Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT vận DỤNG, PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP LUẬN hồ CHÍ MINH TRONG CÔNG CUỘC đổi mới vấn đề CHIẾN lược đối với CMVN TRONG CÔNG CUỘC đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.98 KB, 46 trang )

1

VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP LUẬN HỒ CHÍ MINH
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI - VẤN ĐỀ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY
-------------------Với những cống hiến to lớn cho dân tộc và nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh được cả thế giới thừa nhận và tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc
của Việt Nam, nhà văn hoá lớn” (Hồ Chí Minh Vietnamese hero of national
liberation and great man of culture); khi “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và
các vị cách mạng đàn anh khác”, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn
dân ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người; tư tưởng ấy chứa đựng
những chân lý bền vững, được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm
và xác nhận, không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong
công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn có giá trị bền
vững, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta trong tương lai.
Vốn là nhà lý luận kiệt xuất, nhà hoạt động thực tiễn thiên tài, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng chói về việc vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, thông qua đó thể hiện phương pháp luận triết học trong hệ
thống tư tưởng của Người.
Việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để tiếp tục vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận triết học trong
tư tưởng của Người nói riêng, đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách
mạng Việt Nam hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của toàn đảng, toàn dân ta.
Do điều kiện nghiên cứu và thời gian có hạn nên trong bài tiểu luận này
tôi chỉ xin góp phần làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản có tính chất phương


2


pháp luận triết học được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đề xuất một
số giải pháp nhằm vận dụng, phát triển những quan điểm ấy vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam hiện nay.
1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CÓ TÍNH CHẤT PHƯƠNG PHÁP
LUẬN TRIẾT HỌC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Phương pháp luận Hồ Chí Minh - một sự thật đương nhiên
- Được học tập và nghiên cứu bộ môn Những vấn đề triết học trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, tôi nhận thức được rằng: có một hệ thống phương pháp
luận Hồ Chí Minh. Đây là một trong những nội dung có tính nguyên tắc cần
được quán triệt trong quá trình tiếp cận nghiên cứu, vận dụng và phát triển
phương pháp luận của Người.
Thật vậy, đề cập tới phương pháp luận là đề cập tới cấp độ lý luận ở tầm
triết học. Trên thực tế, Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, tư tưởng của Người
là học thuyết bao gồm một hệ thống lý luận đặc sắc. Đã là hệ thống tư tưởng
hoàn chỉnh thì đương nhiên phải có hệ thống phương pháp luận.
Sinh thời, Hồ Chí Minh hoàn toàn không có ý định làm triết học và lại
càng không có tham vọng trở thành nhà triết học, vì thế Người không có tác
phẩm riêng bàn về phương pháp. Lịch sử cách mạng Việt Nam không trực
tiếp đặt ra yêu cầu này đối với Người. Đất nước bị ngoại bang xâm lấn, nhân
dân điêu đứng lầm than trong cảnh đời nô lệ, cần anh hùng giải phóng dân tộc
hơn là nhà thuyết giáo. Thế nhưng, trong quá trình hoạt động thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn
và sáng tạo các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật mác-xít, kết
hợp với các yếu tố biện chứng của tư duy triết lý Việt Nam và tư tưởng triết
học nhân loại; thông qua đó đã thể hiện những quan điểm cơ bản có tính chất
phương pháp luận riêng, rất mác-xít mà cũng rất Hồ Chí Minh, nằm trong hệ


3


thống tư tưởng của Người. Có thể khẳng định, phương pháp luận Hồ Chí
Minh là phương pháp biện chứng của Triết học Mác-Lênin, đã được vận dụng
và chuyển hoá một cách tài tình, sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
nhằm mục đích xử lý thành công những vấn đề cấp bách do thực tiễn cách
mạng Việt Nam đặt ra, bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung và in
đậm dấu ấn Việt Nam - Hồ Chí Minh.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà triết học nổi tiếng trên thế giới khi
xem xét giá trị của lý luận cách mạng Việt Nam từ thực tế thắng lợi của cách
mạng Việt Nam đã thừa nhận: “Vấn đề Việt Nam… không chỉ là vấn đề chính
trị mà còn là vấn đề triết học và lý luận ở trình độ cao” 1. Rõ ràng là, triết học
và lý luận của cách mạng Việt Nam được kết tinh ở tư tưởng Hồ Chí Minh,
được thấm sâu trong toàn bộ trước tác và hoạt động thực tiễn của Người.
Chính vì thế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp
luận triết học Hồ Chí Minh nói riêng phải dựa trên cơ sở nghiên cứu, phân
tích toàn bộ di sản của Người. Đây cũng là một trong những vấn đề có tính
nguyên tắc khi tiếp cận nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Vốn xuất thân từ một gia đình Nho học, ra đi tìm đường cứu nước với
hành trang là chủ nghĩa yêu nước và vốn kiến thức rộng lớn được khái quát từ
tư duy dân tộc và tư tưởng phương Đông giàu tính triết lý, Hồ Chí Minh đã
chủ động tiếp thu, sử dụng thế giới quan và phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết, rút ra phương pháp luận triết học của riêng
mình để chỉ đạo việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, đưa tới
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cái “cẩm nang thần kỳ”, là kim chỉ
nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và của dân tộc ta. Ngay từ năm
S. Sibata: “Những bài học của chiến tranh Việt Nam - Suy nghĩ triết học về cách mạng
Việt Nam”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, 1978, tr.328.
1



