Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vận dụng nội dung quy luật “ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.39 KB, 16 trang )

Mục lục
Trang

Đặt vấn đề
Có một câu nói của C.Mác mà em rất tâm đắc khi ông chỉ ra rằng: “ Tới giai
đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu
thuẫn với quản lý sản xuất hiện có…trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản
xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Có lẽ rằng, cuộc cách mạng xã hội của
chúng ta ngày nay ấy là thời đại của quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi mà xã hội
đang dần dần phát triển thay đổi, cái mới với cái cũ đan xen lẫn nhau. Theo đó,
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cũng có mối quan hệ thiết chặt và tác động
lẫn nhau.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, em xin đi sâu vào đề tài: “ Vận
dụng nội dung quy luật “ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.

1


2


Giải quyết vấn đề
I.Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a, Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định,
ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa


con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức,
phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các
yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là
lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội dung khái
niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng
suất lao động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan
trọng trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho
cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với
một trật tự xã hội khác.
b. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất xã
hội).hơ
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động
vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có
3


trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và
mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa
con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với con
người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con người
trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau.

- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người trong
phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là
giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định
tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng
lớp nào không có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột
vì buộc phải làm thuê và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác
động trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí,
pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

4


a. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan
hệ giữa nội dung vật chất và hình thức kinh tế của quá trình sản xuất; đó cũng là
mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, trên cơ sở quyết định của
lực lượng sản xuất, tạo thành nguồn gốc và động lực cơ bản của quá trính vận
động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử. Đó cũng chính là nội dung
cơ bản của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất” – quy luật cơ bản nhất của quá trình phát triển xã hội.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng
thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ”
cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và
kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng
sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất,
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất
mới ra đời thay thế.
5


b. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất không
hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản
xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân
công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ... và do đó
tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
cơ bản nhất.
II. Vận dụng quy luật về sự phù hợp cảu quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
1. Việt Nam trong thời kì đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976 – 1986)

6


Sau 30/4/1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã đạt được nhiều thành
tựu trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta vẫn là
nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ
thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ cấu kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế kém hiệu quả,
năng suất lao động thấp, khủng hoảng kinh tế kéo dài, các tệ nạn tham nhũng lan
rộng. Đảng cộng sản còn yếu kém trong việc quản lý và xây dựng nền kinh tế - xã
hội mới, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, các thế lực đế quốc và phản động ráo

riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình, phá hoại và bao vây kinh tế. Nếp sống
văn hoá, đạo đức bị xói mòn, lòng tin vào Đảng và nhà nước bị giảm sút.
Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi
cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước
đã đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5
năm đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế
hoạch là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng.
Biểu hiện ở các mặt:
- Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ
hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980
đều không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém, thiếu
đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là
lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội
kém phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
- Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản
xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản
xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên ngoài ngày

7


càng lớn. Năm 1985 nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup - USD cái hố ngăn cách giữa
nhu cầu và năng lực sản xuất ngày càng sâu.
- Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định.
Ngân sách Nhà nước liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%, 1985
là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã
xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh. Đời sống nhân dân ngày
càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên, trật tự xã hội bị giảm
sút. Những điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế

chính trị, xã hội.
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều năm
chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến hành công
nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt là không có sự phù hợp giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng ta đã quên mất điều cơ bản là nước
ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đã
thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể.
Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác
hoá và tập thể hoá. Chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi
vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy,
xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá
thấp kém. Chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có “quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa” và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây
dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản
xuất mới. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có khả năng “vượt trước” “mở đường”
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh
quan điểm đó là sai lầm bởi quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một
cách giả tạo đã làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất.
8


Phải thấy rằng quan hệ sở hữu thể hiện trong việc xoá bỏ tất cả chế độ tư hữu,
thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là xong. Nhưng
dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của nước ta khi mà chế
độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có. Chúng ta phải
thừa nhận một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá
sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng
ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội.

Cũng vậy, chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh
và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội” gây
nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu cầu thiết yếu
cho nhân dân.
Trước tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xướng lãnh đạo thực hiện
công cuộc đổi mới.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước
ta từ sau công cuộc đổi mới 1986 đến nay
a. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Từ sau khi đổi mới, lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã không ngừng phát triển.
Trình độ chuyên môn người lao động ngày càng được nâng cao, số lao động đã qua
đào tạo ngày càng tăng. Theo báo cáo “Điều tra lao động việc làm năm 2012” của
Tổng cục thống kê (Bộ kế hoạch và đầu tư): Năm 2012, lực lượng lao động cả nước
đạt 52,384 nghìn; trong đó người lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật
chiếm 83,2%, trình độ dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trở lên
lần lượt chiếm 4,7%, 3,7%, 2,0% và 6,4%. Hệ thống trường dạy nghề ngày càng
được mở rộng, góp phần nâng cao trình độ người lao động. Năm 2008 nước ta có
275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường đại học và
có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú… Bên cạnh đó, ở Việt
9


