớn thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của Hà Nội và đất nước. Vì vậy, để xây dựng GCCN Việt
Nam nói chung, đội ngũ công nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội
nói riêng cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo, mục tiêu Nghị quyết
Trung ương sáu, Khoá X: “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt
cho công nhân, không ngừng trí thức hoá công nhân là một nhiệm vụ chiến

4


5
lược”…“xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển về số lượng,
nâng cao chất lượng, cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày
càng được trí thức hoá” [13, tr.48&50].
Trí thức hoá công nhân là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là
một vấn đề mới và cần được sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành nói
chung và của các DNNN trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Từ những lý do nêu ở
trên mà tôi chọn đề tài: “Trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân đối với quá trình đấu
tranh cách mạng cũng như xây dựng CNXH ở Việt Nam; nhất là trong quá trình

đổi mới và tiến hành CNH, HĐH đất nước đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu của các cá nhân và tập thể về vấn đề này.
Vấn đề xây dựng GCCN Việt Nam đã được Đảng ta đề cập toàn diện,
sâu sắc trong các Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết chuyên đề, của Ban Chấp
hành Trung ương.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, đã có rất nhiều công
trình khoa học khai thác nghiên cứu về GCCN Việt Nam ở những khía
cạnh khác nhau;
* Về lịch sử giai cấp công nhân, phong trào công nhân Việt Nam:
Trần Văn Giàu, “Giai cấp công nhân Việt Nam - sự hình thành và phát
triển”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1961.
Nguyễn Công Bình- Vũ Huy Phúc, “Một số vấn đề về lịch sử giai cấp
công nhân Việt Nam”, Nxb Lao động, 1974;
“Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam”, Nxb Lao
động, 1977.

5


6
Trong những công trình đó, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc sự ra
đời của GCCN, của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam; về vị trí
vai trò của GCCN Việt Nam, đồng thời chỉ ra những đóng góp to lớn của
GCCN, phong trào công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng mà Đảng ta xác định, các tác giả
đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng phát triển của GCCN, của phong
trào công nhân và Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.
* Về xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới, CNH,
HĐH đất nước và trí thức hoá công nhân
Có các công trình đã được in thành sách tham khảo và chuyên khảo như;

Văn Tạo, “Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và
công nhân trí thức”, Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1997.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn,
“Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”, Nxb Lao động, Hà Nội, năm 1999.
PGS Cao Văn Lượng (chủ biên), "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự
phát triển giai cấp công nhân", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
Viện Công nhân và Công đoàn, “Giải pháp xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb Lao động, hà nội
2003.
Viện Công nhân và Công đoàn, “Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và
phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH”,
Nxb Lao động, Hà Nội 2004;
Dương Xuân Ngọc, “Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”, Nxb CTQG, Hà Nội 2004;
PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (chủ biên), “Phát huy yếu tố tiềm năng con
người thủ đô Hà Nội trong thời kỳ CNH, HĐH” Nxb Lao động, năm 2005.

6


7
PGS, TS Tạ Ngọc Tấn - Nguyễn Duy Hưng - Đoàn Văn Kiên (đồng
chủ biên), “Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều
kiện mới”, Nxb Lao động, Hà nội, năm 2008.
Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), “Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, Nxb lao động, Hà Nội - 2008
TS Lê Thanh Hà, “Phát triển kinh tế tri thức và hoạt động của công
đoàn Việt Nam”; Nxb Lao động, Hà nội - 2008…
Một số luận án, luận văn bàn về vấn đề giai cấp công nhân tiêu biểu như:

Trần Kim Hải, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
Trần Thị Bích Liên "Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình", Luận án tiến sĩ, Chuyên ngành
triết học, viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
Trần Ngọc Sơn, "Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò
của nó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Luận án tiến sĩ,
Chuyên ngành triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001.
Một số bài báo khoa học tiêu biểu như;
Hoàng Trung Hải, “Để giai cấp công nhân tiếp tục đi đầu trong sự
-nghiệp CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Cộng sản số 4+5, tháng 12 năm 2003.
GS.TS Mạch Quang Thắng, “Giai cấp công nhân Việt Nam một số
vấn đề lý luận cần tiếp tục làm sáng tỏ”, Tạp chí Lao động Công đoàn,
tháng 10 năm 2008.
Nhìn chung, các công trình và đề tài khoa học, bài viết xung quanh vấn đề
GCCN đã đi sâu, luận giải và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò sứ
mệnh lịch sử của GCCN nói chung, GCCN Việt Nam trong sự nghiệp CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế nói riêng; đồng thời, đề cập đến vấn đề xây dựng
GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.

