Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của NÔNG dân TỈNH NAM ĐỊNH TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.83 KB, 105 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban Chấp hành Trung ương

BCHTW

Chính trị quốc gia

CTQG

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Hệ thống chính trị

HTCT

Nhà xuất bản

Nxb

Trang

tr

Trung ương



TW

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3


2

Chương1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI
TRÒ NÔNG DÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HIỆN NAY

11

1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
và vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
hiện nay
1.2. Thực trạng vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự


11

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn hiện nay và một số vấn đề đặt ra

33

Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT HUY VAI TRÒ NÔNG DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HIỆN NAY

57
2.1. Phương hướng phát huy vai trò nông dân tỉnh Nam Định
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò nông dân tỉnh

57

Nam Định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay
KẾT LUẬN

62
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86


PHỤ LỤC

89


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là chủ trương
lớn của Đảng, là yêu cầu bức thiết, bước đi có ý nghĩa quyết định đưa nông
nghiệp, nông thôn phát triển, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, tạo tiền đề để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát
triển nông nghiệp, nông thôn và đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn
để đẩy nhanh sự phát triển khu vực này. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng đã có
nhiều Nghị quyết liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn như Nghị
quyết TW2, TW4, TW6 (lần 1) khoá VIII; Nghị quyết của Bộ chính trị (11 1998); Nghị quyết TW7 - khoá X năm 2008.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giai cấp nông
dân có vai trò rất to lớn. Bởi nông dân là lực lượng nòng cốt, là chủ thể
trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ của quá trình này. Nông dân là động
lực phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Những thành tựu đạt được
trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
vừa qua là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có đóng góp rất
lớn của nông dân.
Nam Định là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ Sông Hồng, có nhiều
tiềm năng để phát triển. Những năm qua cùng với những thành tựu chung
trong quá trình đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
Nam Định đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Là một bộ phận của giai cấp

nông dân Việt Nam, cùng với sự phát triển của đất nước, nông dân tỉnh Nam
Định không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đã và đang phát huy mọi tiềm năng
của tỉnh, đóng góp không nhỏ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh
và bền vững của tỉnh. Sự lớn mạnh của nông dân tỉnh là điều kiện tiên quyết


4

bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo
định hướng XHCN ở Nam Định.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông thôn
ở Nam Định vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Nền kinh tế vẫn mang nặng
dấu ấn sản xuất nhỏ, độc canh cây lúa là chủ yếu. Đời sống của người nông
dân vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, những vấn đề chính trị, xã hội như
hiện tượng nông dân mất đất sản xuất, hiện tượng phân hoá giàu nghèo, tình
trạng ô nhiễm môi trường, tình trạng khiếu kiện, khiếu nại, gây mất ổn định về
trật tự an ninh ở một số địa phương vẫn tiếp tục diễn ra đang ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của người nông dân và tiềm ẩn nguy cơ đối với an ninh chính trị –
xã hội. Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân cơ bản là do vai trò chủ thể của người nông dân ở đây chưa được phát huy
cao độ. Vì vậy, phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Nam Định hiện nay không chỉ là vấn đề tất yếu khách
quan mà còn là đòi hỏi bức thiết của chính sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung
và phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Nam Định nói riêng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Vai trò nông dân tỉnh Nam
Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nông dân và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng

XHCN nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Vì vậy, vấn đề này được
nhiều ngành, nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài quân đội, cả trong nước và
ngoài nước nghiên cứu. Ở trong nước, các công trình đã đề cập đến vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên các mặt, các góc độ khác nhau.