Nam những năm gần đây, đội ngũ trí thức tăng nhanh. Năm 2008 tổng số sinh viên
ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt
nghiệp cao đẳng là 81,694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh.
Theo thống kế cả nước đến 2008 có hơn 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Nhìn
vào những con số này, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trình độ người lao động
nước ta ngày một được nâng cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của
đất nước. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như: tâm lý coi trọng tấm bằng
đại học, đào tạo sinh viên, thạc sĩ một cách tràn lan,…

Máy móc trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn trong sản
xuất:
-Trong nông nghiệp, các loại máy cấy, máy gặt đập liên hợp, máy tuốt,.. đã xuất
hiện và được đưa vào sử dụng rộng rãi. Theo thống kê của ngành chuyên môn: ở
đồng bằng sông Cửu Long có trên 7.000 máy gặt đập liên hợp với trên 3.500 máy
gặt xếp dãy. Cùng với đó là hệ thống các giống cây trồng vật nuôi ngày càng được
nâng cao. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Đến nay đã có
90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, cây ăn quả… được dùng
giống mới, đã có 90 cây trồng được chọn tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp lên 35% (Nguồn: tiengiang.gov.vn).
Trong công nghiệp, việc ứng dụng công ngệ kỹ thuật mới cũng được đẩy mạnh
như việc ứng dụng các hệ thống sản xuất tự động điều khiển bằng máy tính; ứng
dụng sử dụng các nguyên liệu sinh học, hạt nhân vào quá trình sản xuất, sử dụng
các nguồn năng lượng mới như năng lượng gió, năng lượng mặt trời,… Ngoài ra,
các phương tiện máy móc hiện đại cũng được nước ta sản xuất như máy tính, máy
gặt, các loại máy móc trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Một trong
những thành tựu nổi bật phải kể đến như giàn khoan tự nâng 90m nước, lò phản
ứng hạt nhân Đà Lạt tái hoạt động, máy soi cắt lớp điện toán trong công nghiệp,
dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông,.. Hệ thống điện, đường, trường,
10


trạm cũng được nhà nước đầu tư và phát triển. Ngành điện lực Việt Nam đã có
những bước phát triển rất lớn. Những năm đầu thập niên 90 của thể kỷ trước, cả
nước chỉ có khoảng 6.000MW, sau 20 năm đổi mới đến nay cả nước đã có tới
28.000MW và hàng trăm ngàn km đường dây, hàng trăm trạm biến áp từ 500kV trở
xuống. Nguyên nhiên vật liệu, tài nguyên khoáng sản, năng lượng không tái tạo
nước ta được khai thác, phục vụ cho sản xuất, đời sống hiện nay rất nhiều. Theo
Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam trữ lượng than tại Việt Nam rất lớn: riêng ở
Quảng Ninh khoảng 10.5 tỷ tấn, trong đó đã tìm kiếm thăm dò 3.5 tỉ tấn (chiếm

khoảng 67% trữ lượng than đang khai thác trên cả nước hiện nay), chủ yếu là than
antraxit. Khu vực đồng bằng sông Hồng được dự báo cố khoảng 210 tỷ tấn, chủ
yếu là than asbitum, các mỏ than ở các tỉnh khác khoảng 400 triệu tấn. Riêng than
bùn là khoảng 7 tỉ mét khối phân bố ở cả 3 miền (Nguồn: tổng cục thống kê và
VINACOMIC). Năng lượng tái tạo vẫn đang trong giai đoạn được đầu tư, phát
triển như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối năng lượng
hạt nhân,…
Tuy nhiên, tư liệu sản xuất ở nước ta vẫn còn kém phát triển so với nhiều nước
khác xung quanh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,.. Nước ta còn phải nhập
khẩu nhiều máy móc trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu từ nước khác. Trung
Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta, chiếm 25,3% tổng kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là khí đốt, phân bón, rau hoa quả, thuốc
trừ sâu, điện thoại các loại và linh kiện, vải, máy móc thiết bị dung cụ ohuj tùng,
nguyên phụ liệt dệt may da… Đứng thứ 2 là Hàn Quốc, chiếm 13,6% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam; thứ 3 là Nhật Bản, chiếm 10,2%; thứ 4 là EU,
chiếm 7,7%;… (Nguồn: thời báo kinh tế Việt Nam)
Như vậy, lực lượng sản xuất ở nước ta tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhất định
nhưng đã có sự phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước đổi mới. Sự phát triển