7


8
Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách hệ thống vấn đề; Trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Đề tài mà tác giả lựa chọn là một
công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học
nào đã công bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Từ luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trí thức hoá công nhân
trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội, đề xuất yêu cầu và một số giải pháp đẩy
mạnh trí thức hoá công nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội, góp phần
xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
* Nhiệm vụ:
Làm rõ quan niệm trí thức hoá công nhân, thực chất, nội dung, vai trò
trí thức hoá công nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân, chỉ rõ một số vấn đề đặt ra
nhằm đẩy mạnh quá trình Trí thức hoá công nhân trong các DNNN trên địa
bàn Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh trí thức hoá công
nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
*Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là vấn đề trí thức hoá công nhân
trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu: Trí thức hoá công nhân trong các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hà Nội; thời gian chủ yếu từ năm
2000 đến nay.

8


9
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận
văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về GCCN và trí thức hoá công nhân.

Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình GCCN, quá trình trí thức hoá
công nhân trong các DNNN trên địa bàn Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Qua khảo sát, điều tra xã hội học thực tế một số DNNN trên
địa bàn Hà Nội và qua những số liệu tổng kết, thống kê về trí thức hoá công
nhân của các cấp, các ngành có liên quan của Trung ương và Hà Nội để làm
rõ những vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ của luận văn đã đưa ra.
6. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu như: lôgích - lịch sử, phân tích - tổng hợp;
so sánh, điều tra xã hội học; phương pháp chuyên gia... để làm sáng tỏ góc
độ chính trị - xã hội của vấn đề.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần cung cấp những luận cứ khoa cho
lãnh đạo Thành phố Hà Nội, các nhà quản lý và DNNN tham khảo, đưa ra các chủ
trương chính sách đẩy mạnh trí thức hoá công nhân góp phần xây dựng GCCN có
đủ phẩm chất, năng lực, phát huy tốt vị trí, vai trò trong sự nghiệp CNH,HĐH,
hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Hà Nội và đất nước đặt ra.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình giảng
dạy, học tập và nghiên cứu những nội dung có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo.

9


10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRÍ THỨC HOÁ

CÔNG NHÂN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Trí thức hoá công nhân và vai trò của trí thức hoá công nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1.1.1 Quan niệm về trí thức hoá công nhân
*Quan niệm của các nhà kinh điển về trí thức hoá công nhân
Trí thức hoá công nhân là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển GCCN và liên quan trực
tiếp đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của đội ngũ này. Mặc dù C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin chưa khi nào đề cập đến thuật ngữ trí thức hoá
công nhân nhưng trong quan điểm, tư tưởng của các ông đã bàn khá nhiều
về nâng cao trình độ văn hoá, tri thức, trí tuệ cho công nhân.
Trong quá trình nghiên cứu sự phát triển của nền đại công nghiệp dưới
CNTB C.Mác- Ph.Ăngghen phát hiện ra vai trò của tri thức, khoa học kỹ thuật
của tinh thần và trí tuệ người lao động trong việc phát triển lực lượng sản xuất
mà cụ thể là máy móc. C.Mác đã khẳng định: “Thiên nhiên không chế tạo ra
máy móc…Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người…tất cả
những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người
tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá tri thức" [34, tr 272-273].
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa lao động và máy móc đại công
nghiệp dưới CNTB, C.Mác đã chỉ rõ, sự phát triển ngày càng hiện đại của
máy móc và hệ thống máy móc chính là quá trình từng bước thay thế lao động
giản đơn bằng lao động phức tạp có tính khoa học. Vì vậy, lao động trực tiếp
trở thành thứ yếu so với lao động khoa học của con người. C.Mác đã viết:
“Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá
trình sản xuất, mà chủ yếu là loại lao động trong đó con người, trái lại là
10