4

1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất phải theo là chủ nghĩa Mác-Lênin” 2. Người còn nhấn mạnh: “Đối với tất
cả mọi công tác cách mạng, việc thành lập Đảng và Nhà nước cũng như việc
xây dựng kinh tế và văn hoá, chúng tôi đều cố gắng làm theo đường lối của
Lê-nin đã vạch ra”3. Điều này chứng tỏ rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin là nền
tảng tư tưởng - phương pháp luận, là nguồn gốc lý luận - tư tưởng chủ yếu
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận Hồ Chí Minh
nói riêng. Nói đến tư tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh tức là đề cập đến
chủ nghĩa Mác-Lênin, như chính Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước trước đây
là thuộc địa. Những kinh nghiệm thành công của cách mạng Việt Nam cũng
góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin”1. Vì tư
tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng, phương pháp
luận Mác-Lênin nên việc tiếp cận nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh
phải tuân theo nội dung có tính nguyên tắc này.
Mặt khác, Hồ Chí Minh không chỉ chủ động tiếp thu, kế thừa mà còn rất
chú trọng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là Người đã thâu thái đúng bản chất, nắm vững tinh thần
và phương pháp của học thuyết ấy trong quá trình giải quyết công việc và ứng
xử với con người. Song, điều dễ dàng nhận thấy là, trong sự hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung cũng như phương pháp luận triết
học của Người nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là nhân tố quan trọng nhất,
quyết định nhất chứ không phải là duy nhất. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh luôn có tầm
nhìn khoáng đạt, tường minh và cởi mở trong việc nghiên cứu, đánh giá các
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 2, tr.280.
Xem: Tư tưởng Hồ Chí Minh rọi sáng con đường độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, Nxb.
Nghệ An, 2000, tr.38.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 10, tr.550.
2
3


5

học thuyết, các chủ nghĩa. Ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh còn tiếp
thu và chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái tư tưởng khác, đặc biệt là tư
tưởng triết lý của dân tộc. Người là hiện thân của tinh hoa văn hoá cổ, kim,
đông, tây. Vì thế, khi nghiên cứu phương pháp luận triết học Hồ Chí Minh đòi
hỏi phải dựa trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc tư tưởng của Người.
Đây cũng là một trong những vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc khi tiếp
cận phương pháp luận Hồ Chí Minh.
- Sự hiện hữu của phương pháp luận triết học Hồ Chí Minh còn được các
lãnh tụ của Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học khẳng định.
Là một học trò xuất sắc, có điều kiện được hoạt động và làm việc nhiều
năm bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng,
đặc trưng của phương pháp luận Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần quan điểm
thực tiễn, đời sống, là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo phép biện chứng mácxít vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó chính là phương pháp của người
lãnh đạo, người tổ chức1. Đồng thời cố Thủ tướng cũng nhấn mạnh: “Quan
điểm cơ bản nhất của phương pháp luận Hồ Chí Minh là câu nói đanh thép
của Người trong cuốn sách Đường Cách mệnh: “Cách mệnh! cách mệnh!
cách mệnh!” Hiểu rộng ra, đó là cuộc đấu tranh kiên cường và bền bỉ nhằm
xoá bỏ chế độ áp bức, bóc lột, thiết lập chế độ không có áp bức, bóc lột. Con
người, nhân dân các dân tộc làm chủ vận mệnh của mình, xoá bỏ nghèo nàn
và lạc hậu, đem lại ánh sáng, tự do và hạnh phúc cho mọi người” 2.
Trong công trình lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên cũng đã nêu vấn đề
“Phương pháp luận Hồ Chí Minh”, Đại tướng cùng các tác giả trong công

Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh- một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1990.
2 Phạm Văn Đồng: “Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị
quốc gía, Hà Nội.1998, tr.31-32.
1


6

trình tập thể này đã thống nhất cho rằng: “Phương pháp luận Hồ Chí Minh về
cơ bản là phương pháp luận Mác-Lênin, là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử… Nhưng phương pháp luận Mác-Lênin, được Hồ
Chí Minh tiếp thu, đã có sự bổ sung, phát triển, mang những đặc trưng mới,
độc đáo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp
luận Mác-Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học phương
Đông, của tư duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc đời hoạt động
phong phú, đầy biến cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Người” 3.
Trong một cuốn sách khác với nhan đề Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã viết: “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều cách
tiếp cận. Có thể nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên các mặt tư tưởng nhân
văn, tư tưởng chính trị, tư tưởng kinh tế, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hoá,
tư tưởng đạo đức .v..v… mà cũng có thể nghiên cứu theo từng nhóm vấn đề
tư tưởng về đường lối chiến lược, tư tưởng về đường lối tổ chức, những vấn
đề có tính chất phương pháp luận” 4.
Trải qua quá trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu
cũng đưa ra kết luận rằng, là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ và chính khách có
tầm cỡ quốc tế, dĩ nhiên Hồ Chí Minh có quan điểm và phương pháp luận
triết học của mình1. Trên cơ sở kết luận đó, Giáo sư đã viết: “Cụ chưa hề nói
đến phương pháp luận, nhưng trong hoạt động chính trị - văn hoá của Cụ,
người nghiên cứu dường như trông thấy một lề lối có thể gọi là phương pháp

luận, phương pháp tư tưởng” 2.
Theo quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (khoá IX) thì phương pháp luận Hồ Chí
Võ Nguyên Giáp: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1997, tr.260-261.
4 Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr.27.
1 Xem: Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội. 2000, tập 2, tr.39.
2 Xem: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993, t.3.
3


