DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Chính trị quốc gia
CTQG
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNH, HĐH
Đoàn Thanh niên Cộng sản
ĐTNCS
Hệ thống chính trị
HTCT
Hệ thống chính trị cơ sở
HTCTCS
Hội Cựu chiến binh
HCCB
Hội đồng nhân dân
HĐND
Hội Nông dân
HND
Hội Phụ nữ
HPN
Mặt trận Tổ quốc
MTTQ
Nhà xuất bản
Nxb
Nông thôn mới
NTM
Ủy ban nhân dân
UBND
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH
BẮC GIANG HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị
13
cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
1.2. Thực trạng thực hiện vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
13
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay và nguyên nhân của thực trạng
Chương 2 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
35
HUY VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN
NAY
2.1. Yêu cầu phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong
57
xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò của hệ thống
57
chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI TIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
65
83
85
91
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta là cấp cuối cùng có vai trò trực tiếp
trong tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và các kế hoạch kinh tế - xã hội của địa phương; đặc biệt đối với
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM. Việt Nam là
một nước nông nghiệp trình độ sản xuất nhỏ lẻ lạc hậu, sau khi giành được
độc lập dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua phát triển chế độ tư
bản chủ nghĩa. Số lượng nông dân chiếm đa số trong dân cư, cho nên việc
xây dựng NTM để thu hẹp dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn là
một nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nhận thức được vai trò, tầm
quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan
tâm, chăm lo đến vấn đề này. Điều đó được thể hiện thông qua các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn mà
tiêu biểu là Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Hiện thực hóa Nghị quyết Trung ương, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04-6-2010 phê duyệt Chương trình mục
tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM ở tỉnh Bắc
Giang phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều lực lượng tham gia thì mới đạt kết quả,
trong đó hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò quyết định tổ chức thực hiện
mục tiêu, các chỉ tiêu cụ thể của chương trình đề ra. Hệ thống chính trị cơ sở ở
Bắc Giang cũng như ở các địa phương khác trên cả nước là cấp cuối cùng và
gần dân, trực tiếp tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, mục
tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương. Tính đặc thù của tỉnh Bắc Giang là một tỉnh
đặc thù có cả đồng bằng, trung du và cả núi cao, sản xuất nông nghiệp là chủ
3
yếu, dân số gần 1,6 triệu người với 90,4 % dân cư sinh sống ở vùng nông thôn.
Cũng như các địa phương khác ngay từ khi có nghị quyết Nghị số 26-NQ/TW
và Quyết định số 800/QĐ-TTg, Bắc Giang ban hành Nghị quyết số 01- NQ/TU
ngày 27- 4-2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2011-2015; Nghị quyết số 145-NQ/TU ngày 14-7-2011 của Ban Thường
vụ tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020.
Thực tế hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Bắc Giang những
năm qua đã đạt được thành tựu quan trọng, song vẫn còn những hạn chế như
nhận thức còn chưa đồng đều, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình xây
dựng NTM. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ vẫn còn
xảy ra ở một số nơi. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, biến chất vừa vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân vừa tham ô, tham nhũng làm mất lòng tin trong
nhân dân. Những hạn chế, yếu kém trên của hệ thống chính trị cấp cơ sở đã
làm mất niềm tin của nhân dân và có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, quá trình xây dựng nông thôn mới của toàn tỉnh.
Những kiến giải nêu trên đã đặt ra yêu cầu khách quan cho sự cần thiết
phải nhận thức đúng đắn hơn nữa về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong
việc xây dựng NTM. Đồng thời có những quan điểm, giải pháp phù hợp để đổi
mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Bắc Giang nhằm
phát huy những thế mạnh của địa phương, hạn chế những yếu kém, giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân ở nông
thôn. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Vai trò của hệ
thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bắc Giang hiện nay”
làm đề tài luận văn chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng nông thôn mới trong những năm gần đây là chủ đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, với nhiều bài viết, nhiều công
trình đã được công bố, xuất bản thành sách và các công trình tiêu biểu có liên
quan trực tiếp là:
4
* Nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở
Bùi Tiến Quý (2000), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Ở công trình này, Tác giả đã trình bày khá rõ cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, vai trò của các bộ phận trong bộ máy chính quyền cấp cơ sở, qua đó cho
thấy hoạt động của chính quyền cấp cơ sở ở địa trong giai đoạn hiện nay.
Hoàng Chí Bảo (2005), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta
hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình này đã đi sâu phân tích
đặc điểm của cấp cơ sở, thực trạng cơ cấu tổ chức và của hệ thống chính trị ở
cơ sở nông thôn, từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đổi
mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn…
Nguyễn Cúc, “Khảo sát tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam 2001 - 2002” , Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Đề tài này đã khảo sát, phân tích về tình hình thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở tại các tỉnh phía Bắc nước ta.
Nguyễn Ngọc Hiến (2001), "Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp các
bải tham luận của các nhà khoa học và quản lý Nhà nước trình bày trong Hội
thảo khoa học về kiến nghị các giải pháp cải cách hành chính giai đoạn 20012005 của Học viện Hành chính quốc gia. Đồng thời, cuốn sách cũng đã phân
tích các tiến trình cải cách hành chính ở nước ta những năm qua, nguyên
nhân, những hạn chế, kiến nghị một số giải pháp cơ bản thúc đẩy cải cách
hành chính của Việt Nam trong thời gian tới.