5

Trong công cuộc đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân
luôn được quan tâm, đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng và được cụ thể trong
nhiều Nghị quyết như Nghị quyết TW2, TW4, TW6 (lần 1), TW7 khoá VIII;
Nghị quyết của Bộ chính trị (11 - 1998) Về một số vấn đề phát triển nông
nghiệp và nông thôn; Nghị quyết TW5 khoá IX với chuyên đề Về đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010;
gần đây là Nghị quyết TW7 khoá X (2008) đã thể hiện rõ quá trình hình
thành, bổ sung, phát triển và hoàn thiện chủ trương, chính sách về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn và chính sách đối với nông dân.
Dưới góc độ nghiên cứu về kinh tế - xã hội nông thôn có các công trình
như: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX và một số
định hướng đến năm 2010” của tác giả Trần Ngọc Bút, Nxb CTQG, Hà Nội,
(2002); Công trình nghiên cứu: “Phát triển nông thôn” của Phạm Xuân
Nam, Nxb Khoa học xã hội (1997) nghiên cứu về nông thôn dưới khía cạnh
dân số và kế hoạch hoá gia đình, lao động và tạo việc làm ở nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sử dụng và quản lý tài nguyên: đất
và nước, sự phân tầng xã hội và việc xoá đói, giảm nghèo.
Gần đây có các công trình: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới” của Tiến sĩ. Lê Quang Phi, Nxb
CTQG, Hà Nội, (2007). Nội dung của cuốn sách bước đầu làm rõ sự lãnh đạo
của Đảng trước yêu cầu khách quan của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nước ta; tập trung vào tổng kết Đảng lãnh đạo đẩy mạnh CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006; rút ra một số kinh nghiệm
trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;
cung cấp một số tư liệu tham khảo về đổi mới đối với khu vực này.
Một số công trình khoa học nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn như: “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn –


6

một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Hồng Vinh chủ biên, Nxb
CTQG, Hà Nội (1998); “ Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” gồm 2 tập của Hội Khoa học Kinh tế Việt
Nam, Ban đào tạo và phổ biến kiến thức, Nxb CTQG, Hà Nội (1998);… Các
công trình này đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta, nêu lên một số xu hướng biến đổi, vận
động của kinh tế nông nghiệp trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm rõ nội
dung, chủ trương, giải pháp chủ yếu trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
Nghiên cứu về nông dân có đề tài cấp bộ “Tác động của tâm lý làng,
xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế – xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc
Bộ ở nước ta hiện nay” do Tiến sĩ Lê Hữu Xanh chủ biên, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2001, “Những căn cứ lý luận và thực tiễn cấp thiết để thực hiện tốt liên
minh công – nông – trí thức ở nước ta hiện nay” của Viện chủ nghĩa xã hội
khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (2001); “Để nông
nghiệp, nông thôn phát triển bền vững, nông dân giàu hơn”, Nguyễn Tuấn
Dũng, Tạp chí Cộng sản, số 28 (tháng 10 – 2003); Các công trình trên đề cập
đến nhiều vấn đề khác nhau như đời sống vật chất, tinh thần, lối sống, phong
tục tập quán, xu hướng biến đổi của nông dân, quyền làm chủ của người nông
dân và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nâng cao đời sống của người nông
dân trong quá trình CNH, HĐH đất nước.

Các công trình như: “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và tác động của nó đối với tăng cường sức
mạnh phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực này”, Nguyễn Văn Bảy
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội (2001); “Phát
triển công nghiệp nông thôn – mấu chốt trong chiến lược phát triển nhanh
và bền vững nông nghiệp, nông thôn”, Nguyễn Đình Bích, Tạp chí Cộng


7

sản, số 17 (tháng 6 - 2003); “Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn theo yêu cầu rút ngắn ở nước ta” , Ngô Văn Giang,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 303 (tháng 8 - 2003);… Các các trình khoa
học này đề cập các nội dung: Quan niệm, vai trò của CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, vai trò của công nghiệp nông thôn trong CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam; hệ thống hoá những quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; những
vấn đề đặt ra, đề xuất những phương hướng, giải pháp trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn; mối quan hệ giữa CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở đồng bằng Bắc Bộ với củng cố, xây dựng, tăng cường sức mạnh
phòng thủ ở khu vực này, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
thế trận chiến tranh nhân dân.
Một số Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ: “Sự chuyển hướng của giai
cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Luận án
tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đức Hưởng, Hà Nội (1991); “Đặc điểm và xu
hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay”,
Luận án tiến sĩ Triết học, Bùi Thị Thanh Hương, Hà Nội (2000); “Một vài
suy nghĩ về vấn đề nông dân trong xây dựng chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận văn thạc sĩ
Triết học, của Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Hà Nội (1995); “Thực hiện dân chủ ở

nông thôn tỉnh Hải Dương hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết học của Phạm
Văn Hiền (2009); “ Nông dân Tây Bắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân hiện nay” - Luận án tiến sỹ Triết học của Đỗ Ngọc Sơn (2009), trong
luận án này tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về vai trò nông dân Tây Bắc trong
xây dựng nền QPTD giai đoạn hiện nay; đánh giá thực trạng vai trò nông dân
Tây Bắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân giai đoạn hiện nay và làm rõ
nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát


