Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Võ phiến và văn học dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.28 KB, 12 trang )

VÕ PHIẾN VÀ VĂN HOÁ DÂN TỘC
Lê Trà My1

Võ Phiến là một cây bút tản văn tiêu biểu của văn học miền Nam trước 1975. Nổi
bật trong các sáng tác của ông là vấn đề văn hoá dân tộc. Đọc tản văn Võ Phiến thấy rõ
thái độ trân trọng, nâng niu và ý thức bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc Việt Nam. Đây là những sáng tác đánh dấu những thành công trong sự nghiệp
của Võ Phiến cũng như đóng góp của ông với văn học miền Nam nói riêng và văn học
dân tộc nói chung.

1. Đặt vấn đề
Văn học miền Nam những năm sáu mươi đầu bảy mươi của thế kỉ XX, trong những điều kiện lịch
sử đặc biệt, đã đánh dấu sự nở rộ của những tác phẩm có tính chất tuỳ bút, bút kí của nhiều tác giả như
Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Mộng Long, Tạ Tỵ, Sơn Nam, Thế Uyên, Phan Lạc Tiếp,
Nguyễn Xuân Hoàng... Trong số này, cái tên Võ Phiến nổi lên với nhiều tuỳ bút, tiểu luận, tạp luận (các
tập Thư nhà, Aỏ ảnh, Phù thế, Tạp bút I, II, III, Tạp luận, Đất nước quê hương...). Ngoài những bài có
tính chất khảo cứu, bình luận chính trị, phần lớn những sáng tác này có thể quy về thể loại tản văn (một
cách gọi tên thể loại mà thời đó không được dùng). Với những tác phẩm đó, Võ Phiến được coi là một
cây bút tản văn tiêu biểu của văn học miền Nam những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỉ XX.
Đặt tản văn Võ Phiến trong cả thời kỳ văn học lớn 1945 – 1975 thấy đây là một hiện tượng khá
đặc biệt. Đặc biệt bởi trong hoàn cảnh chiến tranh, chia cắt, khi người ta bị cuốn vào cơn binh lửa, những
biến động chính trị lớn lao bứt con người ra khỏi những riêng tư, ra khỏi sự an tại của đời sống thường
nhật, thì tản văn Võ Phiến lại kéo người ta trở về với nhịp sống bình yên trong những sinh hoạt hàng ngày
như cái ăn, cái mặc, chốn ở, câu nói, điệu hò..., nghĩa là những gì đời thường muôn thuở như không hề
hằn qua tiếng súng. Đặc biệt bởi trong sự bủa vây của rất nhiều đề tài, nhất là những đề tài nhức nhối
trong văn học miền Nam như số phận, nỗi đau của chiến binh tham chiến, sự bế tắc hay phá phách của
con người trước thực tại, lối sống sa đoạ của thanh niên trong lòng đô thị miền Nam..., tản văn Võ Phiến
lại có xu hướng tìm về những nét văn hoá thuần phác, mộc mạc, lâu đời được lưu giữ trong nhân gian.
Tác phẩm của Võ Phiến như những nốt nhạc trong vắt và tha thiết bắt vào điệu hồn dân dã, bền lâu của
quê hương xứ sở.
2. Nội dung


Tản văn Võ Phiến cùng với nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn của Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Bình
Nguyên Lộc... có xu hướng tái hiện những tập tục sinh hoạt mang tính văn hoá, lưu giữ những vẻ đẹp của
cảnh sắc và con người trên những miền quê nhất là vùng Trung, Nam bộ. Sáng tác của Võ Phiến cũng có
những nét gần gũi với sáng tác của một số tác giả miền Bắc di cư vào Nam như Mai Thảo, Vũ Bằng, Phạm
1