7

Minh chính là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là vấn đề thuộc về hệ thống tư
tưởng của Người. Từ quan niệm như vậy, nhà thơ cho rằng: “Trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh, một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, một cống hiến
đặc biệt của Hồ Chí Minh là phương pháp luận đã đạt đến một trình độ mới
trong việc xem xét và giải quyết thực tiễn. Người vượt lên nhiều người đương
thời để trở thành người kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật
biện chứng trong thời đại mới, trước một phương Đông đầy mâu thuẫn, đầy
biến cố phức tạp. Cho nên, khám phá phép biện chứng Hồ Chí Minh là một
việc làm cực kỳ quan trọng”3.
Cùng với những quan niệm của các công trình nghiên cứu nêu trên, đã
xuất hiện một công trình đặt vấn đề phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh
như một đối tượng nghiên cứu độc lập. Đó là công trình khoa học của tập thể
các tác giả do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ chủ biên, đã đưa ra các kết quả nghiên
cứu lý luận chung về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, từ đó khẳng
định những vấn đề có tính phương pháp luận triết học và trình bày một cách
rõ ràng, có hệ thống phương pháp cách mạng của Người, đồng thời chỉ rõ nội
dung và mối liên hệ giữa phương pháp và phong cách ấy. Đặc biệt, công trình

khoa học này đã bàn tới phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh và đặt nó
trong mối quan hệ hữu cơ với đường lối cách mạng. Theo Giáo sư Đặng Xuân
Kỳ, đường lối cách mạng bắt nguồn từ tư tưởng, học thuyết và gắn với thực
tiễn, với những điều kiện lịch sử nhất định; còn phương pháp cách mạng
nhằm thực hiện đường lối cách mạng đã vạch ra. Giáo sư Đặng Xuân Kỳ đã
nêu lên luận điểm đáng lưu ý là: “Phải thông qua phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh mới hiểu được tầm cao, chiều rộng và bề sâu của đường lối cách
mạng, của tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh; đồng thời, phương pháp
cách mạng của Hồ Chí Minh có chứa đựng những quan điểm có ý nghĩa
3

Xem: Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội. 2000, tập 2, tr.39.


8

phương pháp luận đối với việc nhận thức và tiến hành cách mạng ở Việt
Nam”1.
Tóm lại, những điều trình bày trên đây đã chứng tỏ rằng, ở Hồ Chí Minh
có một hệ thống quan điểm có tính chất phương pháp luận triết học được xây
dựng trên cơ sở khách quan, khoa học, được thể hiện thông qua phương pháp
cách mạng; đồng thời, hệ thống quan điểm ấy là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng của Người. Trên thực tế, mọi luận đề tư tưởng của Hồ Chí
Minh đều dẫn tới phương pháp hành động và phương pháp của Người lại luôn
nhằm vào thực hành tư tưởng để kiểm chứng tác dụng, xác nhận giá trị và ý
nghĩa của nó trong thực tiễn, nằng thực tiễn, thúc đẩy những biến đổi và sự
phát triển của thực tiễn. Vì vậy, phương pháp luận Hồ Chí Minh luôn thống
nhất, nhất quán với tư tưởng của Người.
Về bản chất, phương pháp luận Hồ Chí Minh chính là phương pháp luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, là sự vận dụng, phát triển và làm phong phú thêm

phương pháp luận đó, được hình thành trên cơ sở nhận thức và hoạt động thực
tiễn của bản thân Hồ Chí Minh; vì lẽ đó, phương pháp luận Hồ Chí Minh
chứa đựng những đặc trưng riêng của Người. Hơn nữa, do đặc điểm riêng về
phong cách và điều kiện hoạt động nên Hồ Chí Minh không để lại những tác
phẩm chuyên bàn về triết học, vì thế, khi nghiên cứu những quan điểm có tính
chất phương pháp luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải tuân theo những vấn
đề có tính nguyên tắc như đã nêu ở phần trên; trong đó, vấn đề quan trọng bậc
nhất là phải dựa vào thực tiễn quá trình xem xét, phân tích, ứng xử, giải quyết
công việc và cuộc sống của Người.
1.2. Một số quan điểm cơ bản có tính phương pháp luận triết học
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quóc gia, Hà
Nội. 1997, tr.39.
1


9

1.2.1. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
quan điểm có tính chất phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa đầu
tiên và quyết định đến nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh, thể hiện những nét
rất riêng và rất đặc trưng Hồ Chí Minh. Quan điểm này của Người hoàn toàn
có cơ sở khách quan và khoa học:
Xuất phát từ lý luận nhận thức theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện
chứng, đặc biệt là từ luận điểm cơ bản, cốt lõi nhất của lý luận ấy: “Thực tiễn
là tiêu chuẩn của chân lý”. Hơn nữa, theo quan điểm của C. Mác: “Ở mỗi dân
tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực
hiện những nhu cầu của dân tộc ấy” 1. Điều này đã chứng tỏ, lý luận chỉ được

coi là đúng đắn một khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc.
Kế thừa và phát triển luận điểm đó, với quan niệm rõ ràng và dứt khoát rằng:
“Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử,
trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lưỡng,
rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính” 2. Đây là cơ sở lý luận nền tảng dẫn đến sự hình thành, phát
triển sáng tạo quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng đã chứng tỏ Hồ Chí Minh là con người
thực tiễn. Từ thực tiễn yêu cầu cứu nước, cứu dân mà Hồ Chí Minh đã đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin; từ thực tiễn tồn tại và phát triển của xã hội Việt
Nam và các dân tộc thuộc địa cũng như của các dân tộc bị áp bức mà Hồ Chí
1
2

C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 1, tr.582.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 5, tr.233.