Nguyễn Quốc Phẩm (2000), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ
hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề tài khoa học cấp
Bộ này đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những thành tựu, hạn chế của hệ thống
chính trị các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông (2003), "Thực hiện quy chế dân chủ
và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia,
5
Hà Nội. Các tác giả đã trình bày, phân tích quy chế dân chủ ở cấp cơ sở việc tổ
chức, thực hiện quy chế dân chủ ở cấp cơ sở, đánh giá những kết quả, hạn chế,
bất cập trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Thang Văn Phúc và Chu Văn Thành (2000), "Chính quyền cấp xã và
quản lý nhà nước cấp xã", Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức
Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã khái quát
đặc điểm, chức năng của chính quyền cấp xã và vai trò của chính quyền trong
việc quản lý nhà nước ở địa phương. Từ đó thấy được chức năng nhiệm vụ
của đội ngũ chính quyền cấp xã, tổ chức chính quyền ở địa phương là nơi
trực tiếp điều hành quản lý ở nông thôn.
Vũ Hoàng Công (2002), “Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng
và giải pháp”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Công trình này đã phân tích một
cách khoa học - thực tiễn về đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở đồng thời
dự báo xu hướng vận động của hệ thống đó. Từ đó đề xuất nhiều giải pháp có
giá trị để phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đi vào tìm hiểu những khía cạnh khác
nhau của hệ thống chính trị ở cơ sở, phân tích, lý giải về yêu cầu và cách thức tổ
chức, hoạt động để đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến nông nghiệp, nông dân,
nông thôn
Bùi Văn Thấm (sưu tầm, giới thiệu, 2003),“Những quy định pháp luật và
công tác văn hóa xã hội ở cơ sở và xây dựng nông thôn mới”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu này đề cập và giới thiệu các quy
định của Nhà nước về công tác văn hóa xã hội và quy đinh về nông thôn mới, về
việc xây dựng nông thôn mới ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Đặng Kim Sơn (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Việt
Nam hôm nay và mai sau”. Công trình này nêu bật thực trạng của của các
vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay, những thành tựu cũng
như những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, xuất phát từ thực tiễn đó tác giả
6
đã đề xuất những định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa nông nghiệp,
nông thôn ngày một phát triển.
Nguyễn Hữu Tiến (2008),“Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở
Việt Nam”, Nxb Nông nghiệp. Cuốn sách là tập hợp các công trình nghiên
cứu của tác giả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Nguyễn Từ (2008), “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công
trình này không chỉ đề cập đến những vấn đề khái quát về hội nhập kinh tế
quốc tế, các hiệp định thương mại khu vực và toàn cầu liên quan đến nông
nghiệp nói chung và đến ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng, những ảnh
hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến nông nghiệp Việt Nam trong thời
gian qua, mà còn nêu lên quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển nền nông nghiệp nước ta trong thời gian tới.
Nguyễn Văn Khánh (2001), công trình “Biến đổi cơ cấu ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới (qua
khảo sát một số làng xã)”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này
đã đi sâu nghiên cứu những biến đổi của nông thôn châu thổ sông Hồng nhìn
từ góc độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, phân tích những tác
động của chính sách đổi mới về nông nghiệp đối với tình hình kinh tế - xã hội
ở một số làng xã vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Vũ Văn Phúc chủ biên (2012), “Xây dựng nông thôn mới những vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này là tập
hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan Trung ương, địa
phương, các ngành, các cấp về xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, gồm
những vấn đề lý luận chung về NTM, kinh nghiệm quốc tề về xây dựng
NTM, thực tiễn và kết quả bước đầu trong xây dựng NTM ở một số địa bàn
trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các địa bàn thí điểm xây dựng NTM.
Ngoài ra còn có một số bài báo, luận văn liên quan đến xây dựng NTM
ở nước ta hiện nay như:
7
Thanh An, bài viết đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 278 (kỳ 1,
tháng 9/2010) với tiêu đề “Gỡ thế cho “tam nông” phát triển là cơ hội để
nông dân làm giàu”. Bài viết đã đề cập đến các ý kiến khác nhau trong việc
tạo hướng đi mới cho nông nghiệp, nông dân.
Hải Sơn, bài viết đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 279 (kỳ 2, tháng
9/2010) với tiêu đề “Thi đua xây dựng nông thôn mới việc lớn phải làm đến
cùng”. Bài viết đã đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng nông
thôn mới đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nguyễn Văn Đắc, bài viết đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 290 (kỳ 1,
tháng 3/2011) với tiêu đề: “Kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ
Trung ương đến cơ sở”. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu đề cập đến việc củng
cố, kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng NTM từ Trung ương đến cơ sở nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác xây dựng NTM ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Lương Thủy, bài viết đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 299 (kỳ 2,
tháng 7/2011) với tiêu đề: “Tập trung 4 vấn đề lớn xây dựng nông thôn mới”.
Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến 4 vấn đề lớn trong công tác xây
dựng NTM gồmcông tác khuyến nông; vệ sinh an toàn thực phẩm; Hội nông
dân tham gia xây dựng NTM; về phát triển kinh tế hợp tác xã.