Trường ĐHSP Hà Nội


Duy, Tạ Tỵ, Thanh Tâm Tuyền... trong nỗi hoài nhớ về những nét đẹp đẽ, thân thương của quê mẹ. Nhìn
chung trong dòng chảy những sáng tác nghiêng về tính chất sinh hoạt - phong tục, đề cao bản sắc văn hoá
dân tộc, tản văn Võ Phiến góp một tiếng nói riêng rất duyên dáng và sâu sắc, tạo được một mạch ngầm thu
hút bất kỳ ai sẵn có trong lòng một sự gắn bó sâu bền và máu thịt với đất nước quê hương. Có thể coi tản
văn Võ Phiến như một hiện thân của những di sản tinh thần quý báu của người dân đất Việt, nó lưu giữ một
điều không thể mất qua rất nhiều những biến động kinh hoàng của thời đại – hồn dân tộc.
2.1. Văn hóa dân tộc - một đề tài khá nổi bật trong tản văn Võ Phiến
Sinh ra và lớn lên ở Bình Định, gắn bó nhiều với dải đất từ miền Trung trở vào Nam, tâm hồn Võ
Phiến nương vào đất đai sông núi con người nơi đây để tìm đến những đề tài, những cách tiếp cận đời
sống ở những điều bình dị và thuần hậu nhất. Đề tài trong tản văn Võ Phiến tương đối phong phú, một
phần do sức chứa, sức dung nạp đề tài ở thể loại này khá rộng lớn, mặt khác trong cuộc sống không bằng
lặng của mình, nhiều điều nhà văn thực sự sống và trải nghiệm đều đã vang động vào trang sách. Ngoài
những tác phẩm đề cập những vấn đề có tính thời sự, trình bày những thiên kiến chính trị nhất thời, phần
lớn những vấn đề ngòi bút Võ Phiến chạm tới là những khía cạnh mang tính văn hóa của cuộc sống như
những sinh hoạt dân gian, tiếng nói dân tộc, văn chương chữ nghĩa... Có thể đó chỉ là những điều thường
ngày vẫn đều đặn diễn ra, rất bình thường nhưng không thể thiếu để con người tồn tại như chuyện ăn
uống (bánh tráng Bình Định, chè Huế, phở, nước mắm...), chuyện trang phục (áo dài), chuyện ở (làm nhà,
kiểu nhà, di dân...), chuyện sinh kế (bắt cá, chạy xe, bán hàng ăn...), nhất là phương thức giao tiếp mang
dấu vết đặc trưng của mỗi vùng miền như tiếng nói (tiếng Huế, cách nói của người miền Nam...). Những
thói quen, những tập tục sinh hoạt của cư dân các vùng miền đi vào tản văn Võ Phiến như những mảng
màu kết dệt nên bức tranh đời sống đa dạng. Khi ông viết về cách địu con của phụ nữ vùng cao, cách

xưng danh của người đàn ông thượng du, hay việc chợ búa, việc cúng giỗ ông bà..., người ta đều thấy
đằng sau đó là cả một nếp sống được hình thành từ rất lâu đời của một cộng đồng văn hoá. Có khi nhà
văn còn phản ánh cả những hình thức sinh hoạt mang những nét ý thức, tâm lý chung của số đông quần
chúng như kiểu du lịch gắn với cầu cúng chùa chiền, chưa phải là đẹp là hay nhưng là hiện tượng có thực
của văn hoá cộng đồng. Ông hướng ngòi bút vào những đề tài đó bằng sự chiêm ngắm của một nghệ sĩ
thưởng thức chính sự sống của mình, của đất nước mình. Đọc tản văn Võ Phiến như thấy hiện lên sống
động những con người cụ thể đi lại, nói cười, hát hò, ăn uống, yêu nhau, thương nhau... Đó không chỉ là
những hành xử mang tính người nói chung, mà là những nét riêng có và chỉ có ở một miền đất cụ thể, ở
một dân tộc cụ thể, có thể nhận ra ngay lập tức gương mặt, dáng vẻ của nó giữa muôn ngàn miền đất
khác, giữa muôn ngàn dân tộc khác. Ông đã tái hiện nhiều nét độc đáo, thấm đẫm bản sắc địa phương của
mỗi vùng.
Hai miền đất gắn bó nhiều với trang sách của ông hơn cả là Bình Định và Huế. Có thể thấy Huế
đối với Võ Phiến như một nơi chốn hàm chứa những nhiều nét quyến rũ khác thường, từ tính cách Huế,
phong thái Huế cho tới cách trang phục, các món ăn Huế, đặc biệt là giọng Huế. Ông nhận thấy trong chất
giọng, trong điệu hát của Huế cái bình thản của nhịp sống xứ này – chất giọng dịu dàng, êm ái, những
điệu hò thê thiết. Người Huế sống nội tâm, nuốt vào lòng mọi nỗi, có lẽ vậy mà khi cất tiếng là cất lên cả
mọi điều dồn chứa: “Khi hò làm việc, khi hát ân tình, khi hầu văn v.v.., người ta ở giữa chỗ đông đảo, đối
diện với bạn bè. Nhưng đặc biệt là khi một mình với một mái chèo trên khúc sông rộng, một mình ôm đứa