11

người kiểm soát và điều tiết quá trình sản xuất” [34, tr369]. C.Mác cho rằng;
toàn bộ quá trình sản xuất “biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ
thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công nhân mà với tư cách là sự ứng
dụng khoa học trong lĩnh vực công nghệ” [34, tr358].
Từ những phân tích trên C.Mác chỉ rõ: “Theo đà phát triển của đại công
nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở lên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và số lượng lao động đã chi phí...mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ
chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng
khoa học ấy vào sản xuất” [34, tr368-369]. Chính vậy mà “phát minh đã trở
thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào
nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích” [34, tr367].
Khi quan sát, nghiên cứu sự tác động của đại công nghiệp, của cách mạng
khoa học kỹ thuật đối với sự ra đời và phát triển của GCCN, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã nhận thấy sự ra đời và phát triển của một bộ phận “giai cấp vô
sản trí thức”. Trong bức thư “Gửi Đại hội quốc tế sinh viên xã hội chủ
nghĩa” Ph Ăngghen đã viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho sinh viên hiểu
được rằng, giai cấp vô sản trí thức phải được hình thành từ hàng ngũ sinh
viên, bên cạnh và trong hàng ngũ những người bạn của nó - các công nhân thủ
công nghiệp - giai cấp ấy có sứ mệnh phải đóng vai trò quan trọng trong cuộc
cách mạng sắp tới” [33, tr613]. Như vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhận thấy
rằng, giai cấp vô sản trí thức sẽ được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, coi
sinh viên là nguồn bổ sung chủ yếu cho “giai cấp vô sản trí thức”, đồng thời
giai cấp vô sản trí thức phải là những người có trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao, cùng với quá trình tăng lên về trí thức của công
nhân hiện đại và quá trình tăng lên của bộ phận “công nhân - trí thức”.

11



12
C.Mác, Ph.Ăngghen còn dự báo khoa học về sự xích lại gần nhau,
chuyển hoá cho nhau giữa công nhân và trí thức, đồng thời nhấn mạnh: “sự
“xích lại gần nhau” và “mất tính đối lập” giữa lao động chân tay và lao động
trí óc trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội và của khoa học, kỹ
thuật và của tiến bộ xã hội” [32, tr36]. Bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen đều là
trí thức, hai ông đã gia nhập vào phong trào công nhân, hoạt động cùng
GCCN để tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận cho phong trào công nhân,
đồng thời hai ông cũng tích cực tham gia vào quá trình trí thức hoá công
nhân.
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng những quan điểm tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã làm phong phú hơn
những quan điểm C.Mác, Ph.Ăngghen trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng đối
với sự nghiệp cách mạng của công nhân nói riêng và đối với sự phát triển nền
kinh tế XHCN nói chung. V.I. Lênin chỉ rõ: “về mặt kinh tế và chính trị,
chính sách kinh tế mới hoàn toàn bảo đảm cho chúng có khả năng xây dựng
được nền móng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tất cả “chỉ” là tuỳ ở lực
lượng văn hoá của giai cấp vô sản và ở đội tiền phong của nó” [27, tr74]. Bởi
theo Lênin văn hóa chính là trí tuệ của nhân dân trong đó có đội ngũ công
nhân.
Khi bàn về tầm quan trọng của việc nâng cao tri thức cho nhân dân lao
động nói chung và công nhân nói riêng trong quá trình xây dựng CNXH,
trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Việc nâng cao năng suất lao động trước hết đòi hỏi
phải có cơ sở vật chất của nền đại công nghiệp...một điều kiện khác để nâng
cao năng suất lao động, trước hết là nâng cao trình độ học vấn và văn hoá của
quần chúng nhân dân” [24, tr229]. “Công nhân phải học tập tri thức của
chuyên gia tư sản bởi vì công nhân, nông dân càng nhanh chóng học tập được
cách tạo ra kỷ luật lao động tốt hơn và kỹ thuật lao động cao, bằng cách sử


12


13
dụng các chuyên gia tư sản để học lấy môn khoa học ấy thì chúng ta sẽ thoát
khỏi “khoản tiền cống” cho các chuyên gia đó” [24, tr221].
Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN, V.I. Lênin nhấn mạnh,
GCCN phải liên minh được với nông dân, đặc biệt liên minh được với trí thức
cách mạng, bởi vì: “…trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô
sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được” [25, tr218].
Đối với các nước lạc hậu đi lên xây dựng CNXH, theo V.I.Lênin, cuộc
cách mạng trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, phát triển khoa học kỹ thuật
càng có tầm quan trọng đặc biệt. Với các nước này, phải tìm mọi cách để
chiếm được những tri thức khoa học của nhân loại. V.I.Lênin sử dụng hình
ảnh: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài” [24, tr684]
làm “vốn” tri thức cho mình để xây dựng CNXH.
Trong bối cảnh thế giới khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang
diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến các lĩnh vực đời sống xã hội thì đội ngũ
công nhân trí thức xuất hiện ngày càng đông đảo, điều đó khẳng định tính đúng
đắn trong tầm nhìn chiến lược và những dự báo có sức thuyết phục của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về trí thức hoá công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết MácLênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đã làm sáng tỏ vai trò
lịch sử của GCCN Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tới việc nâng
cao trình độ học vấn, tay nghề, ý thức giai cấp...cho GCCN.
Hồ Chí Minh đề cập đến “công nông trí thức hoá”, “trí thức hoá công
nông” và tầm quan trọng của quá trình này. Theo Hồ Chí Minh, “trí thức hoá
công nông” không có nghĩa công – nông biến thành trí thức, hoà tan vào trí
thức mà là phải nâng cao trình độ học vấn, trí tuệ, chuyên môn của công –
nông. “Công nông hoá trí thức” cũng không phải là hạ thấp vai trò trí tuệ của
trí thức mà có nghĩa là trí thức phải gắn với công – nông, phục vụ công -