Bài viết của tác giả Nguyễn Tất Đạt đăng trên tạp chí Nông thôn mới
số 326 (kỳ 1, tháng 9/2012) với tiêu đề: “Dân chủ cơ sở gắn với xây dựng
nông thôn mới”. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu bàn về việc thực hiện
pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị trong việc
thực hiện dân chủ, khẳng định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần
quan trọng trong việc xây dựng NTM.
Bài viết của tác giả Hồng Chương đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng số
3/2011 với tiêu đề: “Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã trong việc quy hoạch
xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình”. Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu
phân tích vai trò của Đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong việc quy
hoạch xây dựng NTM …
8
Những chủ đề liên quan đế vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân
và ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn góp phần xây dựng NTM cũng là đề
tài thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả. Có thể kể đến một
số công trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sĩ Chính trị học về “Đảm bảo an ninh nông thôn vùng
Đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác
giả Đặng Thị Thanh Hoa, Hà Nội, năm 2009. Công trình nghiên cứu này đã tập
trung phân tích thực trạng an ninh nông thôn và công tác đảm bảo an ninh nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị để đảm bảo an ninh nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Phạm Xuân Nguyên, luận văn thạc sĩ Chính trị học về “Điểm nóng
khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Hà Nội, năm 2009. Công trình nghiên cứu
này đã đưa ra một số nhận thức về “điểm nóng”, giải quyết “điểm nóng”
khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn. Trên cơ sở đó phân tích thực
trạng, cách giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để giải quyết
“điểm nóng” ở đồng bằng Bắc Bộ.
Diệp Kiều Trang, luận văn thạc sĩ Triết học về: “Vai trò của nông dân
Bạc Liêu trong xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Hà Nội, năm 2011. Công
trình nghiên cứu này đã đi sâu phân tích thực trạng, từ đó làm rõ vai trò của
người nông dân trong xây dựng NTM ở tỉnh Bạc Liêu. Qua đó, đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của người nông dân
trong xây dựng NTM.
Trương Thị Phương Hiền, luận văn Thạc sĩ Chính trị học về “Kiện
toàn hệ thống chính trị cấp xã nhằm tăng cường ổn định chính trị - xã hội ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Hà
Nội, năm 2012. Công trình nghiên cứu này chủ yếu bàn về thực trạng của hệ
9
thống chính trị cấp xã và một số giải pháp kiện toàn nhằm tăng cường ổn
định chính trị - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trước thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một số công trình tiêu biểu trên đây đã nghiên cứu đề cập đến nhiều
khía cạnh khác nhau của hệ thống chính trị cơ sở, vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và vấn đề xây dựng NTM ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống vai trò của HTCTCS
đối với việc xây dựng NTM ở Bắc Giang. Những tài liệu trên sẽ giúp ích
quan trọng cho tác giả trong tham khảo, đối chứng trong nghiên cứu đề tài
của tác giả luận văn.
* Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn Bắc Giang
Vũ Đức Trung (1996), Những định hướng cho việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn tỉnh Hà Bắc, Luận án khoa học Kinh tế, Hà Nội; Nguyễn
Văn Năng (2010), "Bắc Giang chung sức xây dựng nông thôn mới", Cổng
thông tin điện tử, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang; Lại Thanh Sơn
(2012), Triển khai kết quả bước đầu và những kiến nghị, đề xuất đối với công
tác xây dựng nông thôn mới của tỉnh Bắc Giang, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Văn phòng huyện ủy Lạng Giang (2012), "Một số kinh nghiệm
bước đầu trong xây dựng nông thôn mới ở Lạng Giang", Cổng thông tin điện
tử huyện Lạng Giang - Bắc Giang, ngày 25 tháng 4; Lương Hương (2014),
"Yên Dũng đẩy nhanh tiến độ dồn điền, đổi thửa", Cổng thông tin điện tử tỉnh
Bắc Giang, ngày 23 tháng 3; Việt Hương (2014), "Bắc Giang phấn đấu 34 xã
đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2014", Cổng thông tin điện tử Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, ngày 2 tháng 3.
Những công trình nghiên cứu và bài viết trên đây đã đề cập khá
phong phú các vấn đề như chỉ ra những định hướng; một số kết quả trong
việc chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn dưới góc độ kinh tế chính trị hay xã hội học mà chưa có một
công trình nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về vai trò của hệ thống
10
chính trị cơ sở xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2016 dưới
góc độ chính trị - xã hội. Đề tài nghiên cứu về: “Vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bắc Giang hiện nay”, mà tác giả
lựa chọn và thực hiện là vấn đề nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với
các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
HTCTCS trong xây dựng nông thôn mới ở Bắc Giang, đề xuất một số yêu
cầu và giải pháp phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng
NTM ở địa phương những năm tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò HTCTCS trong xây dựng
NTM ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
- Phân tích thực trạng thực hiện vai trò của HTCTCS trong xây dựng
NTM ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
- Đề xuất một số yêu cầu, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bắc Giang trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của HTCTCS trong xây dựng NTM ở
Bắc Giang hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, thực tiễn về
vai trò của HTCTCS trong xây dựng NTM ở Bắc Giang hiện nay và đề xuất
một số yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò của HTCTCS trong xây dựng
NTM ở Bắc Giang hiện nay.