con thơ trong đêm khuya tịch mịch, bấy giờ người đàn bà Huế chỉ còn đối diện với lòng mình, triền miên
với bầu tâm sự của mình, miệt mài với những cảm xúc của mình... Trong hai trường hợp này, điệu hò và
điệu ru của xứ Huế nó kéo dài ra bất tận, nó lửng lơ, chùng chình, nó chất chứa vô vàn tình cảm nặng trĩu
và u ẩn. Nó buồn thảm đến nhức nhối...” (Giọng Huế). Viết về Huế hay viết về Bình Định, nhà văn đều
chú ý đến tiếng nói, lối nói riêng, như mang cả sắc điệu tinh thần của dân bản địa. Đối với Bình Định, ông
còn thấy trong cách làm nhà, cách ăn ở, tâm hồn, bản lĩnh của con người (Xem tướng nhà), thấy trong
cách người ta yêu nhau những đặc điểm địa lý của địa phương (Anh Bình Định). Người Bình Định thường
rất chăm chút cho ngôi nhà của mình, và đương nhiên khó mà rời xa nó. “ Xem tướng” cho những ngôi
nhà Bình Định, nhà văn thấy: “Có phải cái việc thu mình lâu đời trong những toà nhà kiên cố, mát mẻ, kín
đáo, cái thú săn sóc những đầu kèo chân cột tỉ mỉ v.v.. đã dần dà làm cho nơi đây người ta bịn rịn với gia

đình làng mạc, mất hứng phiêu lưu? Có phải cái tổ ấm quá yên ấm đã dần dà khiến người ta sinh ra cầu
an, chín bỏ làm mười cho xong chuyện? Có phải đó là nơi ấp ủ những tâm hồn nội hướng, trầm lặng, dè
dặt...” (Xem tướng nhà).
Lựa chọn hướng khai thác các vấn đề văn hoá dân tộc, Võ Phiến cho thấy một thái độ trân trọng
đối với những nét văn hóa đã làm nên bản sắc của những vùng đất và con người mà ông đặc biệt gắn bó
và yêu mến. Đây mới chính là điều làm nên những sáng tác vượt qua những giới hạn nhất thời tìm đến
được sự đồng cảm ở những thế hệ sau của nhà văn.
2.2. Đặc điểm riêng của tản văn Võ Phiến khi bàn đến những vấn đề văn hóa dân tộc
Viết về văn hoá của một vùng đất, người ta thường có xu hướng tìm đến những gì tinh tuý nhất,
tiêu biểu nhất, thể hiện tài nghệ của con người. Song dường như ở Võ Phiến, điều làm ông xúc động, chất
dính của ngòi bút lại thuộc về những gì tự nhiên, dân dã, nguyên sơ, thường tình, thuần phác nhất, thậm
chí cả những điều nhiều người cho là nhỏ nhặt, dễ bị lãng quên như cái rổ cái rá, cái ấm đun trà... Quê
hương đất nước hiện hình ở chính những điều giản dị ấy. Có khi chỉ là các đám khói ở chân trời miền
đồng quê Kiến Tường hay ở một làng biên giới Tây Nam cũng đủ gợi lên trong ông nỗi ám ảnh khôn
nguôi như thể đó chính là những dưỡng chất nuôi lớn tâm hồn: “Đồng không mông quạnh. Ở chân trời,
vài đám khói ùn lên, chậm chạp, toả cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị
làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài. Những
đám khói kể lể nỗi niềm bao la cuối một chân trời mênh mông. Đứng him mắt mà trông: khói lặng lờ,
không vội vã, khói bát ngát, nhẫn nại, xa vời; hàng giờ, hàng giờ, khói toả, vừa hiền từ vừa mơ mộng...”
(Những đám khói). Có khi khung cảnh hoang sơ của những đô thị vùng cao lại thu hút thần trí của tác giả
như thể con người được lội ngược dòng thời gian về với bản nguyên thời chưa có văn minh kỹ trị: “Trong
khi thần trí lơ mơ, bên tai văng vẳng tiếng trò chuyện rì rầm của mấy thiếu phụ ngồi trên chiếc cầu doi ra
mặt nước hay trên một thân cây gãy nằm là sà sát mặt nước mà giặt giũ rửa ráy, tiếng rì rầm nghe như xa
như gần lúc đứt lúc nối... Cũng trong khi thần trí lơ mơ, loáng thoáng qua đầu hình ảnh một dáng cây khô
toàn xương trên đỉnh đồi, hình ảnh một lằn khói đốt rẫy uể oải, như đang mải miết trầm ngâm hồi tưởng
về trăm nghìn câu chuyện huyền hoặc của cuộc sống núi rừng từ muôn vạn năm xưa...” (Đô thị hoang sơ).
Ông viết về thành phố Bảo Lộc phảng phất mùi hoa ngâu, hoa sói, hoa lài; bàng bạc trong không khí cái
mùi thơm nhẹ nhàng của các chất hương liệu dùng để ướp trà. Tản văn Võ Phiến thường tôn vinh những
cái bình dị, những gì gắn với nhân gian, sống với nhân gian, hoà chung với cuộc sống nhân gian. Ông