8

huy vai trò nông dân Tây Bắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân giai đoạn
hiện nay… Các đề tài này bước đầu đi nghiên cứu sự phân hoá giàu nghèo, đặc
điểm của giai cấp nông dân trong giai đoạn đổi mới đất nước, làm rõ xu hướng
biến đổi khách quan của giai cấp nông dân Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo,
trình bày một số phương hướng đưa giai cấp nông dân Việt Nam phát triển theo
định hướng XHCN. Các đề tài này tuy bàn đến đối tượng là nông dân nhưng chưa
đi sâu vào vai trò của nông dân cũng như việc phát huy vai trò của nông dân trong
sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân dưới các góc độ khác
như: “Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay từ nghiên cứu lý luận đến
ứng dụng thực tiễn” của tác giả Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6,
2002; tác giả Ngô Đức Thịnh, “Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội
và vốn xã hội cho phát triển”, Tạp chí Cộng sản số 791, tháng 9 - 2008 với cách
tiếp cận nông thôn, nông dân Việt Nam mới đi từ các hình thức liên kết, các mạng
lưới xã hội và vốn xã hội từ đó có thể phát hiện và khơi thông các nguồn lực nông
thôn vốn tiềm ẩn thành nguồn lực cho phát triển trong thời đại CNH, HĐH.
“Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ỏ cơ
sở” của tác giả Tòng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản số 804 (tháng 10 - 2009),
đã khẳng định thông qua 10 năm thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở nhận

thức về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có nông
dân đã có nhiều chuyển biến rõ nét, tinh thần làm chủ và trách nhiệm thực
hành dân chủ của nhân dân đã và đang trực tiếp giải quyết có hiệu quả nhiều
vấn đề đặt ra ở cơ sở.
Về phía tỉnh Nam Định, những năm qua cũng có nhiều đề tài nghiên cứu ở
các lĩnh vực khác nhau, tiêu biểu như: “Giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ
công nghiệp tỉnh Nam Định” của Sở công nghiệp (2002); “Cấp uỷ đảng cơ sở lãnh
đạo, chỉ đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn” của


9

Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ (2003); “Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản
phẩm của làng nghề truyền thống” của Sở Văn hoá và Thông tin tỉnh (2004);
“Chương trình thực hiện nghị quyết Trung ương 7 khoá X của tỉnh Nam Định” của
Tỉnh ủy Nam Định ( 2009).
Như vậy, cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học, các bài báo khoa
học nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu đến vấn đề: Vai trò nông dân tỉnh Nam
Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Vì vậy, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu độc lập, không trùng
lặp với các công trình, luận văn, luận án đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò nông dân
tỉnh Nam Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời gian
qua, đề ra phương hướng, một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò của họ
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luân văn

+ Làm rõ về vai trò của nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời gian qua, chỉ rõ nguyên nhân và một
số vấn đề đặt ra cần giải quyết.
+ Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát
huy vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn


10

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò nông dân tỉnh Nam Định
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vấn đề vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 2006 đến năm 2010.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giai cấp nông
dân và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.


11

* Cơ sở thực tiễn của luận văn
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình
thực hiện vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn ở tỉnh Nam Định trong những năm qua (từ năm 2006 đến năm
2010), thông qua các số liệu báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ
quan chức năng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội, cùng kết
quả điều tra khảo sát thực tế của tác giả về vai trò nông dân tỉnh Nam Định
trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
* Phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp
với phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgíc và lịch sử, hệ thống, so sánh, điều
tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy môn chủ nghĩa xã
hội khoa học.
- Luận văn cung cấp nguồn tư liệu để các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các
tổ chức chính trị xã hội ở địa phương, nhất là ở cơ sở tham khảo trong quá trình
lãnh đạo phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở địa phương mình.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