Phạm vi về không gian nghiên cứu của luận văn: Vai trò của HTCTCS
trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay (qua khảo sát ở
một số xã của huyện Yên Dũng, Tân Yên; huyện Sơn Động...).
11
Phạm vi về thời gian nghiên cứu của luận văn: Các số liệu nghiên cứu
có liên quan đến đề tài, tác giả lấy từ năm 2008 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về vai trò của chính quyền, vai trò của HTCT; về vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn...
* Cơ sở thực tiễn
Từ khảo sát thực tế của tác giả về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh
Bắc Giang trong xây dựng NTM, báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng NTM của các xã, huyện và cơ quan chức năng của tỉnh
và kế thừa kết quả nghiên cứu của công trình nghiên cứu có liên quan...
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, kết hợp
phương pháp lịch sử với phương pháp lôgic, phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê và điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ lý luận về vai trò của HTCTCS trong xây
dựng NTM ở Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
học tập, nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến hệ thống chính
trị cơ sở; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở
trong hoạt động xây dựng NTM ở các địa phương.
7. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính
của luận văn gồm 2 chương và 4 tiết.
12
Chương 1
VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
1.1.1. Hệ thống chính trị cơ sở và quan niệm, nội dung, tiêu chí xây
dựng nông thôn mới
* Hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống chính trị ở nước ta gồm 4 cấp, bao gồm cấp trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở là xã, phường, thị trấn. Cơ sở là khái niệm chỉ cấp
cuối cùng trong hệ thống quản lý hành chính của Nhà nước, đó chính là xã,
phường, thị trấn. Ở nước ta hiện nay, do số lượng xã chiếm đa số, gắn với sản
xuất và dân cư nông nghiệp nên trong quản lý hành chính hiện hành gọi chung
là cấp xã, tương đương với cấp xã là phường, thị trấn. Đây là cấp cuối cùng
trong hệ thống quản lý hành chính, là cấp gần và sát dân nhất nên còn gọi là
cấp cơ sở, là cấp trực tiếp và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân...
Hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức hiện thực hóa các
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và các mục tiêu kinh tế - xã
hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh ở địa phương...Hệ thống chính trị cấp cơ
sở ở nước ta là một thể thống nhất, bao gồm tổ chức đảng cơ sở (các Đảng
bộ, chi bộ cơ sở); Chính quyền (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân); Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội (hay gọi cách khác là các đoàn
thể nhân dân bao gồm: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam...). Mỗi tổ chức có vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với
nhau, cùng tồn tại và hoạt động trên một địa bàn lãnh thổ - dân cư nhất định,
với đơn vị hành chính gọi là cơ sở. Trong đó, tổ chức cơ sở đảng của Đảng
cộng sản Việt Nam (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng ở các
13
địa phương, là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị cấp cơ sở, nơi giáo dục,
rèn luyện đảng viên và phát triển Đảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng
và là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng có các nhiệm vụ: Thứ nhất, chấp hành đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả. Thứ hai, xây
dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức;
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt
Đảng; thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn
kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục và quản lý cán bộ, đảng
viên nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến
thức, năng lực công tác, làm công tác phát triển đảng viên. Thứ ba, lãnh đạo
xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc
phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp
hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thứ tư, liên hệ
mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ chính
đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiên đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để thực hiện các nhiệm vụ
lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đảng ở cơ sở giới thiệu các đảng viên ứng cử
vào Hội đồng nhân dân, tham gia chính quyền cơ sở, tham gia các cương vị
lãnh đạo các đoàn thể chính trị- xã hội...
Chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn, được bầu ra theo Hiến pháp và pháp luật. Đối với
Hội đồng nhân dân: Ở Chương IX, Hiến pháp 2013 quy định: Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội
đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
14
quyết của Hội đồng nhân dân. Đối với Ủy ban nhân dân, theo điều 114 Hiến pháp
2013 quy định: Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng
nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở: Là những tổ
chức có vai trò tập hợp các thành viên, chăm lo lợi ích của các thành viên,
thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân,
giữ mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặt khác, đây cũng là lực
lượng đi đầu trong tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, là trung tâm hòa giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và có vai
trò trong việc thực thi quy chế dân chủ ở cơ sở, lựa chọn các đại biểu của nhân
dân ở cơ sở; đồng thời, là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào vận
động quần chúng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, xây dựng nếp sống văn hóa,
bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương.Tuy chức năng,
nhiệm vụ, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau, nhưng mục
tiêu chung của các thành viên trong hệ thống chính trị cấp cơ sở là cùng hướng
tới sự phát triển kinh tế- xã hội ở cơ sở, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân địa phương, góp phần thực hiện mục tiêu của đất nước là thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
* Quan niệm, nội dung, tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Quan niệm về nông thôn: Theo Điều 1 Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT
ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: "Nông
thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị của thành phố, thị xã, thị trấn
được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã" [3, tr.123].