13


14
nông, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, trong đó có
trí thức. Với cách luận giải đó Hồ Chí Minh cho rằng, tầng lớp trí thức và
GCCN phải luôn gắn bó với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong
quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Để phát huy vai trò tiền phong là “gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách
mạng, theo Hồ Chí Minh GCCN “cần phải học tập văn hoá để nâng cao trình
độ tri thức mình” [36, tr204]; đồng thời Người còn căn dặn: “Cần phải có kế
hoạch bồi dưỡng cho cán bộ và công nhân có trình độ văn hoá và kỹ thuật
khá”, thậm chí “phải có trình độ không kém gì kỹ sư” [38, tr224].
Khi bàn về mối quan hệ giữa lao động chân tay với lao động trí óc, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ, không được phép coi khinh, phân biệt đối xử lao động trí óc và lao
động chân tay. Lao động nào cũng vinh quang, lao động nào cũng tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thân nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội và bản thân. Bác dạy:
“Mỗi người chúng ta phải nhận rõ, lao động chân tay và lao động trí óc đều vẻ
vang, đáng quý. Chúng ta phải chống tư tưởng xem khinh lao động” [38, tr39].
Sự xích lại gần nhau, tác động và chuyển hoá giữa công nhân và trí
thức cũng là một xu thế đang diễn ra nhanh chóng do sự phát triển của khoa
học – công nghệ. Để chỉ ra mối quan hệ biện chứng này, Hồ Chí Minh cho
rằng: “Do sáng kiến và kinh nghiệm trong thi đua mà lao động chân tay nâng
cao trình độ kỹ thuật của mình. Do thi đua mà lao động trí óc gần gũi, giúp
đỡ, cộng tác, học hỏi những người lao động chân tay và trở lên những người
trí thức hoàn toàn. Thế là phong trào thi đua làm cho công, nông, binh, trí
thức hoá và trí thức thì lao động hoá” [36, tr457].
Trí thức hoá công nhân là khách quan và là nội dung quan trọng trong
xây dựng GCCN. Trí thức hoá công nhân là nhằm hướng đến cái đích phục vụ

tốt hơn lao động sản xuất và làm tăng vị trí, vai trò của GCCN trong quản lý
sản xuất và quản lý xã hội. Theo Hồ Chí Minh, quá trình thực hiện “trí thức

14


15
hoá công nông” thì vai trò của tầng lớp trí thức là rất quan trọng nhằm
“chuyển” tri thức vào nhân dân nói chung và công nhân nói riêng. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “...vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục...Bây giờ xây
dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được việc. Không có giáo dục,
không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hoá” [38, tr224].
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức hoá công nhân
Trí thức hoá công nhân Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với
nâng cao trình độ mọi mặt đối với GCCN góp phần thực hiện sứ mệnh lịch sử
cao cả của mình. Quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế “…đã, đang và sẽ
xuất hiện nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới do tiến bộ khoa học – công nghệ và
đòi hỏi khách quan của xã hội, của việc quốc tế hoá đời sống. Xu hướng trí thức
hoá công nhân, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc, tăng cường yếu tố trí tuệ
và lao động trí óc ngay trong dây chuyền công nghiệp đang tăng lên” [7, tr32].
Khi khoa học và công nghệ phát triển, nhiều ngành nghề mới xuất hiện
thì trí thức hoá công nhân sẽ trở thành nhu cầu tất yếu để phát triển đất nước
và hội nhập. Đặt ra cho chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn,
trí tuệ, chuyên môn nghề nghiệp và trình độ khoa học công nghệ hiện đại để
công nhân tiếp cận và làm chủ ngành nghề mới. Tiếp tục quán triệt Nghị
quyết Trung ương bảy khoá VII, Nghị quyết Đại Hội Đại biểu Đảng toàn IX
tiếp tục xác định; đối với GCCN phải coi trọng phát triển về số lượng và chất
lượng, nâng cao giác ngộ bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp,
thực hiện “trí thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng sáng tạo
công nghệ mới lao động đạt năng suất chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,

xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong trong sự nghiệp CNH,HĐH và vai
trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.