nhận thấy trong cách đặt tên cho đất đai sông nước của Cà Mau hay cả một vùng rộng lớn miền Nam
bước chân khai phá đất đai, chinh phục đất đai, sự quấn túm quây quần và sự tự suy tôn tên tuổi con
người “vô danh” của người Nam bộ. Đó là những cái tên của những con người không hành trạng kì tích,
không vĩ nhân xuất chúng, những con người “đã cùng bà con chòm xóm lặn lội sình lầy, góp một tay vào
công cuộc khai hoang”, những con người gần gũi, ở ngay “trong đám dân gian”(Đất của con người), sống
và chết lẫn vào dân gian: xóm Ông Đồ, ấp Ông Khâm, ấp Bà Năm, ấp Trùm Thuật, ấp Ông Muôn, ấp Ông
Nhơn, sông Ông Đốc, ngọn Ông Trang, rạch Biện Nhan, rạch Ông Quyên, rạch Bà Quang, rạch Ông Búp,
rạch Bà Khuê, rạch Ông Nô, rạch Bà Hương, mũi Ông Trang...
Tâm hồn nghệ sĩ ở Võ Phiến là tâm hồn của con người phương Đông, con người của ruộng đồng
cây cỏ. Dễ nhận ra sự hứng khởi thực sự khi nhà văn chạm đến không khí của làng mạc, xóm thôn. Ông
có thể hào hứng kể lể về các loại lúa, các loại cau, các loại tằm..., những thứ quen thuộc xung quanh cuộc
sống của người dân quê (Quê một cục).
Ngay cả khi viết về các món ẩm thực, Võ Phiến cũng thiên về những gì dân dã, không cầu kì kiểu
cách, ví như món nước mắm, mắm mòi, bánh tráng, nước vối, nước chè...; chúng như được chắt ra từ một
quê nghèo rạ rơm thân thuộc nên trở thành một phần của cuộc sống tinh thần người Việt. Nhà văn cho
rằng: “Làm mắm là tài riêng của dân tộc, và ăn mắm cũng là chút sở trường của dân quê nghèo khổ miền
Trung” (Mình với ta). Có lẽ vậy mà ông hay viết về món nước mắm, cá mắm và còn ước ao: “giá viết
được một cuốn toàn thư về mắm Việt Nam”, “đó là một công trình lập ngôn có mùi vị dân tộc không thể
chối cãi, tha hồ trường tại với non sông” (Mắm và dân tộc). Những thức uống như chè Huế mà ông hay
nhắc tới một cách đầy ưu ái cũng là thứ chè “bán ở chợ, hay bán rong dạo xóm dạo làng...” (Hạt bọt trà)
chứ không phải thứ chè quý dùng để dâng vua hay được bày bán trong những tiệm hàng sang trọng. Hay
khi viết về món bánh tráng, ông có thể kể lể nhiều cách ăn bánh tráng thật cầu kì, đạt đến mức nghệ thuật,
nhưng cái cách ăn mà ông chú ý nhất lại là lối ăn bánh tráng của người Bình Định - ăn bánh tráng thuần
tuý, không cần cuốn nhân – lối ăn mà đã là người Bình Định tất là nghiện: “Đi làm ăn xa, lâu ngày không
có dịp ăn bánh tráng, họ nhớ quay nhớ quắt” (Bánh tráng). Đó là lối ăn bánh tráng thay cơm trong những
sinh hoạt của dân nghèo: “Nông dân mỗi sáng trước khi ra đồng, nếu không kịp thổi cơm sớm, có thể
dùng mấy cuốn bánh thay bữa cơm sáng. Học trò ở trọ xa nhà, thường mang theo một chồng bánh hàng
trăm cái, mỗi sáng nhúng nước vài chiếc, cuốn ăn điểm tâm. Những gia đình có một nghề thủ công riêng,
đêm đêm thức khuya dệt vải, đập xơ dừa, chấp trân dệt chiếu v.v.., thường tổ chức một bữa ăn khuya: lại