10

Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp đúng đắn
chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn phong trào
giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới. Đó chính là nguyên
nhân cơ bản, đầu tiên, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh, tình hình Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
đã đặt ra những nhu cầu bức thiết khiến cho Hồ Chí Minh phải luôn day dứt,
trăn trở tìm lời giải đáp; nỗi niềm đó chính là nguồn động lực to lớn thúc đẩy
Người ra đi tìm đường cứu nước với tâm nguyện hết sức cao cả: “Tôi muốn đi

ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” 1. Từ tâm nguyện đó, Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Điều đáng lưu ý là, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không
phải chỉ để giải quyết vấn đề nhận thức mà là để tìm con đường cứu nước,
giải phóng đồng bào với tinh thần “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng
bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu” 2. Toàn bộ tư
duy của Hồ Chí Minh đều vận động theo nhu cầu thực tiễn đó, vì thế, Người
đã sớm đi đến những kết luận có tính chân lý ngay sau khi bắt gặp chủ nghĩa
Mác-Lênin: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”3 và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”4.
Đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy phương thức giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã biết rút ra từ học
thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những nội dung cần thiết cho
Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Văn học, Hà
Nội. 1970, tr.15.
2 Sđd, Nxb. Văn học, Hà Nội. 1970, tr.49.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 9, tr.314.
4 Sđd, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.179.
1


11

cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đó mà đề ra đường lối đúng đắn cả trước mắt
và lâu dài, từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng nhân
loại, tức là từ độc lập tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Người khẳng định: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát

triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”1.
Thực tiễn nêu trên cho thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như hệ
thống những quan điểm có tính phương pháp luận của Người có xuất phát
điểm từ thực tiễn đất nước, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hơn thế nữa, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của
mình, Hồ Chí Minh luôn lấy thực tiễn của đất nước, lấy những sự kiện của
đời sống dân tộc và của thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động; lấy
mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm cơ sở chủ yếu,
nền tảng để nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận, định ra đường
lối, lựa chọn con đường và bước đi phù hợp cho Cách mạng Việt Nam; nhờ
đó mà nước ta tránh được biểu hiện giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại
cái chung một cách máy móc), đồng thời cũng tránh để không rơi vào cơ hội,
xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng vững
trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt ta vẫn tranh thủ
được viện trợ kinh tế và quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
nhưng mặt khác ta vẫn tổ chức đánh theo đường lối và cách đánh phù hợp với
điều kiện đặc thù Việt Nam; vì vậy, ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 12, tr.305.


12

Khi miền Bắc từ một nền kinh tế lạc hậu, tiền tư bản, bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã từng đặt vấn đề: “Chúng ta phải

dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên chủ
nghĩa xã hội”2 và Người nhắc nhở: “Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm
dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những
kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng
của nước ta”3.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là, quá trình thực tiễn hoá lý luận và lý luận
hoá thực tiễn là hai mặt của một vấn đề được thể hiện khá rõ nét quan điểm
thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn hoá lý luận là quá trình đưa lý luận vào cuộc sống, là thực
hành lý luận, đem lý luận kiểm chứng trong thực tiễn, đồng thời hiện thực hoá
vai trò của lý luận đối với hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, đó là gắn
lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, là con
đường để khắc phục bệnh sách vở, thói lý luận suông.
Lý luận hoá thực tiễn là hoạt động nỗ lực của chủ thể tư duy và hành
động để tổng kết thực tiễn, khái quát hoá thực tiễn thành lý luận thông qua
việc phân tích, đánh giá, sàng lọc những kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm lên
trình độ lý luận. Thực tiễn và kinh nghiệm được khoa học hoá bởi tư duy để
trở thành lý luận. Đó cũng là giải pháp cần thiết để thực tiễn không tách rời
khỏi lý luận, có lý luận dẫn đường để khỏi rơi vào tình trạng thực tiễn mù
quáng và hành động tự phát.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một luận điểm rất đáng chú ý thể hiện rõ vai trò,
vị trí, tác dụng của lý luận đối với thực tiễn và thực tiễn đối với lý luận, đó là:
“Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực
2
3

Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.494.
Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.499.



13

hành”1. Người còn nói: “Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết
luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải
cụ thể hoá chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng
nước, từng nơi”2.
Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải gắn lý luận với thực tiễn,
tránh lý luận suông và thực tiễn mù quáng. Đồng thời theo Người, tuy coi
trọng thực tiễn nhưng không được thực dụng và khi học tập, tiếp thu lý luận
cần phải hết sức tránh bệnh giáo điều, tả khuynh; không được học tập theo
kiểu “tầm chương, trích cú”, học thuộc từng câu, từng chữ, hoặc học nhằm
lấy bằng cấp để rồi mặc cả với Đảng… mà phải học tập lấy cái tinh thần,
phương pháp của lý luận để vận dụng vào thực tiễn. Người thường căn dặn:
“Học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để
áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt
những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” 1. Bên cạnh đó,
Hồ Chí Minh cũng quan niệm rằng, học phải đi đôi với hành, học mà không
hành thì không có nghĩa lý gì, chỉ như cái tủ đựng sách mà thôi. Người còn
phê phán các biểu hiện nhấn mạnh một chiều lý luận hay chỉ bo bo giữ lấy
những kinh nghiệm lẻ tẻ, Người viết: “Sai lầm nhất là khuynh hướng giáo
điều, vì nó mượn những lời của Mác-Lênin, để làm cho người ta nhầm lẫn…
Một số người không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, là kim chỉ nam cho
hành động, chứ không phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của
Mác-Lênin để loè người ta”2. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn chú trọng
tính đến hữu ích thực tế, bất cứ việc gì, dù to hay nhỏ cũng đều phải xuất phát
từ yêu cầu thực tế, thiết thực, không khoa trương, hình thức. Hơn thế nữa, Hồ
Chí Minh luôn yêu cầu phải hết sức chú trọng việc tổng kết kinh nghiệm và
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.247.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.496.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.497.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.247.
1
2