15


16
Từ khi đất nước đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế dẫn đến sự dịch chuyển nhanh cơ cấu nền kinh tế. Sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo nên những biến động sâu sắc về
số lượng, chất lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ công nhân. Trình độ học vấn,
trình độ tri thức, chuyên môn nghề nghiệp của công nhân thấp và mất cân đối
trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận so với yêu cầu đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước. Nhận rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của GCCN trong giai
đoạn mới Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, phát
triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [12, tr18].
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá X đã ra
nghị quyết chuyên đề về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy CNH, HĐH đất nước”. Bàn về mục tiêu xây dựng GCCN Việt Nam đến
năm 2020 Nghị quyết xác định: “Xây dựng giai cấp Việt Nam lớn mạnh, phát
triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước; ngày càng được trí thức hoá; có trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận làm chủ khoa học – công
nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, thích ứng
nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp,
bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động” [13,
tr50].
Như vậy, cùng với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ GCCN có xu

hướng trí thức hoá ngày càng tăng. Trí thức hoá công nhân đã và đang tạo ra
động lực to lớn bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Nhưng trình độ tri thức sẽ không làm thay đổi bản chất của GCCN những người lao động sản xuất công nghiệp.

16


17
Trên cơ sở nắm vững những quan điểm tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, các nhà khoa học, tác giả quan niệm rằng: Trí thức hoá công nhân là
quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp, cách thức nhằm nâng trình độ học
vấn, trình độ tri thức, chuyên môn nghề nghiệp, khoa học, công nghệ và năng
lực hoạt động thực tiễn, làm chuyển hoá đội ngũ công nhân thành nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước gắn với phát
triển nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; xứng đáng là lực lượng tiền
phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Trí thức hoá công nhân ở nước ta hiện nay là quá trình tất yếu gắn liền
với sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và sự phát
triển lực lượng sản xuất tiên tiến. Với xu thế toàn cầu hoá và quá trình CNH,
HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức là quá trình nâng cao
hệ thống tri thức khoa học - kĩ thuật - công nghệ hiện đại cho GCCN để họ
xứng đáng là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới XHCN; lực
lượng lãnh đạo công cuộc đổi mới và đi tiên phong trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh lịch sử của mình đối với giai
cấp, dân tộc và nhân loại.
Vậy, thực chất của trí thức hoá công nhân là quá trình không ngừng phát
huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhất là tổ chức Công
đoàn các cấp; đẩy mạnh hơn nữa đổi mới nâng cao chất lượng công tác giáo dục
và đào tạo, coi trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao đáp ứng

yêu cầu của quá trình sản xuất hiện đại trong từng giai đoạn; đẩy mạnh quá trình
CNH, HĐH đất nước gắn liền với phát triển nền kinh tế tri thức; ban hành và thực
hiện nghiêm các chính sách xã hội cần thiết bảo đảm việc làm, thu nhập và đời
sống của công nhân góp phần làm chuyển hóa GCCN ngang tầm trí thức. Với
trình độ trình độ học vấn, tri thức, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cao; có khả
năng vận dụng tri thức khoa học, kĩ thuật, công nghệ hiện đại vào hoạt động thực
17


18
tiễn sản xuất, kinh doanh; có năng lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có tác
phong công nghiệp và năng lực cải tiến, sáng tạo công nghệ sản xuất mới; có giác
ngộ giai cấp, có ý thức và hành vi chính trị, pháp luật đúng đắn.
Trí thức hoá công nhân ở Việt Nam hiện nay có cơ sở khoa học từ nhu cầu
khách quan của yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức và đòi hỏi ở chính sự phát triển của bản thân GCCN Việt Nam.
Trước hết, trí thức hoá công nhân do yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã
hội theo hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, đưa
khoa học, công nghệ vào sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Theo đó, cũng làm thay đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp, với hàm lượng chất xám ngày càng tăng.
Tiến hành công nghiệp hoá mới có khả năng đưa nước ta thoát khỏi nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, xây
dựng thành công CNXH.
Đối với nước ta, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Cùng
với quá trình công nghiệp hoá, phải đi vào hiện đại hoá ở một số lĩnh vực,
một số ngành mũi nhọn, tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện đại, thực hiện bước phát triển “rút ngắn lịch sử”, “đi
tắt”, “đón đầu”, khắc phục sự tụt hậu ngày càng xa về khoa học – công nghệ

so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy đòi hỏi phải có một
đội ngũ công nhân có chất lượng cao, có trình độ tri thức, năng lực và bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Hai là, xuất phát từ những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức mà chúng ta
đang hướng đến
Kinh tế tri thức là xu thế khách quan trên thế giới hiện nay. Đó là nền
kinh tế mà sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức con người đóng vai trò