12

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NÔNG
DÂN TỈNH NAM ĐỊNH TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HIỆN NAY
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và vai
trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Nam
Định hiện nay
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện
nay
Ở nước ta hiện nay, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có vị trí quan
trọng hàng đầu, tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình CNH,
HĐH đất nước, góp phần quan trọng giải phóng sức lao động dồi dào và nguồn
đất đai rộng lớn ở nông thôn, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được
độc lập chủ quyền của đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn
đề chiến lược, có tầm quan trọng chiến lược đối với sự ổn định và phát triển
của đất nước, chiếm vị trí, vai trò to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn không chỉ là vấn đề kinh tế đơn
thuần mà còn là vấn đề an sinh xã hội, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn, thay
đổi cơ cấu dân số nông thôn - thành thị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu
nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn, làm cho thu nhập kinh tế khu
vực nông thôn không chênh lệch quá xa so với khu vực đô thị, đảm bảo cho
sự nghiệp CNH, HĐH thành công. Đảng ta khẳng định: “Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [18, tr.94]. Do vậy, trong
giai đoạn hiện nay nước ta cần tập trung trước tiên vào phát triển nông nghiệp và


13

nông thôn một cách toàn diện, đồng bộ nhằm tạo đà cho toàn bộ nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và bền vững.
Chủ trương, đường lối của Đảng ta về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Từ thực tiễn thế giới và đất nước, Đảng ta từng bước đề ra chủ trương,
đường lối CNH, HĐH cho phù hợp. Đại hội lần thứ VI đánh dấu sự nghiệp

đổi mới toàn diện đất nước đã xác định: Trước hết là đổi mới về kinh tế, thực
hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp
trong việc đáp ứng những nhu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu sản xuất tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Phấn đấu đưa nông nghiệp
nước ta trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Văn
kiện Đại hội chỉ rõ: "Công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền
với sự phát triển một nền nông nghiệp toàn diện" [9, tr. 40].
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng với
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
một lẫn nữa khẳng định rõ hơn quan điểm “phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến; phát triển toàn diện nông thôn và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế
xã hội” [10, tr.63]. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng năm 1994
khẳng định dứt khoát: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát
khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định
chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã
hội chủ nghĩa" [13, tr.26].
Phát triển tư tưởng cơ bản đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng và tại các Hội nghị TW 4, Nghị quyết 6 của Bộ chính trị khoá VIII
tiếp tục cụ thể hoá hơn về những nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn đã khẳng định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn"[14, tr.86] nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến và sản xuất hàng hoá lớn, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.


14

Đồng thời chỉ rõ những nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng

tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản
phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn
về an ninh lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công
nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện thuỷ
lợi hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá... phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao... phát triển các ngành
nghề, làng nghề truyền thống... xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [14, tr.87].
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Trong nhiều năm tới,
vẫn coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một trọng
điểm cần tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết" [17, tr.32]. Đặc biệt
tại Hội nghị TW 5 khoá IX (năm 2002) về “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010” đã tiếp tục làm rõ hơn
những quan điểm của Đảng về quan niệm, cũng như xác định các mục tiêu,
phương hướng, quan điểm và nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nghị quyết TW 5 đã đưa ra tổng quát về CNH, HĐH nông nghiệp và CNH,
HĐH nông thôn nhằm tạo ra một bước đột phá, nhảy vọt mạnh mẽ để khai
thác hết mọi tiềm năng và nội lực của đất nước.
Đến Đại hội X của Đảng năm 2006 tiếp tục khẳng định: Đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận
thức ngày càng đúng đắn vị trí và vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông
dân và nông thôn trong phát triển đất nước. Do vậy, tại Nghị quyết TW 7
khoá X (2008) đã đề ra quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để


15

phát triển toàn diện và vững chắc nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vì lợi ích
của người dân, vì sự phát triển cộng đồng và thực hiện đoàn kết dân tộc nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Khái niệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn
với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí
hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là
công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các
khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của hàng nông sản hàng hoá trên thị trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ
trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi
trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn [18,
tr.93,94].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn tuy
là hai quá trình có phạm vi, đối tượng và cách thức tiến hành khác nhau, nhưng
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động cùng nhau phát triển trong cùng một khu vực
rộng lớn ở nông thôn, chủ thể lao động chủ yếu là người nông dân. Bởi vậy, tách
ra giữa CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn chỉ nhằm nhận thức
về bản chất khoa học của mỗi quá trình, từ đó xác định những chủ trương, giải
pháp tác động phù hợp, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trên thực tế, hai quá trình
này luôn gắn bó biện chứng, bổ sung hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.