vẫn bánh tráng nhúng nước rồi cuốn” (Bánh tráng). Nhà văn thừa nhận đây là cách ăn dở nhất, phi nghệ
thuật và khó mê. Song điều gì khiến cho người con của Bình Định này lại có thể nặng lòng với nó đến
vậy? Chỉ có thể giải thích: đó là tình quê, là sự gắn bó đến mức đã trở thành một khẩu vị cố hữu không dễ
gì gạt bỏ, trở thành một phần trong cơ thể mỗi người. Trong bài Hạt bọt trà, Võ Phiến lại cho thấy một
cách uống trà khác hẳn với lối thưởng trà tàu nhâm nhi thường thấy, nó biểu hiện một điệu sống, một cách
thưởng thức, một nội lực chỉ có ở người lao động. Trà được uống từng bát lớn, uống một hơi, “Đã tợp vào
là cứ thế thừa thắng xông lên ào ào, cứ ráo riết dồn dập cho đến cùng”. Cái ngon của nó “phàm tục thô
bạo”, “nhưng là cái ngon khoẻ mạnh, thích hợp với bản chất nông dân lao động”. Có lẽ cũng chính vì thế
mà những kì tích uống kiểu chè Huế này đã được lưu truyền trong dân gian, trong “cái xã hội của hạng
sống lam lũ quanh mình” như những huyền thoại.


Khả năng nhận ra những vẻ đẹp riêng từ những điều giản dị không ngờ như thế ở Võ Phiến không
chỉ cho thấy chất sống dân dã đã thấm vào từng tế bào cơ thể mà còn cho thấy một cách nhìn đời, một thị
hiếu, một cách đánh giá theo những thước đo riêng của nhà văn về cuộc sống và con người, một sự tri âm
đặc biệt với tất cả những gì làm nên tư chất của người nhà quê, người của văn minh nông nghiệp thuần
phác ngàn đời. Mỗi người Việt Nam, trong vô thức, đã sẵn có những kinh nghiệm ứng xử hay những ý
hướng của một người nhà quê như thế.
Dường như khi ẩn hồn vào những cái nguyên sơ, thuần phác, quê mùa, nhà văn đồng thời bị dị
ứng với những dấu hiệu của văn minh đô thị. Thật lạ, con người có sự am hiểu về văn hoá phương Tây
như Võ Phiến, con người sống giữa những trung tâm đô thị lớn với muôn vàn những mốt thời thượng,
những sự tân kì, những lối sống đa tạp, nhịp sống quay cuồng... mà lại cứ muốn đi tìm một hình bóng
người nhà quê thuần tuý. Tuy vậy, tản văn Võ Phiến không phải sự kêu gọi trở về với thôn quê chất phác,
cũng không phải sự chối bỏ quyết liệt đối với sự phát triển của văn minh. Xuất phát từ sự tri âm nói trên,
ông bộc lộ trong sáng tác nỗi buồn âm ỉ, nỗi luyến tiếc và sự hụt hẫng trước hiện tượng văn minh đô thị
có thể và đã làm sói mòn tình cảm con người, làm mai một những lề thói tốt đẹp và lấn át những nếp sinh
hoạt thôn quê. Nhà văn thảng thốt trước một thực tế: “Từ thôn quê ra thành thị, con người càng dồn sát
gần nhau lại càng lạnh lùng dửng dưng với nhau” (Cái rét đô thị). Đối với ông, thời đại kỹ thuật, cuộc
sống đô thị làm cho con người ngày càng cô đơn, bởi “Đời sống của con người ở thành phố sao mà nó
nhỏ quá, nó vô danh quá; tình liên hệ giữa người thành phố sao mà lạt lẽo hững hờ quá”, lấy đâu ra tình