Quan niệm về nông thôn mới: Là nông thôn có kinh tế phát triển,
mà trong đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân nông thôn
không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành
15
thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Nông thôn mới có
kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ,
hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công
nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị
được nâng cao, đảm bảo giữa vững an ninh chính trị và trật tự xã hội [3;tr
125].
Quan niệm của Đảng về xây dựng nông thôn mới: Quy hoạch phát triển
nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công
nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai Chương trình
xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể,
vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp
của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi
trường thuận lợi để khai thác mọi tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn,
nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động [3,tr129].
Như vậy, nông thôn mới được phân biệt với thị tứ, đó là nông thôn mới,
khác với nông thôn truyền thống. Nông thôn mới bao hàm cơ cấu và chức
năng mới, đó là chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại; chức năng giữ gìn
văn hóa truyền thống và chức năng sinh thái. Nông thôn mới là nông thôn
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, được xây dựng
hướng tới Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
Nội dung xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay: Xây dựng nông
thôn là chiến lược xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng của Đảng, đặc
biệt bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986) Đảng ta đã xác định một trong
những khâu đột phá là đổi mới tư duy kinh tế mà trước hết là sản xuất nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, từ Chỉ thị 100, đến Khoán 10... Hiện nay, Đảng
ta đã cụ thể hóa nội dung xây dựng NTM và coi đó là vấn đề chiến quan
trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế-xã hội, ổn định chính trị và sự phát
16
triển bền vững của đất nước.
Về nội dung xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay thể hiện ở các
tiêu chí cụ thể và trên các lĩnh vực cụ thể, Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP
ngày 28/10/2008 về Chương trình hành động của Chính phủ nhằm hiện thực
hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) "Về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn". Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới kèm theo Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 theo 5 nhóm nội dung với 19 tiêu chí là: Nhóm
1, quy hoạch (1 tiêu chí): Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng cho phát triển
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; quy hoạch
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường; quy hoạch phát triển các khu
dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có. Nhóm 2, hạ tầng kinh tế xã hội (8 tiêu chí): Giao thông; thủy lợi; điện; trường học; cơ sở vật chất văn
hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư. Nhóm 3, kinh tế và tổ chức sản
xuất (4 tiêu chí): Thu nhập; hộ nghèo; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản
xuất. Nhóm 4, văn hóa - xã hội - môi trường (4 tiêu chí): Giáo dục; y tế; văn
hóa; môi trường. Nhóm 5, Hệ thống chính trị (2 tiêu chí): Hệ thống tổ chức
chính trị - xã hội vững mạnh; quốc phòng, an ninh trật tự xã hội tốt [3, tr.2-6].
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X của Đảng, ngày 04/6/2010 Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010-2020”. Theo đó, Chính phủ đã triển khai thực hiện
xây dựng 11 xã điểm ở các vùng, miền khác nhau, trên cơ sở đó rút kinh
nghiệm, nhân rộng mô hình trong cả nước, đồng thời phát động phong trào
thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”. Theo 19 tiêu chí trên
Chính Phủ xác định phấn đấu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chí nông
thôn mới, đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới...
Về mục tiêu xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay biểu hiện trên
các nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, đó là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
17
hiện đại; thứ hai, sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng
hóa; thứ ba, đời sống và vật chất tinh thần của người dân ở nông thôn được
nâng cao; thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; thứ
năm, xã hội nông thôn an ninh tốt, dân chủ được phát huy.
Về lực lượng tham gia xây dựng NTM, phát huy vai trò chủ thể của
cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng
các tiêu chí, quy chuẩn, đề ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn
cách thức tiến hành cho các địa phương. Các hoạt động cụ thể do chính
chính quyền cơ sở, cộng đồng người dân ở mỗi thôn, bàn bàn bạc dân chủ
để quyết định tổ chức và thực hiện. Xây dựng NTM là nhiệm vụ của của cả
hệ thống chính trị và toàn thể xã hội; trong đó cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương đóng vai trò trực tiếp chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng
quy hoạch, kế hoạch tổ chức thực hiện. Hình thức là cuộc vận động “Toàn
dân xây dựng nông thôn mới” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì cùng
các tổ chức chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai
trò chủ thể trong việc xây dựng NTM.
Về nguyên tắc chỉ đạo xây dựng NTM: Thứ nhất, các nội dung, các
hoạt động của Chương trình xây dựng NTM phải hướng tới mục tiêu thực
hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí đã ban hành. Thứ hai, phát huy vai trò chủ
thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định
hướng, ban hành các chính sách, cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng
dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở xã
bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện. Thứ ba, kế thừa và
lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục
tiêu, các chương trình, dự án khác đang phát triển trên địa bàn nông thôn.
Thứ tư, thực hiện chương trình xây dựng NTM phải gắn với kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, có quy hoạch, có cơ chế đảm bảo
thực hiện các quy hoạch xây dựng NTM đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Thứ năm, công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực;
18
tăng cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện
các công trình, dự án của chương trình xây dựng NTM; phát huy vai trò
làm chủ của người dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá
trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát, đánh giá. Thứ sáu, xây
dựng NTM là nhiệm vụ của cả HTCT và toàn xã hội; cấp ủy Đảng, chính
quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, đề
án, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị- xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong
xây dựng NTM.