16

Thực chất của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tạo ra

những tiền đề cần thiết về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ,
phương tiện, phương pháp - những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho
chủ nghĩa xã hội. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn không chỉ
đơn giản là phát triển công nghiệp nông thôn và HĐH một số công đoạn sản
xuất nông nghiệp như cơ giới hoá, điện khí hoá mà nó còn bao gồm toàn bộ
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống vật chất và văn hoá tinh
thần nói chung ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp hiện đại
và phương thức tổ chức tiên tiến.
Mục tiêu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là: Phát triển toàn
diện nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ, các ngành nghề
đa dạng, trú trọng phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động theo hướng CNH, HĐH, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tích cực giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống cho dân cư
nông thôn, thực hiện xoá đói, giảm nghèo; phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
nông thôn; bảo vệ môi trường sinh thái, làm tốt công tác bảo vệ rừng và trồng rừng.
Nâng cao hiệu quả trong khai thác, nuôi trồng thuỷ, hải sản; gắn CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, làm chủ vùng biển của Tổ quốc bảo đảm
ổn định về chính trị - xã hội và đoàn kết trong dân cư nông thôn.
Quan điểm chỉ đạo trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay:
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, đưa
nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn, là nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng cả trước mắt và lâu dài.


17


Gắn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với thực hiện dân chủ hoá, tạo
sự phân công lao động mới, tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân và
xây dựng nông thôn mới.
Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao cả đời sống xã hội và nguyên liệu cung cấp cho các ngành công
nghiệp và xuất khẩu.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng trong nền kinh
tế nông thôn. Tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác, các loại hình hợp
tác xã và dịch vụ, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay là:
Một là, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa. Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp với cơ cấu hợp lý, tạo ra
sản phẩm hàng hoá đa dạng, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của
đời sống xã hội và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu
và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất
và đời sống ở nông thôn như thuỷ nông, thú y, dịch vụ cung ứng vật tư.
Hai là, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và kinh tế tri
thức vào sản xuất, đưa nông nghiệp, nông thôn phát triển lên một trình độ
mới. Thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, sinh học hoá trong các
ngành sản xuất nông nghiệp không ngừng nâng cao năng suất và hiệu quả của
sản xuất nông nghiệp.
Ba là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông
thôn; xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất của lực lượng sản
xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


18


Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và các cơ
sở kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cho nông nghiệp, nông thôn về điện
đường, trường, trạm, từng bước xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.
* Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định
Đặc điểm tự nhiên: Tỉnh Nam Định nằm ở vùng duyên hải Bắc Bộ,
tiếp giáp các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, phía Đông Nam giáp
vịnh Bắc Bộ và nằm giữa hai con sông Hồng và sông Đáy, có diện tích tự
nhiên là 1.669km 2 bằng 0,52% diện tích cả nước, đứng thứ 57/63 tỉnh,
thành phố. Đất đai Nam Định được chia làm 2 vùng rõ rệt: đất đồng bằng
và đất ven biển. Khí hậu Nam Định thuận lợi cho phát triển kinh tế nông lâm - ngư nghiệp với các loại cây trồng vô cùng phong phú, nhiều nhất là
lúa, ngô, đỗ, lạc, vừng, các loại rau và hoa quả. Nam Định có bờ biển dài
72km, với nhiều hải sản quý theo thống kê có khoảng 746 loài, hàng năm
có thể khai thác được từ 100 đến 120 ngàn tấn hải sản. Vùng ven biển
Nam Định có những khu rừng ngập mặn, thu hút tới 150 loài chim sinh
sống, số lượng có khi lên đến 25.000 con. Vùng đất ngập mặn Xuân Thuỷ
là vùng đất đầu tiên của Việt Nam được ghi vào Công ước quốc tế bảo vệ
đất ngập nước (RAMSAR). Nơi đây có nhiều cánh đồng muối như cánh
đồng muối Văn Lý.
Đặc điểm văn hoá: Nam Định là địa phương có truyền thống văn hiến,
yêu nước và cách mạng, nơi phát tích của Vương triều Trần nổi tiếng với hào
khí “Đông A”, ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Cả tỉnh hiện nay có
khoảng 1.655 di tích lịch sử văn hoá, khoảng 300 nhà thờ, đặc biệt là hơn
3.000 từ đường dòng họ, hàng trăm vùng có làng nghề truyền thống và các làn
điệu dân ca, hàng ngàn bản hương ước, hàng trăm văn chỉ, văn từ. Nam Định
là mảnh đất có truyền thống hiếu học, trong chế độ khoa bảng thời phong
kiến, cả tỉnh có 5 trạng nguyên, 3 bảng nhãn, 3 thám hoa, 14 hoàng giáp, 62