14

phê phán chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Người đã biểu hiện sự mẫu mực
tuyệt vời về vấn đề này, biết rút ra những bài học và kinh nghiệm không chỉ
trong thắng lợi mà ngay cả khi thất bại, thể hiện thái độ khách quan, khoa
học, trung thực và bản lĩnh đặc biệt của mình. Đây cũng chính là nguyên tắc
nhận thức luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác được Hồ Chí Minh
nhận thức và vận dụng với tất cả sự nhuần nhuyễn đầy tính sáng tạo của
Người. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh luôn phát hiện ra những cái mới và có những
đóng góp xứng đáng vào quá trình phát triển lý luận cũng như thực tiễn.
Từ việc hình thành và vận dụng sáng tạo quan điểm trên đây đã cho thấy,
Hồ Chí Minh là nhà lý luận và là nhà thực tiễn, tất cả hội tụ thành nhân cách
của một “Nhà văn hoá lớn”, tất nhiên trong đó, tính thực tiễn nổi trội hơn.
Điều này là minh chứng để bác bỏ những quan điểm sai của một số người khi
cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà thực tiễn thuần tuý, là nhà thực tiễn khô khan,
chứ không phải là nhà lý luận.
1.2.2. Nguyên tắc toàn diện, hệ thống, trọng điểm, thiết thực.
Một trong những nguyên tắc phương pháp luận quan trọng của chủ nghĩa
Mác là nguyên tắc toàn diện. Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ cũng có kết cấu
nhiều yếu tố liên hệ chặt chẽ với nhau chứ không phải có kết cấu giản đơn.
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, “toàn diện” là một nguyên tắc cơ bản của
phép biện chứng, của lo-gíc biện chứng. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và tiếp tục
phát triển quan điểm này, xuất phát từ thực tiễn mà nâng lên thành quan điểm
phương pháp luận toàn diện, thể hiện nội dung rất phong phú trong một hệ
thống hoàn chỉnh và được kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc trọng điểm, thiết

thực. Đây là nguyên tắc cơ bản phản ánh phong cách, phương pháp Hồ Chí
Minh trong xem xét, đánh giá, giải quyết công việc. Thông qua hoạt động


15

thực tiễn của Người, nguyên tắc này đã được thể hiện ở mọi nơi, trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Là nhà chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn
xem xét, đánh giá xã hội trên cơ sở phân tích toàn diện các lĩnh vực cả chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; cả quá khứ, hiện tại và tương lai; cả truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế… Trong xem xét, đánh giá con người, Hồ Chí
Minh không chỉ luôn chú ý đến các yếu tố cơ bản như: khả năng nhận thức và
trình độ ý thức; tư tưởng và tình cảm; đức và tài; lời nói và hành động, mặt
mạnh và mặt yếu…, mà còn xem xét toàn diện các mối quan hệ cá nhân, tập
thể và cộng đồng. Người thường nhắc nhở cán bộ rằng, trong công tác phải có
cái nhìn toàn cục, tránh chủ quan, phiến diện, cục bộ… Khi đánh giá sức
mạnh trong so sánh lực lượng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tất cả các yếu tố
tạo nên sức mạnh tổng hợp như: chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự… cả sức
mạnh vật chất và tinh thần; cả sức mạnh truyền thống và hiện tại; cả sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại; cả thế và lực; cả thiên thời, địa lợi và nhân
hoà…, đồng thời Người còn chú trọng đến sự chuyển hoá của nó trong quá
trình thực hiện vận động đấu tranh. Đặc biệt Người đã đánh giá đúng vai trò,
vị trí của từng yếu tố và sự tác động biện chứng của các yếu tố đó trong một
hệ thống, một chỉnh thể thống nhất.
Mặc dù luôn nắm vững tính toàn diện, hệ thống, song Hồ Chí Minh lại
rất chú trọng đến tính cụ thể, thiết thực, trọng điểm. Làm việc gì Người cũng
nhấn mạnh là phải cụ thể, có trọng điểm, thiết thực, nói được, làm được và dế
đến được với mọi người.
Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu trong xem xét, giải quyết

công việc phải nắm vững phương châm toàn diện, hệ thống; không chỉ phải
biết nhìn xa, trông rộng, mà còn phải luôn chú ý xem xét các yếu tố có tính


16

trọng điểm, cụ thể, thiết thực. Kế hoạch đề ra một thì biện pháp tổ chức thực
hiện phải mười, chiến lược thì phải vươn ra xa nhưng sách lược phải rất cụ
thể và chu đáo. Người căn dặn: “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ. Kiên quyết
không ngừng thế tấn công”1. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng luôn phê phán
cách xem xét, đánh giá, giải quyết công việc một cách phiến diện, chung
chung, thiếu cụ thể, không thiết thực. Sinh thời, Người thường đi kiểm tra và
nhận thấy Nghị quyết lãnh đạo của nhiều địa phương giống như Nghị quyết
của Trung ương, không sát thực với yêu cầu thực tiễn của địa phương mình.
Từ đó, Người yêu cầu Nghị quyết của các địa phương cần phải tập trung giải
quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra trong hiện tại. Một sự thật sinh động
chứng minh cho vấn đề này là: vào những ngày đầu của chính quyền cách
mạng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, trước tình thế cách mạng
“ngàn cân treo sợi tóc” nhưng trong buổi họp đầu tiên của chính phủ, Hồ Chí
Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cụ thể, thiết thực. Về sau, sáu nhiệm vụ đó được
khái quát thành ba nhiệm vụ lớn: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm”, đã được mọi người, mọi cấp quán triệt và thực hiện thắng lợi.
Tóm lại, quan điểm có tính phương pháp luận của Hồ Chí Minh về vấn
đề này đã trở thành phương pháp, phong cách của Người trong xem xét, giải
quyết mọi công việc; được thể hiện rất rõ, rất riêng, rất toàn diện, không thiên
về cái nào; Người luôn chú trọng khai thác tất cả các yếu tố; điểm đặc biệt là
Người không chỉ xem xét, đánh giá tình hình thực tiễn mà còn nghiên cứu cả
lòng dân.
1.2.3. Phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Theo quan điểm mác-xít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt

đối lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là
hiện tượng phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 3, tr.287.