lân lý láng giềng như ở nơi xóm làng dân cư thưa thớt. Nỗi cô đơn của con người giữa biển người, căn
bệnh của thời đại mới có sức tàn phá như băng giá làm tuyệt diệt khủng long – sự giá băng của lòng
người cũng có thể làm con người diệt vong. Nhà văn đã bày tỏ những điều này khi chứng kiến việc ông
cụ người cùng phố đi từ biệt láng giềng khi chuyển nhà sang phố khác: “Ông cụ nọ quen nếp sống xưa
còn có lời ly biệt; đến như lớp trẻ, thường khi hoặc nhập vào khu phố hoặc vụt rời khỏi khu phố tuyệt
không hề chào hỏi giã biệt ai cả”. Một chút biểu hiện của tình quê giữa phố xá ồn ào cũng đủ gợi lên bao
niềm trăn trở. Sự hờ hững của con người với con người, sự mất dần mối gắn kết tình người của xã hội
hiện đại là một trong những điều làm cho chúng ta xa rời truyền thống của ông bà cha mẹ. Nhà văn nhận
xét: “Bây giờ nhìn nhau chỉ thấy những công dân, thuở ấy (cách đôi ba thế hệ trước – LTM) xã hội ăn ở
với nhau như trong gia tộc”, và giả tưởng một nghi ngại: “biết đâu ông bà lại không âm thầm ái ngại nhìn
con cháu sống bơ vơ giữa một xã hội vô tình, trong đó giữa mọi người chỉ có một liên hệ pháp lý?” (Ông
và cháu). Nhịp sống, sự tiện dụng của đô thị hiện đại còn làm biến đổi bao nếp sống đẹp của người xưa
như sự hiếu khách hay tục cúng giỗ ông bà... Cúng giỗ là dịp bà con họ hàng thăm nhau, củng cố tình
thân trong họ hàng từ đời nọ sang đời kia. Vậy mà: “Trong gia đình tôi có những bậc tuổi tác, những bậc
đã từng lo việc cúng giỗ quá nửa thế kỉ rồi, nhưng từ ngày dời xóm làng về đô thị cũng đâm ra mất cả hào
hứng trong việc cúng giỗ linh đình. Cúng để mời ai? Ai đến tham dự? Họ hàng sống tản mác khắp nơi,
lâu lâu có người ghé thăm: kẻ dạy học thì ghé vào dịp nghỉ hè nghỉ lễ, quân nhân ghé vào dịp nghỉ phép,
kẻ buôn bán ghé nhân một chuyến đi mua hàng, công chức ghé nhân một kỳ hội nghị v.v.. Gặp nhau, nếu
cần ăn uống thì hoặc kéo nhau đi tiệm, hoặc ra chợ mua thức ăn về nhà, lúc nào cũng sẵn” (Đạo và đời).
Vẫn biết cúng giỗ linh đình mời bà con họ hàng “là một tập tục ra đời trong hoàn cảnh xã hội nông
nghiệp, mất hoàn cảnh ấy nó suy tàn” mà nhà văn vẫn thấy ngậm ngùi, cái ngậm ngùi trước nguy cơ suy
vi của những quan hệ người ngay trong gia đình dòng tộc.


Thời cuộc xô bồ, đặc biệt, còn làm mất đi bao nét tinh tế trong cảm quan đối với cuộc sống của
người Việt, ví như năng lực phân biệt “cái ngọt sang trọng” của chè nấu theo lối Huế với “cái ngọt phàm
phu tục tử” của trái cây đóng hộp ướp đá (Chè và văn minh), cái sự “chiếp” thử nước mắm tài tình đến
mức nghệ thuật với việc chấp nhận những món nước chấm “miễn mằn mặn và đủ chất” là được (Ăn uống
sự thường). Lòng luyến tiếc với những gì xưa cũ khiến nhà văn luôn hoài vọng, có khi chỉ là hoài vọng về
một thứ hết sức thường tình: “bây giờ đi đường khát nước, người Việt Nam trong các đô thị Việt Nam