Về phương thức xây dựng NTM được thực hiện trên cơ sở kế thừa và
lồng ghép các chương trình của quốc gia, các chương trình dự án khác đang
triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có
cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động
đóng góp của các tầng lớp dân cư. Xây dựng NTM được thực hiện gắn với các
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của
mỗi địa phương, trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các bộ chuyên
ngành ban hành. Các bước tiến hành xây dựng nông thôn mới, gồm các bước:
Thành lập hệ thống quản lý, thực hiện; Tổ chức thông tin, tuyên truyền về thực
hiện chương trình xây dựng NTM (Được thực hiện trong suốt quá trình triển
khai thực hiện); Khảo sát, đánh giá thực trạng nông thôn theo các tiêu chí mà
Nhà nước ban hành; Xây dựng quy hoạch nông thôn mới của xã; Lập, phê duyệt
đề án xây dựng NTM của xã; Tổ chức thực hiện đề án; Giám sát, đánh giá và
báo cáo về tình hình thực hiện chương trình.
Qua việc nhận thức về mô hình nông thôn mới và tầm quan trọng của
việc xây dựng nông thôn mới, có thể thấy khẳng định xây dựng nông thôn mới
là nhiệm vụ không chỉ của cá nhân, hay một đoàn thể nào, mà là nhiệm vụ của
cả HTCT và toàn xã hội. Trong đó, cấp ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ
đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch và tổ chức thực
hiện; MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội có vai trò đoàn kết, vận động quần
19
chúng nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới.
1.1.2. Nội dung và biểu hiện vai trò của hệ thống
chính trị cơ sở tỉnh Bắc Giang trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn hiện nay
* Khái quát về hệ thống chính trị cơ sở của tỉnh Bắc Giang hiện nay
Khái lược sự hình thành tỉnh Bắc Giang: Trong lịch sử, thời các Vua
Hùng, Bắc Giang thuộc bộ Vũ Ninh của nước Văn Lang, dưới triều Đinh (968 980), Tiền Lê (980 - 1009) thuộc huyện Long Biên, thời Lý - Trần thuôc lộ Bắc
Giang, thời Hậu Lê thuộc thừa tuyên Kinh Bắc, sau đổi thành trấn Kinh Bắc,
trấn Bắc Ninh. Dưới đời vua Minh Mạng (năm thứ 2, 1821), Bắc Giang thuộc
thiên phủ Thiên Phúc, năm 1831, đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Ngày 10/10/1895
toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập tỉnh Bắc Giang trên cơ sở hai
phủ Đa Phúc, Lạng Giang tách ra từ tỉnh Bắc Ninh. Ngày 27/10/1962, tỉnh Bắc
Giang sát nhập với tỉnh Bắc Ninh trở thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 6/10/1996, tại kỳ
họp lần thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn chia tách tỉnh Hà Bắc, tái lập hai
tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Bộ máy hành chính tỉnh Bắc Giang chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 01/01/ 1997 đến nay.
Về đặc điểm địa lý: Đất đai của Bắc Giang được bồi đắc bởi phù sa từ
các con sông lớn như Sông Cầu, Sông Thương, Sông Lục Nam; có núi cao
bao bọc, có nhiều lâm sản quý, có vùng trung du rộng lớn thuận lợi việc canh
tác. Bắc Giang là tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50km về phía Bắc,
cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110km về phía Nam, cách cảng
Hải Phòng hơn 100km về phía Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng
Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, Thái Nguyên, phía Nam và
Đông Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Bắc Giang hiện
có 09 huyện và 01 thành phố, trong đó có 06 huyện miền núi và 1 huyện
vùng cao (Sơn Động); 203 xã, 7 phường và 16 thị trấn.
Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng là miền núi và trung du có đồng
bằng xen kẽ. Vùng trung du bao gồm các huyện là Hiệp Hòa, Việt Yên và thành
20
phố Bắc Giang. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện là Sơn Động, Lục Nam, Lục
Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Trong đó một phần các
huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn Động là vùng núi cao. Bắc Giang
là tỉnh có giao thông khá đa dạng với 3 loại hình là đường bộ, đường sông và
đường sắt nên có lợi thế nổi trội trong việc liên kết vùng, có thể dễ dàng thông
thương với các vùng kinh tế trọng điểm trong nước và quốc tế.
Về đặc điểm kinh tế - xã hội: Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 20 dân
tộc chung sống như: Kinh, Tày, Hoa, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Mường,
Thái, Khơ Me, H’Mông; trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số (84,1%). Các
dân tộc chiếm tỉ lệ nhỏ là Khơ me (0,002%), H’Mông (0,002%), Thái
(0,004%). Dân số toàn tỉnh tính đến hết năm 2011 là 1.567.557 người, mật độ
dân số bình quân là 408,1 người/km2, cao hơn so với bình quân của khu vực
và cả nước. Đặc điểm phân bố dân cư không đồng đều, phần lớn tập trung ở
các khu vực trung du, thành phố Bắc Giang, bình quân 2.186 người/km2;
huyện Hiệp Hòa bình quân 1.045 người/ km2; huyện Việt Yên bình quân
936,9 người/ km2; huyện Tân Yên bình quân 774,7 người/ km2; huyện Lạng
Giang bình quân 802,7 người/ km2; huyện Yên Dũng bình quân 739,9 người/
km2. Các huyện miền núi dân cư sống ít hơn, huyện Sơn Động bình quân
82,2 người/km2; huyện Yên Dũng bình quân 739,9 người/km2; huyện Yên
Thế bình quân 313,8 người/km2; huyện Lục Nam bình quân 335 người/km2.