17

hoá giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận
động và phát triển.
Thông qua cách diễn đạt đặc trưng của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ rằng
Người luôn thừa nhận mâu thuẫn là phổ biến, nó tồn tại trong các sự vật, hiện
tượng. Người viết: “Cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm,
dương, có sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ, có mới. Đó là những
mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật”1.
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong
và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ
yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là
điều kiện để nhận thức đúng sự vật và cũng là cơ sở để xác định phương thức
tác động nhằm giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật vận động, phát triển theo
quy luật. Theo Hồ Chí Minh, mỗi loại mâu thuẫn có một phương thức giải
quyết khác nhau, phải biết sử dụng phương thức giải quyết phù hợp với từng
loại mâu thuẫn để đạt hiệu quả cao nhất.
Phát hiện và giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật phát triển, kết hợp
đúng đắn giữa “đấu tranh” và “thống nhất”, “hoà hợp” trong giải quyết mâu
thuẫn là cơ sở phương pháp luận để Hồ Chí Minh xác định đúng đắn đường
lối cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn. Vấn đề này đã được biểu hiện trên
thực tế, tiêu biểu như:
Vận dụng phép biện chứng duy vật mác-xít vào phân tích xã hội thuộc

địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra
hai mâu thuẫn cơ bản: một là mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu
thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, hai là mâu thuẫn giữa toàn thể
XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (bài giảng). Tài liệu của Ban Huấn luyện
Trung ương, 1950 (chưa đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập). Trích theo Giáo sư Song
Thành: Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 2005, tr.330.
1


18

dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp, trên cơ sở đó, Người xác
định nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là thực dân và phong kiến tay sai,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là
chống thực dân để giành lại độc lập cho dân tộc và chống phong kiến để đem
lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn
cơ bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu
thuẫn đó ngang nhau và buộc phải giải quyết cùng một lúc. Mặt khác, cũng
theo Hồ Chí Minh thì trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, mâu thuẫn nổi lên
gay gắt nhất, trở thành mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân và bọn tay sai bán nước, có giải quyết được vấn đề
dân tộc thì mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy, ngay trong Chính
cương vắn tắt được soạn thảo năm 1930, Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu chủ
trương “thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân
cày nghèo” mà chưa nêu khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Hội Nghị Trung
ương lần thứ 8 (5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh cũng chủ trương
tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn cướp nước, Việt
gian và đề thêm khẩu hiệu “giảm tô, giảm tức”, chia lại ruộng công…Theo
Hội nghị thì làm như vậy trước mắt nhằm đánh duổi Pháp – Nhật, sau đó mới

giải quyết vấn đề ruộng đất. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đã lôi
cuốn hàng chục triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất vẫn hăng hái
tiến bước cùng giai cấp công nhân đem lại thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa,
giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng cho tính đúng
đắn của quan điểm có tính chất phương pháp luận, nhằm phát hiện và giải
quyết mâu thuẫn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam của
Hồ Chí Minh.


19

Trên cơ sở nhận thức mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau,
Hồ Chí Minh đã rất sáng tạo và thành công trong giải quyết từng loại mâu
thuẫn. Theo Người, đối mâu thuẫn xã hội (mâu thuẫn đối kháng, địch - ta) thì
phải coi trọng phân hoá, thu hẹp, cô lập kẻ thù; đồng thời phải chủ động tạo ra
thế có lợi trong so sánh lực lượng để giải quyết mâu thuẫn vào thời điểm ít
tổn thất nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
Trên thực tế, Hồ Chí Minh luôn là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta,
nêu tấm gương tuyệt vời về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Theo quyết định của phe Đồng Minh tại Hội
nghị Pốt-xđam (7/1945) thì gần hai mươi vạn quân Tưởng sẽ đổ vào miền Bắc
Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân Anh - Ấn Độ đổ vào
miền Nam Đông Dương với danh nghĩa là giải giáp quân đội Nhật. Núp dưới
bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta hòng thực
hiện âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa. Như vậy, ở Việt Nam lúc này,
nếu tính cả quân đội Nhật (tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí) thì sự
có mặt của quân đội nước ngoài với con số lên đến gần nửa triệu, khiến cho ta
cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng được ví như
“nghìn cân treo sợi tóc”. Để bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà
còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã chủ trương phải phân hoá kẻ thù bằng cách khai

thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng. Cụ thể là:
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba phe cánh khác nhau: cánh Lư Hán
thuộc Đệ nhất chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu
Quảng Tây, cánh Chu Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh.
Cả ba cánh trên đều giống nhau về mục tiêu là “diệt cộng, cầm Hồ” (tiêu diệt
cộng sản, bắt giữ Hồ Chí Minh) để dựng lên chính phủ tay sai thân Tưởng,
phục vụ cho âm mưu lâu dài của chúng, song giữa chúng có mâu thuẫn với
nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư thù sâu sắc với Tưởng Giới