làm sao tìm được bát nước chè để uống? Chỉ có thể uống nước ngọt mà thôi: coca, xá xị, nước cam, nước
rau má, nước sinh tố (!)...”, “tô nước chè Huế, chè vối để giải khát cho khách bộ hành thì thật sự mất tích
ở chỗ công cộng” (Ăn uống sự thường). Sự hoài vọng này tất đi kèm với những ác cảm nhà văn dành cho
những biểu hiện của sự đổi thay là hệ quả của cuộc sống hiện đại. Hình ảnh “các người làm văn hoá dân
tộc đang ngậm ống nhựa hút tùn tụt những ly pepsi, coca...” (Hạt bọt trà), đối với Võ Phiến quả là một sự
phản cảm, nó là minh chứng cho sự xa rời nếp sống thuần Việt bao đời. Khi hồn người ta đã bám rễ ở
những gì quê mùa, xưa cũ thì dễ có thái độ bực dọc như thế đối với sự có mặt của bất kỳ một dấu hiệu nào
mang bóng dáng của sự đổi thay.
Trước những biến đổi của cuộc sống, nhà văn không chỉ nhìn thấy ở đó sự thay thế của một cái
này cho một cái khác, mà ông nhận ra đó là một sự đánh mất truyền thống: “Khảo sát những xã hội gồm
nhiều giống dân di cư đến, như xã hội Hoa Kỳ, người ta để ý thấy một khi từ bỏ quê hương đến gia nhập
vào xứ lạ, di dân thường thường rời bỏ y phục cổ truyền và ngôn ngữ dân tộc trước, rồi sau cùng mới chịu
quên đi các món ăn dân tộc. Còn như chúng ta, chúng ta chẳng phải lưu lạc đi đâu, sống ngay trên đất
nước, thế mà...” (Ăn uống sự thường). Dễ dàng lý giải vì sao ông hay đề cao những gì còn được bảo lưu
một cách “ngoan cố” như chiếc áo dài truyền thống của phụ nữ Việt hay câu thơ lục bát trong văn chương...
Nhà văn nói nhiều đến vẻ đẹp của chiếc áo dài, “một sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa”, “theo sát
những nét tuyệt mỹ của thân người (...), trao cho tấm thân ấy sự linh động phơi phới” (Chiếc áo dài). Ông
còn nhận thấy trang phục ấy “phản ảnh phần nào một nét hồn dân tộc” (Lại chiếc áo dài), đó là cái giản dị,
tự nhiên, dễ thích ứng chứ không cầu kì, nghi thức, xếp đặt quá khéo như chiếc kimono của Nhật. Song có
lẽ điều quan trọng nhất chính là chiếc áo dài nói được lòng kiên trinh của phụ nữ Việt Nam: “Người phụ nữ
Việt Nam đã giữ riết lấy tấm áo của họ dai dẳng một cách khác thường”.
Theo lẽ thường, đàn ông không hay đua đòi theo thời trang bằng đàn bà, áo vét, cà-vạt ... đổi mốt
chậm hơn váy, khăn quàng, vòng cổ, xuyến tay..., thế nhưng hiện nay trừ các cụ già, các nhà tu hành, thì
hầu hết đàn ông Việt Nam tại các thôn ấp xa xôi đều mặc Âu phục; trong khi ấy thì đa số phụ nữ, ngay
đến các bà, các cô ở những đô thị lớn nhất cũng vẫn trung thành với chiếc áo dài. Hơn nữa, người đàn bà
Việt Nam không phải chỉ ăn đứt có người đàn ông Việt Nam về đức trung thành. Kiêu hãnh về nền văn
hóa lâu đời như Trung Hoa mà ngày nay đồng phục của nữ sinh trung tiểu học của họ cũng đành chấp
nhận kiểu Tây phương, trong khi đồng phục nữ sinh của ta vẫn là áo dài. Nổi tiếng lừng lẫy như chiếc
kimono mà ngày nay trên các đường phố khắp đất Nhật thứ trang phục cổ truyền cầu kỳ ấy mỗi ngày mỗi
hiếm, trong khi áo dài Việt Nam luôn luôn đại thắng y phục Tây phương trên khắp các nẻo đường đất

nước” (Lại chiếc áo dài).
Võ Phiến cũng thấy ở thơ lục bát một nét sâu bền mang đậm bản sắc dân tộc: “Câu thơ lục bát
chắc hẳn phải được kể là một trong những biểu lộ cá tính thâm thiết nhất của dân tộc Việt Nam: thơ ấy


khác hẳn với thơ Tàu, và nhất mực từ chối mọi ảnh hưởng Tàu trải qua mấy nghìn năm gần gũi. Dễ gì tìm
thấy một hình thức nghệ thuật khác giữ được bản sắc vững vàng như nó trước sự tấn công trường kỳ của
văn hóa Tàu? Vậy, lục bát là cái gì hết sức thâm thúy đối với tâm hồn Việt Nam” (Thơ lục bát Chàm).
Trân trọng, yêu quý, hãnh diện đối với truyền thống, với bản lĩnh dân tộc, ở Võ Phiến cho dù có những
lúc cố thủ trong những thiên kiến, thái độ này đáng quý biết bao nhất là được đặt trong thời điểm thế giới
hiện đại đang lấn lướt dần và xóa nhòa mọi bản sắc.
Đi tìm cái nguyên sơ, thuần khiết, cái không gian sống đầy bản sắc văn hóa cổ truyền của dân tộc
trong hoàn cảnh cái mới, cái hiện đại đang lấn át nhanh chóng và mạnh mẽ như trên đã nói, là một sự
kiếm tìm trong hoài vọng. Sự tri ngộ biến thành một niềm vui, nỗi thanh thản, một sự đền bù cảm giác
cho cuộc sống hiện tại đầy những pha tạp, biến âm.
Võ Phiến có xu hướng tìm đến những nét văn hóa đẹp đẽ, mang đậm phong cách địa phương,
phản chiếu không khí sống của một thời, đã từng ăn sâu vào máu thịt, vào nếp nghĩ, nếp sống làm thành
một cái gì đó rất riêng trong định thức về dân tộc. Đặc biệt, rất nhiều trong số đó là những cái đang có
nguy cơ mai một hoặc chìm lút trong sự vận động của cuộc sống thời đại. Võ Phiến có ý thức rõ ràng về
sự lưu giữ những nét văn hóa đang mấp mé bên bờ diệt vong trước sự đổi thay, biến tướng của rất nhiều
giá trị đời sống: chè thì bị văn minh kỹ thuật đánh ngã, bị thay thế bởi nhiều thứ đồ hộp trái cây (Chè và
văn minh); chiếc rổ đi chợ, chiếc rá long bối đang bị thay thế bởi những chiếc giỏ xách bằng ni-lông màu
mè và những cái dĩa bàn xới cơm (Quê một cục); thứ nước mắm phong phú hương vị, được thẩm định
bằng những cái lưỡi “thiên tài” đầy trực giác và cảm tính nhường chỗ cho loại mắm chỉ còn được chú ý
đến chất đạm được những dụng cụ vô tri phân tích đánh giá giá trị (Ăn uống sự thường)... Theo đấy, ông
còn cho thấy sự mất dần của rất nhiều từ ngữ chỉ những động tác, công việc hoặc đồ dùng của một thời
trong cái kho tàng phong phú của ngôn ngữ dân quê. Tản văn Võ Phiến, xét từ một phương diện nào đó,
có thể coi là chứng tích văn hóa được ghi dấu bằng những rung động chân thành của trái tim, được nhìn
qua những tiếc nuối, trân trọng và một ý thức bảo tồn của một nhân cách văn hóa. Vẻ đẹp của những
chứng tích ấy là vẻ đẹp như thể được bừng lên lần cuối cùng trong sự thể nghiệm thực sự của nhà văn