19


tiến sỹ và phó bảng. Đây là quê hương của nhiều danh nhân, danh sỹ, võ
tướng mà tên tuổi và sự nghiệp của họ đã được sử sách ghi công mà nổi bật là
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Nguyễn Hiền,
Lương Thế Vinh, Đào Sử Tích, Trần Bích San…
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 đến nay, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Định đã viết tiếp những trang sử chói lọi
về truyền thống chống ngoại xâm và cần cù, sáng tạo trong lao động, xây dựng
quê hương đất nước giàu đẹp, tiêu biểu như: Cố Tổng Bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng Trường Chinh, đồng chí Lê Đức Thọ, nhạc sỹ Văn Cao…
Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo Đảng, trực tiếp là Tỉnh uỷ
Nam Định, nhân dân trong tỉnh đang phát huy tối đa các nguồn lực để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần làm nên
nhiều kỳ tích trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Đặc điểm kinh tế - xã hội: Nam Định có 01 thành phố trực thuộc tỉnh
và 09 huyện. Theo điều tra dân số năm 2009 Nam Định có 1.825.771 người,
với mất độ dân số 1.196 người/km 2. Dân cư sống ở nông thôn chiếm 84%, ở
thành thị chiếm 16%, thuộc các dân tộc Việt, Mường, Tày, Hoa. Năm 2006
ước GDP của tỉnh đạt 713,34 tỷ đồng, năm 2009 đạt 1.283,16 tỷ đồng. Năm
2009 cơ cấu kinh tế là: Nông - lâm - thuỷ sản: 34,42%%; Công nghiệp - xây
dựng: 35,08%; Dịch vụ: 33,50%.
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Nam
Định hiện nay
Sau khi tái lập năm 1997, tỉnh Nam Định phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn: là một tỉnh thuần nông, độc canh cây lúa, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm,
cơ cấu kinh tế còn mất cân đối gữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, thu
nhập bình quân đầu người mới bằng 59,69% mức bình quân của cả nước và
bằng 68, 59% của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Từ thực tế đó, tất yếu


20


đặt ra phải tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh. Trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn luôn được tỉnh đặc biệt quan tâm, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XVII nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đề ra 6 chương trình kinh tế - xã hội,
trong đó có 3 chương trình liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá XVI) đã ban hành Nghị quyết 10 NQ/TU về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, Chương trình 05/CTr TU về phát triển kinh tế biển. Để tiếp tục đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh khóa XVII ra Nghị quyết số 03 - NQ/TƯ tháng 12/2006 về phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010,
định hướng đến năm 2020.
Căn cứ vào mục tiêu chung của cả nước, căn cứ vào điều kiện kinh tế
xã hội, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, nội dung của CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Nam Định hiện nay là:
Một là, phát huy lợi thế của tỉnh để chuyển nhanh sản xuất nông nghiệp
sang sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Trong nông
nghiệp, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng giá trị ngành chăn nuôi và khai
thác, nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ, mở rộng giao lưu, trao đổi hàng hoá. Khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển dịch vụ ở nông thôn, nhất là dịch vụ chế biến và
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Hai là, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, trọng tâm là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin. Có
chính sách thu hút các nhà khoa học trong hợp tác, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất. Tăng dần hàm lượng khoa học - công nghệ trong giá trị