20

Thạch và cả với Pháp (vì ông ta đã từng bị Pháp tịch thu mấy chuyến hàng
lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng - Côn Minh rồi bàn giao cho Tưởng), Hồ
Chí Minh đã chủ động tới thăm Lư Hán nhằm tranh thủ ông ta, đồng thời
nhượng bộ cho vợ chồng Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh
Chu Phúc Thành… Kết quả là Hồ Chí Minh đã khiến cho họ phải thay đổi
thái độ đối với chính phủ cách mạng Việt Nam và sử dụng lực lượng quân đội
Tưởng làm bình phong để ngăn chặn quân đội Pháp đang lăm le tiến ra miền
Bắc.
Thêm nữa, trong nội bộ hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia
làm hai phe: phe diều hâu chủ trương gây chiến tranh, đứng đầu là Cao uỷ
Đông Dương Đắc-giăng-li-ơ, phe tương đối hiểu biết muốn hoà hoãn, tiêu
biểu là Tổng chỉ huy quân đội viễn chính Pháp - Đại tướng Lơ-cléc. Biết rõ
điều này, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơ-cléc: “Ngài là một đại quân nhân
và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh dũng kẻ xâm
lăng nước Ngài… Lừng danh với những chiến công, Ngài lại đi đánh một dân
tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác như
anh em với nước Ngài sao?”1. Do lòng tự trọng bị tổn thương, chỉ ít lâu sau
Lơ-cléc đã từ chức Tổng chỉ huy và xin chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên

tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, làm hạn chế phần
nào sức mạnh quân sự của chúng.
Đánh giá sách lược khoét sâu mâu thuẫn nội bộ kẻ thù của Hồ Chí Minh
trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn, nguyên Tổng Bí thư Đảng ta đã viết:
“Những biện pháp cực kỳ sáng suốt của Hồ Chí Minh đã ghi vào lịch sử cách
mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê-nin-nít về lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 5, tr.5.


21

tắc”2. Nhắc lại những sự kiện xảy ra vào thời điểm đó, cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng nhận xét: “Nếu bấy giờ không có Hồ Chí Minh thì khó lường
hết điều gì có thể xảy ra”3.
Theo Hồ Chí Minh, đối với mâu thuẫn địch - ta thì chỉ có một cách xử lý
duy nhất với tư tưởng chủ đạo là “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi”, còn với mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân, xuất phát từ quan điểm “hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu
nước, ghét giặc”, cho nên Hồ Chí Minh chủ trương phải thực hiện đoàn kết
với mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ,
để tạo thế có lợi cho ta; “miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không
là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc,,,”…
không được phép bỏ một lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia”.
Với tinh thần đó, khi thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh luôn
lấy cái chung, cái tương đồng để khắc phục cái riêng, cái dị biệt; lấy nhân ái,
khoan dung để thu phục nhân tâm và cảm hoá lòng người; lấy sự nhân

nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết mọi bất đồng. Người đặc biệt chú
trọng “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự” 1 nhằm hạn chế mâu
thuẫn. Người kiên quyết phê phán một số cán bộ chỉ biết: “chia rẽ, bênh vực
lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn
nhau, hoà thuận với nhau,… quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết,
không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung”2.
Trên thực tế, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh
đã từng chỉ đạo chia tư sản Việt Nam ra thành tư sản mại bản và tư sản dân
tộc để phân hoá nội bộ giai cấp tư sản, lôi cuốn được nhiều người vốn là nhân
Lê Duẫn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1976, tr.336.
Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp,
Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1990, tr.32.
1 Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994, tập 3, tr.167.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 4, tr.57.
2
3


22

sĩ, trí thức, từng phục vụ cho chính phủ Nam triều thân Pháp, về phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã từng
chủ trương đưa nhiều người có tư tưởng yêu nước vào lực lượng thứ ba - một
lực lượng trung lập, có tinh thần dân tộc, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho
cách mạng nước ta. Có rất nhiều sự kiện minh chứng rõ cho điều này, đơn cử
như, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị Tổng Bộ
Việt Minh khoan hồng cho Vi Văn Định, một lãnh chúa khét tiếng vùng biên
giới phía Bắc nước ta, từng lầm lỡ cộng tác với thực dân Pháp và gây nhiều
tội ác với nhân dân. Vì biết Vi Văn Định có tư tưởng dân tộc và đã thực sự
hối cải, đồng thời ông ta có hai người con rễ là Nguyễn Văn Huyên và Hồ

Đắc Di, có cháu rễ là Tôn Thất Tùng (vợ Tôn Thất Tùng gọi Vi Văn Định là
chú ruột), nên Hồ Chí Minh đã ứng xử như vậy (sau này bà Hồ Thể Loan là
con gái của ông Hồ Đắc Di, làm người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, có
chồng là ông Vũ Khoan, nguyên phó Thủ tướng của nước ta). Trên đây là một
trong nhiều biện pháp giải quyết mâu thuẫn hữu hiệu mà Hồ Chí Minh đã sử
dụng nhằm lôi kéo một số nhân sĩ trí thức khác trong chính phủ Nam triều có
tinh thần yêu nước về với nhân dân, tạo thế cơ lợi cho cách mạng1.
Như vậy, đối với mâu thuẫn nội bộ (mâu thuẫn không đối kháng), theo
Hồ Chí Minh, loại mâu thuẫn này có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mâu
thuẫn còn có mặt thống nhất. Người cho rằng, để tồn tại trong sự thống nhất
thì phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái đồng thuận để khắc phục
cái riêng, cái dị biệt… Đây là quan điểm chủ đạo, thể hiện phương pháp luận
mà Hồ Chí Minh thường vận dụng để xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và
thống nhất của các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Đặc biệt, Người
luôn chú trọng sử dụng quan điểm này trong công tác xây dựng Đảng.