18


19
quyết định đối với hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ, góp phần thay đổi
bộ mặt cuộc sống của nhân loại.
Trong nền kinh tế tri thức, sản xuất chủ yếu dựa vào tri thức. Yếu tố
đầu vào của sản xuất không chỉ là vốn và sức lao động mà chủ yếu là tri thức,
lực lượng lao động trí tuệ gia tăng. Xã hội trở thành một xã hội học tập, con
người cần học tập suốt đời. Xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Ở nước ta, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Phát triển nền kinh tế tri thức luôn đặt ra yêu cầu cao đối với GCCN
Việt Nam. Cùng với quá trình tri thức hoá nền kinh tế chúng ta phải không
ngừng trí thức hoá lực lượng lao động nói chung và GCCN nói riêng, mới có
thể đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế tri thức.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và thế giới
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là khách quan tác động đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là lĩnh vực kinh tế. Khi khoa học & công
nghệ phát triển mạnh mẽ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và làm cho
lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao. Phân công lao động
xã hội không chỉ dừng lại ở biên giới quốc gia mà rộng ra toàn thế giới. Toàn
cầu hoá tạo ra cơ hội, điều kiện để GCCN Việt Nam tiếp cận với những thành

tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; trao đổi, học hỏi kinh nghiệm tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh của các nước; đồng thời để Việt Nam phát
triển quan hệ hợp tác, giao lưu và tăng cường đoàn kết với GCCN và nhân
dân lao động tiến bộ trên thế giới.
Toàn cầu hoá sẽ đưa đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên tất cả các
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, văn hoá. Điều này đòi hỏi cả dân tộc ta
nói chung, GCCN Việt Nam nói riêng phải vươn lên không ngừng. Đó chính
là động lực thúc đẩy mạnh mẽ GCCN Việt Nam phát triển toàn diện. Vì thế,
cần phải xây dựng đội ngũ công nhân không chỉ có trí tuệ, có trình độ học

19


20
vấn, chuyên môn nghiệp vụ cao mà còn phải thành thạo ngoại ngữ, tin học thì
mới có thể đáp ứng được.
Bốn là, do trình độ dân trí của nhân dân nói chung và của đội ngũ công
nhân ngày càng nâng cao
Những năm qua, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, ngành giáo dục
và đào tạo phát triển đáng kể. Việt Nam cơ bản đã hoàn thành phổ cập trung học
cơ sở; nhiều tỉnh, thành phố đang đẩy mạnh phổ cập trung học phổ thông. Cũng từ
đó mà lực lượng lao động xã hội của nước ta có trình độ học vấn tăng nhanh đáng
kể... đây là một lực lượng to lớn, sẵn sàng bổ xung cho bộ phận công nhân trí
thức. Mặt khác, do yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với nền kinh
tế tri thức buộc người công nhân phải không ngừng học tập, phấn đấu nâng cao
trình độ học vấn, trình độ tri thức chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề để đáp ứng
được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
*Nội dung cơ bản của quá trình trí thức hoá công nhân Việt Nam
Trí thức hoá công nhân được xác định là một một nhiệm vụ quan trọng
có nội dung toàn diện. Như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: “…đối với giai cấp công nhân, coi
trọng phát triển số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện trí thức hoá công nhân, nâng cao
năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng xuất, chất
lượng hiệu quả lao động ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong
thời kỳ mới” [9, tr124-125]. Đó là định hướng căn bản cho việc xác định
những nội dung chính của trí thức hoá công nhân ở nước ta hiện nay, cụ thể:
Một là, trí thức hoá công nhân là quá trình không ngừng nâng cao
trình độ học vấn, trình độ tri thức của GCCN