21


nông sản. Từng bước thực hiện cơ khí hoá, điện khí hóa, thủy lợi hóa và ứng
dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
Ba là, khuyến khích mở rộng các hình thức hợp tác, liên doanh, liên
kết phát triển sản xuất, phát triển liên hiệp các hợp tác xã chuyên ngành, đa
ngành. Tạo điều kiện hình thành các hình thức hợp tác mới. Phát triển kinh tế
hộ, trang trại, các ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, phát huy vai trò tự chủ
của nông dân trong sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, tiếp tục thực hiện cơ chế hỗ trợ để đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn từng bước xây dựng nông thôn mới văn minh,
hiện đại. Tập trung vào củng cố, hiện đại hóa điện, đường, trường, trạm. Tăng
cường đầu tư xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn. Thực hiện tốt dự án nâng cấp lưới điện trung áp trên địa bàn. Xây dựng
các mô hình quản lý điện nông thôn, giảm thất thoát điện năng.
Như vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu
khách quan, nhiệm vụ cấp bách của cách mạng nước ta trong thời kỳ đầu
CNH, HĐH đất nước. Khẳng định vấn đề này cũng chính là khẳng định vai
trò to lớn của giai cấp nông dân nói chung và nông dân tỉnh Nam Định nói
riêng trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
1.1.2. Vai trò nông dân tỉnh Nam Định trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay
* Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của nông dân
Quan niệm về giai cấp nông dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nông dân hay những người
“tiểu nông” là “một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều
sống trong một hoàn cảnh như nhau nhưng lại không nằm trong mối quan hệ


22


nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên
hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau” [26, tr.264]. V.I. Lênin cũng
đưa ra quan niệm về giai cấp nông dân (tiểu nông) “người tiểu nông tức là
những dân cày, ít ruộng, có riêng hay lĩnh canh được những mảnh đất nhỏ,
khiến khi họ cày cấy để cung cấp cho nhu cầu gia đình và nhu cầu sản xuất
của họ, họ không phải thuê nhân công bên ngoài”[24, tr.209]. Hồ Chí Minh
quan niệm: Giai cấp nông dân là cộng đồng những người lao động, nhân tố
chủ yếu của lực lượng sản xuất và là những người tư hữu nhỏ. Người
khẳng định: “Nước ta là nước nông nghiệp, hơn 9/10 dân ta là nông dân.
Hơn 9/10 nông dân là trung, bần và cố nông” [30, tr.710].
Trong Từ điển “Chủ nghĩa cộng sản khoa học”, khái niệm giai cấp nông
dân cũng được khái quát như sau: “Nông dân là một giai cấp chuyên sản xuất
những sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về
tư liệu sản xuất và tham gia sản xuất bằng lao động của chính mình” [42, tr. 227].
Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự vận động phát
triển của đất nước, cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung và giai cấp nông dân Việt
Nam nói riêng đang diễn ra rất phức tạp. Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị
Tiến: “Giai cấp nông dân Việt Nam gồm nông dân nhận ruộng khoán của các
doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước, hộ nông dân trong các hợp tác xã nông
nghiệp đã chuyển đổi và hộ nông dân cá thể” [41, tr.65]. Tiến sĩ Đỗ Ngọc Sơn
quan niệm: “Giai cấp nông dân Việt Nam là cộng đồng những người lao động,
mà hoạt động của họ gắn liền với sản xuất nông nghiệp ở trình độ sản xuất nhỏ
là phổ biến dưới hình thức hộ gia đình, dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoặc sở
hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất” [38, tr.25].
Dựa trên các quan điểm giai cấp nông dân của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tham khảo quan điểm của các nhà khoa
học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, tác giả đưa ra quan niệm về


23


giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay như sau: Giai cấp nông dân Việt
Nam là một lực lượng xã hội to lớn, địa bàn cư trú của họ ở nông thôn,
gồm những người lao động sản xuất trên lĩnh vực nông nghiệp trong khu
vực kinh tế hợp tác và kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Từ quan niệm về giai cấp nông dân, với phương pháp luận khoa học
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhận thấy rõ vai trò to lớn của nông
dân trong sự phát triển của xã hội cũng như trong các cuộc đấu tranh cách
mạng. Ở mọi quốc gia “người nông dân đều là một nhân tố rất cơ bản của
dân cư, của nền sản xuất và của lực lượng chính trị” [28 ,tr.715].
Giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của khối liên minh công
nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giai cấp
công nhân không thể thắng lợi nếu không liên minh được với giai cấp nông
dân. Tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp (1848 - 1850), C.Mác đã viết:
“Công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào và cũng không thể đụng
đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản nổi dậy chống
chế độ tư sản, chống sự thống trị của tư bản, chưa bị tiến trình của cách mạng
buộc phải đi theo những người vô sản coi là đội tiên phong của mình” [27, tr.30].
Phát triển những tư tưởng này V.I.Lênin đã khẳng định ý nghĩa chiến
lược của vấn đề nông dân, Người chỉ rõ: “Nếu không liên minh với nông dân
thì không thể có được chính quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ được
đến việc duy trì chính quyền đó” [25, tr.57]. Theo Lênin, giai cấp nông dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân không chỉ quan trọng ở giai đoạn
giành chính quyền mà còn có ý nghĩa to lớn trong quá trình giữ chính quyền,
xây dựng xã hội mới. Khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản phải thiết