11


không đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn tới sự sở hữu không đồng đều về tư
liệu sản xuất của mọi người trong xã hội.
b. Thực trạng sản xuất của quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà nước đã xác định lại các
quan hệ sản xuất ở nước ta. Bằng đường lối, chính sách pháp luật đúng đắn bước
đầu nhà nước ta đã cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau “Nhà nước
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành

phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều
15, Hiến pháp năm 1992).
Như vậy, sau giai đoạn đổi mới nhà nước ta đã thừa nhận nhiều loại quan hệ sản
xuát với nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất: quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc thừa nhận này của Đảng và
nhac nước là hoàn toàn phù hợp thực trạng của lực lượng sản xuất nước ta hiện
nay: trình độ còn thấp lại không đồng đều giữa các vùng miền, các ngành nghề; ở
nhiều nơi người dân vẫn sử dụng cái cuốc, cái cày đề lao động trong khi đó ở nhiều
nơi thì người lao động lại làm việc trong các phòng thí nghiệm, các khu công
nghiệp cao. Đảng và Nhà nước ta đã có cái nhìn đúng đắn và vận dụng một cách
sáng suốt quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển lực lượng của nước
ta.
3. Kết luận về sự vận dụng quy luật này
Nhờ việc vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng trong việc cho phép tồn tại nhiều quan hệ sản xuất phù hợp với
các trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất đã mang lại sự phát triển lớn cho nền
kinh tế nước ta giai đoạn này.
12


Nền kinh tế nước ta giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng nhanh. Trong hơn 20
năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi
mới (1986 – 1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quan 3,0%/năm thì trong 5 năm tiếp
(1991 – 1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996 –
2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ
tăng GDP của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Tuy nhiên, năm 2008,
2009 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn đạt mức

tăng trưởng kinh tế là 6,2% và 5,32%. Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm
2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong
bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý.
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế trong nước của
Việt Nam đã có sựu thay đổi đáng kể. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần,
năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%; tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
năm 2005 (Nguồn: tapchicongsan.org.vn). Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có
sự thay đổi tích cực: trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế
biến tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao; cơ cấu của khu vực dịch
vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng
cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 42 trên thế giới và đứng thứ 6 trong
khu vực Đông Nam Á (Nguồn: VnExpress.net). Tuy vị trí này còn thấp và không
quá lạc quan khi xét về dân số chúng ta đứng thứ 13 trên thế giới nhưng vị trí này
cũng là kết quả của sự cố gắng trong suốt những năm từ đổi mới đến nay của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Một số mặt hàng xuất khẩu nước ta có vị trí cao trên
trường quốc tế có thể kể đến như: trong năm 2012, xuất khẩu cà phê và gạo đứng vị
13


trí thứ 1, dệt may ở vị trí thứ 3, da giày, thủ công mĩ nghệ,… Tất cả những điều đó
hứa hẹn một sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới.
4. Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng quy luật này
a. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất
- Phát triển nguồn nhân lực và phát triển con người một cách toàn diện phù hợp
với yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh
giáo dục và đào tạo

- Thực hiện có hiệu quả các chính sách tạo việc làm, khuyến khích mọi người tự
tạo, tự tìm việc làm và thu hút lao động nhằm tăng thu nhập cho mình và góp phần
làm giàu đất nước.
- Thực hiện có hiệu quả các biện pháp nhằm phát triển thị trường lao động
- Phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng những thành tựu khoa học công
nghệ ở nước ta vào việc sản xuất nhằm nâng cao chất lượng về lượng cũng như về
chất
- Khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên có hiệu quả
b. Phương hướng hoàn thiện các quan hệ sản xuất
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững
- Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất
lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng
lớn và có sức cạnh tranh

14


Kết luận
Cha ông ta thường có câu “ Có thực thì mới vực được đạo” ấy như một lời
nhận định về giá trị to lớn của vật chất một hình thái kinh tế - xã hội đều nhằm tạo
nên những giá trị vật chất trong đó là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Đây là hai cặp phạm trù rất rộng trong cuộc sống hội nhập mở cửa của
đất nước ta ngày nay. Do vậy, cần nhận thức rõ ràng và đúng đắn mối quan hệ biện
chứng của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, như quan điểm triết học Mác xít
thì đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Chỉ có như vậy, Đảng ta mới có thể sớm đưa được con tàu đất nước
đến cái đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng

đã đề ra.

15


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ Giáo dục
và đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, 2015.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ Giáo dục và đào tạo, Nxb. Chính trị
quốc gia, 2004.
3. PGS.TS Trần Văn Phòng – PGS.TS An Như Hải – PGS.TS Đỗ Thị Thạch,
Hỏi – đáp môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, 2011.

16



×