20


21
Trình độ học vấn chính là chìa khoá để tiếp cận tri thức khoa học, công
nghệ hiện đại. Trình độ học vấn của công nhân vừa là mục tiêu vừa là điều
kiện của quá trình nâng cao trình độ tri thức của công nhân. Có trình độ học
vấn, trình độ tri thức cao sẽ giúp cho công nhân tiếp thu, ứng dụng, làm chủ
tri thức khoa học, công nghệ mới, khả năng sáng tạo cải tiến công cụ, nâng
cao chất lượng, hiệu quả trong sản xuất. Khi trình độ học vấn, tri thức được
nâng cao sẽ là cơ sở điều kiện nâng cao phẩm chất và năng lực toàn diện của
GCCN trên các lĩnh vực, xứng đáng là giai cấp cách mạng có đủ bản lĩnh
chính trị, trí tuệ và năng lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội
của đất nước. Vì vậy, thực hiện trí thức hoá công nhân ở Việt Nam phải nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo, để không ngừng nâng cao trình độ học
vấn và tri thức khoa học của GCCN.
Hai là, trí thức hoá công nhân là quá trình không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp của GCCN
Trí thức hoá công nhân không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ học

vấn, tri thức mà điều cốt lõi là trên nền tảng của trình độ học vấn, tri thức
được đào tạo trong các nhà trường hoặc tự đào tạo mà không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của GCCN. Chỉ như vậy, GCCN
mới có khả năng làm chủ công nghệ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của sự
phân công lao động xã hội, chủ động hơn trong quá trình hội nhập, thúc đẩy
nền kinh tế trong nước phát triển trên cơ sở nâng cao năng xuất lao động, tạo
ra nhiều hàng hoá đáp ứng nhu cầu không chỉ trong nước mà còn vươn ra thị
trường thế giới. Vì thế, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
là một nội dung quan trọng của quá trình trí thức hoá công nhân, làm chuyển
biến căn bản khả năng của người công nhân và hình thành lên một bộ phận
lao động mới có chất lượng cao.

21


22
Ba là, trí thức hoá công nhân là quá trình nâng cao năng lực sáng
tạo trong sản xuất, đời sống, nhất là năng lực ứng dụng, sáng tạo công
nghệ mới của GCCN
Bản thân người công nhân nếu có trình độ học vấn, trình độ tri thức
khoa học, kỹ thuật và trình độ chuyên môn tay nghề cao, kết hợp với thực tiễn
lao động sản xuất của mình sẽ là những cơ sở quan trọng giúp họ nâng cao
khả năng cải tiến công cụ, ứng dụng khoa học, công nghệ và sáng tạo ra
những công nghệ mới. Việc cải tiến công cụ sản xuất và ứng dụng khoa học –
công nghệ diễn ra như một tất yếu nhằm nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu
quả trong sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước; tiến tới
xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN.
Bốn là, trí thức hoá công nhân Việt Nam là quá trình nâng cao ý thức
chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công nghiệp và ý thức pháp
luật góp phần phát triển toàn diện GCCN

Trong đấu tranh cách mạng, bản lĩnh chính trị của GCCN Việt Nam
được thể hiện thông qua vai trò lãnh đạo, tổ chức phong trào đấu tranh cách
mạng chống lại sự xâm lược của kẻ thù, đánh thắng hai tên đế quốc to là Pháp
và Mỹ thống nhất đất nước, tiến hành xây dựng CNXH. Trong giai đoạn hiện
nay, đứng trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực, thế giới và
những khó khăn đặt ra trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, bản lĩnh chính
trị của GCCN Việt Nam chính là sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào con đường đi lên CNXH, đường lối quan
điểm của Đảng ta; có ý thức giai cấp, ý thức dân tộc, tinh thần tự lực, tự
cường, tự tôn dân tộc và hợp tác, đoàn kết quốc tế; xác định quyết tâm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

22


23
Đi lên xây dựng CNXH từ một nước nghèo, kém phát triển, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu; công nghiệp chưa phát triển, đội ngũ công nhân xuất
thân chủ yếu từ nông dân, hiểu biết chính trị – xã hội, luật pháp còn ít. Do đó,
trí thức hoá công nhân sẽ giúp họ rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tác
phong công nghiệp theo tiêu chí: “GCCN Việt Nam hiện phải là những người
có tri thức, trung thực, có tác phong công nghiệp và nhân cách cao, tôn trọng
nhân quyền và pháp luật nhà nước” [22, tr150]; khắc phục những tình trạng
vô tổ chức, kỷ luật, tuỳ tiện trong thực hiện quy trình sản xuất và bảo đảm an
toàn lao động và những biểu hiện khác như, rượu chè, cờ bạc, tham gia vào
các tệ nạn xã hội…đi ngược lại với truyền thống đạo lý, thuần phong mỹ tục
của dân tộc và bản chất tốt đẹp vốn có của GCCN.
1.1.2. Vai trò của trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Góp phần hình thành đội ngũ công nhân có số lượng, chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh
tế tri thức và và hội nhập quốc tế
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trên
cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế thế giới, nhất
là từ khi thực hiện chủ trương trí thức hoá công nhân đã tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển GCCN về mọi mặt.
Trước năm 1986 đội ngũ công nhân nước ta có khoảng 3,38 triệu người;
năm 2007 là 9,5 triệu người, chiếm khoảng 11% dân số và 21% lực lượng lao
động xã hội [50, tr50]; đến nay, công nhân nước ta có khoảng 10,5 triệu người lao
động sản xuất trong các lĩnh vực kinh tế và ngành nghề sản xuất.
Về trình độ học vấn của công nhân nước ta trong những năm đổi mới
vừa qua được nâng lên đáng kể. Năm 1985, tỷ lệ công nhân có học vấn