1

Theo nguồn tư liệu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


23

Hồ Chí Minh cho rằng, bên cạnh điểm chung về mục tiêu, lý tưởng thì
giữa những người cộng sản phương Đông và phương Tây cũng có những nét
khác nhau về cách ứng xử theo tập quán. Người phương Đông thì mềm dẻo,
linh hoạt, thiên về duy cảm; người phương Tây thì phân minh, dứt khoát,
thiên về duy lý. Trên cơ sở nhìn nhận đó, Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng
viên phải luôn nêu cao tình đồng chí, phải biết phát huy tính tích cực ở mỗi
người; đồng thời, phải luôn chú ý đề cao tự phê bình và phê bình, đặc biệt là

phải hết sức coi trọng tự phê bình. Người xem tự phê bình và phê bình là vũ
khí để ràn luyện đảng viên, là cách để làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn
và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn, đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ
lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn
trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết
chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở
rộng tự phê bình và phê bình”2.
Cũng với phương châm: “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô
sự” trong xem xét, giải quyết công việc nội bộ, dĩ nhiên, đối với Hồ Chí
Minh, phương châm đó không phải cách né tránh, buông xuôi đấu tranh, dĩ
hoà vi quý, ngại va chạm…, Theo Người, khi xem xét, xử lý sự việc, trước
hết phải lấy mặt tích cực làm trọng, phải lấy mục đích xây dựng làm tinh thần
chủ đạo; bên cạnh đó, để đảm bảo tính khách quan, trung thực thì không được
quy kết, không nâng quan điểm, không thổi phồng vấn đề… nhằm hạn chế,
không làm tăng thêm mâu thuẫn vốn có. Đây là phong cách, phương pháp đặc
thù của Hồ Chí Minh trong xem xét, giải quyết mâu thuẫn nội bộ, loại mâu
thuẫn không đối kháng, nhằm đề cao và duy trì sự tồn tại của sự thống nhất.
1.2.4. Quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái mới.

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 7, tr.492.


24

Quan điểm phát triển là nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật,
của logic biện chứng. Ở Hồ Chí Minh, quan điểm này được vận dụng, phát
triển phong phú, gắn với sự đổi mới, sự vận động và phát triển không ngừng
của cách mạng. Người luôn tỏ rõ sự sâu sắc và tinh tế của một con người có

tư tưởng đổi mới, có đầu óc cách tân, có năng lực và bản lĩnh sáng tạo lớn
trong tư duy và hành động. Đổi mới và sáng tạo để thực hiện mục tiêu phát
triển là quan điểm có tính phương pháp luận đặc sắc của Hồ Chí Minh. Quan
điểm này thể hiện rõ nét trên những vấn đề sau đây:
- Quan điểm phát triển ở Hồ Chí Minh luôn được gắn chặt với tư tưởng
giải phóng, bởi vì, một khi được giải phóng mới có điều kiện để phát triển.
Theo Hồ Chí Minh, trước hết là giải phóng dân tộc mình ra khỏi tình cảnh nô
lệ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến; rộng hơn là giải phóng tất cả
các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột trên thế giới. Nhờ biết vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời biết xuất phát từ lịch sử, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, từ đặc điểm của thời đại mà Hồ Chí Minh đã vạch ra được
đường lối cứu nước đúng đắn, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
ta đi đến thành công.
- Một trong những quan niệm tiêu biểu của Hồ Chí Minh về xã hội tương
lai dưới ánh sáng của tiến bộ và phát triển, đó là chế độ xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa. Chính Người đã phác thảo ra những nét lớn về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam theo cách diễn giải mộc mạc nhưng sâu sắc: “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”1. “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” 2. Tóm lại, chủ nghĩa xã hội
là: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” 3.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.226.
Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 9, tr.17.
3 Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 10, tr.591.
1
2


25


Những quan niệm nêu trên của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã góp phần
to lớn đưa dân tộc ta vượt qua được những khó khăn ban đầu với những sai
lầm ít cực đoan nhất, đã tránh được cho dân tộc những thử thách khốc liệt
không đáng có, những đổ vỡ mất mát không cần thiết, nhờ đó chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã vượt qua được cơn bão táp của thế kỷ, đứng vững và tiếp
tục phát triển như ngày nay.
- Hồ Chí Minh luôn nắm chắc quy luật vận động và xu hướng phát triển
của mọi sự vật, hiện tượng; nhạy cảm với cái mới, tin tưởng ở cái mới, bồi
dưỡng và phát huy cái mới.
Nhờ nắm vững quy luật và xu hướng phát triển của cách mạng, của xã
hội và của con người, nên Hồ Chí Minh luôn tin tưởng, lạc quan vào tương lai
tươi sáng của cách mạng, vào sự phát triển của xã hội và của mỗi cá nhân.
Đây là cơ sở để Người có được những dự đoán chính xác nhiều sự kiện trọng
đại của đất nước sẽ diễn ra trong tương lai. Điều siêu phàm này đã khiến cho
nhân dân ta và cả nhân dân thế giới vô cùng khâm phục.
Thật vậy, trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ những năm đầu, Hồ
Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nay tuy châu chấu đá voi, nhưng mai voi sẽ
bị lòi ruột ra”. Trong những ngày vô cùng ác liệt của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, Người dạy: “Còn non, còn nước, còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây
dựng hơn mười ngày nay” và: “Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày
thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơm to đẹp
hơn”4. Những điều nêu trên, cùng với lịch trình “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Nguỵ nhào”…, là những dự đoán thiên tài của Hồ Chí Minh, đã diễn ra trên
thực tế.

4

Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 12, tr.108.



×