24

lập nền chuyên chính vô sản dựa trên nền tảng liên minh công nông, đây
chính là điều cần và đủ cho sự vững mạng của chính quyền Xô viết. V.I.Lênin
chỉ rõ: “Nguyên tắc tối cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên
minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai
trò lãnh đạo chính quyền nhà nước” [23, tr.57]. Sau nội chiến, V.I.Lênin đã
thực hiện chính sách Kinh tế mới, trong đó chọn giải pháp “bắt đầu từ nông
dân”, từ khôi phục nông nghiệp, từ cải thiện đời sống nông dân để ổn định
tình hình đất nước, phát triển kinh tế - xã hội.
Nghiên cứu kế thừa và phát triển quan điểm về vai trò giai cấp nông dân
của chủ nghĩa Mác - Lênin và thông qua thực tiễn hoạt động cách mạng phong
phú, Hồ Chí Minh là người đầu tiên nhìn thấy khả năng cách mạng to lớn của
nông dân. Theo Người, nông dân Việt Nam rất yêu nước, họ là lực lượng đông
đảo, hùng hậu trong dân tộc chống đế quốc, chống phong kiến, là bạn đồng minh
chiến lược của giai cấp công nhân trong đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ: “Nông dân lao động là lực lượng rất to lớn
của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân” [33, tr.23].
Theo Hồ Chí Minh sức mạnh đoàn kết toàn dân - trong đó chủ yếu là
nông dân - là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Nếu giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không lôi kéo được lực
lượng cách mạng đông đảo nhất này trong dân tộc về phía mình thì không thể
đưa cách mạng đi đến thành công: “Cách mạng muốn thành công thì phải lấy
dân chúng (công nông) làm gốc” [31, tr.280]. Khẳng định vai trò to lớn của
nông dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng
bào nông dân lao động. Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy sẽ làm xoay
trời, chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy
đánh tan” [34, tr.185].
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh nông dân là

người trực tiếp thực hiện và cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng


25

và Nhà nước, góp phần to lớn vào xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội
mới tốt đẹp. Hồ Chí Minh viết: “Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông dân ta
thịnh thì nước ta thịnh” [32, tr.215].
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nông dân là lực lượng xã hội đông đảo,
trực tiếp thực hiện vai trò quan trọng trong nông nghiệp. Lao động nông thôn
không chỉ là nguồn nhân lực chủ yếu và quyết định trong phát triển sản xuất
và kinh tế nông thôn mà còn có đóng góp quan trọng trong các hoạt động kinh
tế - xã hội khác của cả nước, nhất là trong việc cung cấp nguồn lao động cho
công nghiệp, đô thị hóa. Cư dân nông thôn chiếm đa số dân cư cả nước, tạo
nền tảng của xã hội và lực lượng chính trị của chế độ. Vai trò quan trọng của
của nông dân Việt Nam không chỉ được thể hiện trong phát triển kinh tế nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới mà còn trong toàn bộ tiến trình đổi mới, phát
triển và hiện đại hóa xã hội Việt Nam nói chung, nhất là trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thực tiễn lịch sử cách mạng nước ta qua các giai đoạn dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh vai trò của giai cấp nông
dân là vô cùng quan trọng. Hiện nay, nông dân vẫn là lực lượng đông đảo và
giữ vai trò quan trọng, kề vai sát cánh cùng các giai tầng xã hội khác lập nên
những kỳ tích thật đáng tự hào, góp phần quan trọng đưa nông nghiệp nước
ta phát triển toàn diện, thúc đẩy đổi mới và thực hiện thắng lợi mục tiêu của
sự nghiệp đổi mới đất nước.
* Đặc điểm nông dân tỉnh Nam Định

Về cơ cấu và xu hướng biến đổi, trong cơ cấu giai cấp - xã hội của
tỉnh, nông dân chiếm một tỷ trọng lớn, năm 2009 dân số sống ở nông thôn
chiếm 84% số dân và chiếm 70,4% tổng số lao động trong toàn tỉnh. Họ là


×