23


24
trung học phổ thông chỉ là 4,2%, đến năm 2000 là 62,2%; năm 2007 con số
này là 69,3% [50, tr58]. Tuy nhiên, trình độ học vấn được nâng lên nhưng
vẫn còn ở mức thấp so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, cơ
cấu phân bố chưa hợp lý. Công nhân có trình độ học vấn cao tập trung chủ
yếu ở thành phố lớn, ở các trung tâm công nghiệp và ở một số ngành, lĩnh
vực sản xuất mũi nhọn như : điện tử, tin học, bưu chính viễn thông…
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề
Trong xu thế hội nhập quốc tế, do yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường, Nhà nước, các doanh nghiệp, cá nhân người công nhân đã quan tâm và
chủ động trong đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, nắm vững

khoa học kỹ thuật.
Những năm qua, phát triển nền kinh tế tri thức đã làm xuất hiện nhiều
ngành nghề mới đòi hỏi trình độ học vấn, trình độ tri thức chuyên môn, kỹ thuật
cao đối với người lao động. Vì thế, trong GCCN đã hình thành một bộ phận
công nhân trí thức, làm công tác quản lý, nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật
gắn với sản xuất kinh doanh, năng động tiếp cận nhanh với khoa học – công
nghệ hiện đại, làm chủ máy móc thiết bị và thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường. Đến nay tỷ lệ công nhân tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên đang tăng
mạnh trong các khu công nghệ, trong các ngành nghề, các doanh nghiệp có thiết
bị công nghệ sản xuất hiện đại; ví dụ như, Dầu khí Việt Nam là 43,3%, Điện lực
Việt Nam là 28,5%, Bưu chính viễn thông là 26,5%, Than khoáng sản Việt Nam
là 16%, Tổng công ty hoá chất Việt Nam là 15,8%, Dệt may là 5,6%… [50,
tr59].
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn,
tay nghề của GCCN đã tăng đáng kể nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước thì vẫn chưa đáp ứng được. Tình trạng thừa công nhân
lao động giản đơn, thiếu công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đang

24


25
diễn ra khá phổ biến trong các doanh nghiệp và khu vực kinh tế. Hiện nay,
GCCN Việt Nam vẫn luôn tích cực học tập nâng cao trình độ mọi mặt tiến tới
làm chủ khoa học – công nghệ hiện đại, có ngành nghề đã tiếp cận được và
ứng dụng thành công công nghệ sản xuất hiện đại vào bậc nhất thế giới như
ngành Điện tử, Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin, Vật liệu mới...
* Nâng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam đối với khu vực và quốc tế

Cùng với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, quá trình trí
thức hoá công nhân đã tạo ra cho GCCN Việt Nam trưởng thành lên rất nhiều và
đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta.
Với đội ngũ hùng hậu chiếm tỷ lệ khoảng 11% dân số và 21% lực
lượng lao động cả nước, GCCN Việt Nam đang là lực lượng sản xuất chủ
yếu, vận hành sử dụng những phương tiện, công cụ sản xuất tiên tiến, hiện đại
nhất, quyết định phương hướng, tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hàng năm, họ đã tạo ra khối lượng giá trị chiếm trên 70% tổng sản phẩm
trong nước, đảm bảo 65% thu ngân sách nhà nước (năm 2006). Các doanh
nghiệp nhà nước đóng góp 37% GDP, 16% thu ngân sách, trong khi đó doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 17% GDP và doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp tập thể là 7% GDP [50, tr89].
GCCN Việt Nam là lực lượng quyết định đến phát triển kinh tế thị trường,
có khả năng sáng tạo trong sản xuất và đời sống xã hội, thích nghi nhanh với cơ
chế thị trường, năng động, chủ động tiếp cận khoa học – công nghệ tiên tiến,
hiện đại. Các cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân bậc cao, thợ giỏi rất năng
động sáng tạo, có nhiều sáng chế, giải pháp hữu hiệu, có giá trị cao được áp
dụng vào sản xuất và quản lý. Ngoài ra, công nhân nước ta đã phát hiện, đề xuất

25


×