Về tình hình phát triển kinh tế, theo Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang
năm 2016 tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) ước đạt 9,8%. Cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó
công nghiệp xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng cao.
Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nêu trên cho
thấy, Bắc Giang vừa có nhiều thuận lợi, vừa có nhiều khó khăn trong quá
trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới.
Về thuận lợi là Tỉnh có bề dày truyền thống yêu nước, cách mạng và truyền
21
thống văn hóa; Nhân dân cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Các thế
hệ nông dân Bắc Giang đã tạo ra những cánh đồng mầu mỡ suốt từ xuôi lên
miền núi để cấy lúa, trồng hoa mầu và các loại cây ăn quả. Từ quá trình lao
động đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý trong phát triển, thâm canh
nông nghiệp, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn, có
giá trị kinh tế cao như: vải thiều Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, lúa thơm Yên
Dũng... Đó là những điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng nông thôn
mới. Bên cạnh đó Bắc Giang là tỉnh miền núi, địa hình chia cắt, dân cư
phân bố không tập trung, đời sống Nhân dân khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo lớn
(khoảng 26,6% ở các xã ATK và còn 36 xã đặc biệt khó khăn). Cho nên có
thể thấy, những khó khăn nổi bật của tỉnh Bắc Giang so với một số tỉnh
khác là trong việc huy động vốn đối ứng trong thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng NTM. Ở nông thôn còn nhiều vấn đề bức xúc: Vệ
sinh môi trường, giá trị truyền đặc trưng của nông thôn đang bị mai một, an
ninh trật tự còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, ảnh hưởng đến việc hoàn
thành các tiêu chí này. Nhận diện đúng thuận lợi, khó khăn là một trong
những cơ sở để HTCT cơ sở xác định đúng mục tiêu, lộ trình, giải pháp xây
dựng nông thôn mới sát hợp với đặc điểm của địa phương.
Đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay: Sau 34
năm hợp nhất với tỉnh Bắc Ninh, ngày 06/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội
khóa IX đã phê chuẩn chia tách tỉnh Hà Bắc, tái lập thành hai tỉnh Bắc Ninh và
Bắc Giang. Bộ máy hành chính tỉnh Bắc Giang chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 01/01/1997 đến nay. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, tình hình
chính trị của tỉnh Bắc Giang được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững
và củng cố, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi phát
triển kinh tế- xã hội. Ngay sau khi tái lập tỉnh ý thức được vai trò, vị trí của
HTCT cơ sở, Tỉnh ủy Bắc Giang cùng với HĐND,UBND tỉnh đã chú trọng
xây dựng và củng cố HTCT cơ sở nông thôn. Hiện Bắc Giang có 9 huyện, 01
22
thành phố; có 203 xã, 7 phường, 16 thị trấn và đặc điểm nổi bật của hệ thống
chính trị cơ sở trên địa bàn nổi lên một số vấn đề sau:
Về tổ chức đảng ở cơ sở: Theo số liệu thống kê của Ban tổ chức tỉnh ủy
Bắc Giang tính đến hết tháng 12 năm 2016 toàn tỉnh có 226 tổ chức cơ sở đảng ở
xã, phường, thị trấn. Các đảng bộ cơ sở đã xác định được rõ nhiệm vụ chính trị,
để ra được những chủ trương, nghị quyết phù hợp với thực tiễn địa phương. Công
tác kết nạp đảng viên, quản lý phân công nhiệm vụ của đảng viên luôn được quan
tâm, đa số đảng viên dược đào tạo, bồi dưỡng, trưởng thành từ hoạt động của các
đoàn thể chính trị và các phong trào cơ sở. Chất lượng hoạt động của tổ chức cơ
sở đảng không ngừng được nâng lên. Năm 2016 có 200/226 đảng bộ cấp xã đạt
trong sạch, vững mạnh, không có đảng bộ xếp loại yếu kém.
Về chính quyền cơ sở , Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội cấp cơ
sở trên địa bàn: Các đơn vị hành chính ở Bắc Giang đều có trụ sở riêng và có
cơ sở vật chất khá đồng đều theo tiêu chí của Bộ xây dựng. Đội ngũ cán bộ,
công chức của tỉnh Bắc Giang những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích
cực về các yếu tố như: Trình độ văn hóa, trình độ, quản lý nhà nước, độ tuổi,
giới tính. Về cơ cấu độ tuổi, đội ngũ cán bộ chủ trì là chủ tịch, bí thư, chủ
nhiệm hợp tác xã, chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc, chủ tịch Hội nông dân
có tuổi đời phổ biến từ 48 tuổi đến 52 tuổi; bộ phận cán bộ không chuyên
trách có tuổi đời từ 30 đến 35 tuổi. Nhìn vào cơ cấu độ tuổi thấy rằng cán bộ
ngày càng được trẻ hóa, tuy nhiên sự trẻ hóa này thường diễn ra ở một số xã,
phường gần trung tâm hơn vì họ có tư tưởng tân tiến hơn. Việc trẻ hóa đội
ngũ cán bộ đồng nghĩa với việc trình độ học vấn và năng lực quản lý cao hơn
đội ngũ cán bộ thế hệ trước. Một tỉnh thuần nông như bắc Giang muốn phát
triển cần phải có nhiều tư duy mới, nhiều sáng tạo. Vì vậy trong những năm
gần đây Tỉnh đã và đang cố gắng thay đổi cơ cấu nguồn cán bộ trẻ nhằm phát
huy hơn nữa, tích cực hơn nữa đối với việc phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh
nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
23
Về thành phần dân tộc, cán bộ các ban ngành của hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay có tỷ lệ là người dân tộc thiểu số chiếm
khoảng 10%. Về trình độ học vấn và chuyên môn, đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị cơ sở tỉnh Bắc Giang hiện nay có 95% đã tốt nghiệp phổ
thông trung học, còn 5% có trình độ phổ thông cơ sở. Về trình độ chuyên
môn, có 0,9% có trình độ sau đại học; 25% có trình độ đại học, có 30% có
trình độ trung cấp và có 27% có trình độ sơ cấp và có 17,1% chưa qua đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ cán bộ chủ trì của các xã
phường, thị trấn của tỉnh có 19% đã được bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước; 0,8% có trình độ cao cấp lý luận chính trị; 40% có trình độ trung cấp lý
luận chính trị; 35% có trình độ sơ cấp lý luận chính trị và 24,2% chưa được bồi
dưỡng lý luận chính trị. Qua số liệu cho thấy trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở trong những năm qua được nâng lên đáng kể. Đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở được bố trí, sắp xếp và đang phát huy hiệu quả, đa số cán
bộ được rèn luyện trong thực tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị cũng như năng lực thực tiễn ngày càng được nâng
cao. Phần lớn đội ngũ cán bộ khối Mặt trận và đoàn thể được bồi dưỡng cơ bản
về nghiệp vụ chuyên môn. Đa số cán bộ làm công tác Mặt trận và các đoàn thể ở
cơ sở được học qua các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác vận động quần
chúng,có kinh nghiệm tổ chức và vận động quần chúng, phần đông nhiệt tình có
tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Nhìn chung, trong những năm gần đây
hoạt động của chính quyền cơ sở từng bước được củng cố, phục vụ ngày càng
tốt hơn nhu cầu trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị- xã hội ở cơ sở đã phát huy được cầu nối giữa đảng với nhân dân, tham
gia xây dựng và giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền cơ sở.
* Nội dung, chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
Tình hình nông thôn tỉnh Bắc Giang trước năm 2008: Trước những tác động
chi phối của các yếu tố, nhất là những khó khăn, thách thức đặt ra nhưng quá trình xây
24
dựng nông thôn mới của tỉnh Bắc Giang vẫn đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo nền
tảng vững chắc cho việc xây dựng nông thôn mới của tỉnh trong thời gian tới.
Thành tựu trong xây dựng nông thôn tỉnh Bắc Giang trước năm 2008 được
thể hiện rõ trong phần đánh giá khái quát của Chương trình hành động số 47CTr/TU ngày 3 tháng 10 năm 2008 của Tỉnh ủy Bắc Giang về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2001-2007 đạt
7,75%/năm; tỷ trọng trồng trọt đã giảm 6,2% còn 59,9%, chăn nuôi tăng 6,6%
so với năm 2001 lên 37%; đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa như:
vải thiều, lạc, lúa thâm canh cao và lúa thơm hàng hóa, rau quả chế biến,
nguyên liệu gỗ; đàn gia cầm của tỉnh gần 12 triệu con; đàn lợn đạt 1 triệu con,
an ninh lương thực được đảm bảo. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
ngành nghề, dịch vụ nông thôn được khôi phục và phát triển, tạo việc làm trên
2,1 vạn hộ gia đình. Các thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển; đã
có thêm 2.549 trang trại so với năm 2001, đã xuất hiện một số mô hình chăn
nuôi bán công nghiệp và công nghiệp; các hợp tác xã nông nghiệp được
chuyển đổi và hoạt động có hiệu quả hơn; đến nay cơ bản hoàn thành việc sắp
xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp;
công nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản đang có chiều hướng phát triển
mạnh. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn được tăng cường, bộ mặt nông
thôn có nhiều thay đổi; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết
quả khá, tỷ lệ hộ nghèo đến hết năm 2007 còn 21,28%, tỷ lệ sử dụng thời gian sử
dụng lao động ở khu vực nông thôn tăng từ 82% lên 87%. Hệ thống chính trị ở
nông thôn được củng cố và tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì nông thôn Bắc Giang còn tồn tại
những hạn chế: Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý.
Trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng trọt; tỷ lệ giá trị của ngành chăn nuôi
trong nông nghiệp chưa cao; giá trị dịch vụ nông nghiệp, nông thôn nhỏ bé.
Diện tích đất lâm nghiệp lớn nhưng đóng góp của ngành lâm nghiệp vào tăng
trưởng kinh tế của địa phương còn rất nhỏ. Ruộng đất ở nông thôn bị chia
25