trước khi trở thành quá khứ, trở thành kỷ niệm, trở thành cái vốn văn hóa được cất giữ chứ không thể
cùng chung sống với hiện tại. Chính vì vậy, đó là vẻ đẹp đầy bâng khuâng của cái thực mà như đã thành
mộng, cái vẫn còn đang trước mặt mà đã bao phủ một niềm hoài niệm. Tác phẩm Hạt bọt trà cho thấy
hình ảnh của những con người đã từng gắn bó với tác giả từ thủa ấu thơ trong những ấn tượng xung quanh
việc uống chè Huế hết sức đặc trưng của người miền trong. Ông Tam Khoang - một cao thủ chè om - và
những người bạn tâm giao tri kỷ làm nên huyền thoại về chè Huế là những con người vẫn còn đang hiện
diện, song họ thuộc lớp người thưa vắng dần, đi dần vào quá khứ mà không có ai người sau kế tiếp.
Những từ ngữ biểu thị thời gian như “cách đây nửa năm”, “hai ông cụ vẫn tiếp tục ngày ngày cúi xuống
thổi những tảng bọt ngon lành nổi trên bát nước...” cho thấy sự hiện diện ấy. Vậy mà người đọc vẫn có
cảm giác như đang được nghe một câu chuyện gì xưa lắm về mối thâm tình quần tụ con người quanh một
cái tục uống chè mà ngày nay rất ít người biết đến. Xưa lắm bởi vì trong thời đại của tốc độ, của rất nhiều
những cái thú lôi cuốn con người, có mấy ai lại còn tri kỷ với nhau đến mức vượt mọi hiểm nguy cách trở
để được lặng im hưởng hạnh phúc từ cái om đất và những bát nước chè to tướng đầy bọt trắng. Có lẽ vì


vậy, những cách thức đun chè, pha chế chè, uống chè mà nhà văn mô tả cụ thể nhuốm một ý vị cổ kính
tựa như không khí của một thời nào đã xa trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Võ Phiến luôn tự ý thức sứ mệnh lưu giữ và bảo tồn cho đời sau những dấu hiệu của một cuộc
sống đã gắn bó dài lâu với ông bà cha mẹ. Nhiều chi tiết trong tản văn Võ Phiến trở thành một thứ tư liệu
lịch sử bởi nó dựng lại cụ thể những hoạt động hoặc những vật dụng sinh hoạt của một thời. Ông tả cái
om trà: “Chiếc om, hình thù nó như một trái sim lớn: nó tròn quay và miệng loe ra (như tai sim). Vì om
không có quai như ấm, như nồi, niêu, xoong, chảo..., cho nên để nhắc nó người ta không thể dùng đôi đũa
bếp: phải dùng cái cặp.
Cặp om là một thanh tre cật, dài non sải tay, uốn cong gập làm đôi, vòng cong vừa ôm khít chỗ eo
của miệng om” (Hạt bọt trà). Ông viết về cái rá long bối: “Ngoài miền Trung, có nhiều nơi trong bữa ăn
người ta không xới cơm thẳng từ nồi ra chén, mà trước hết được chuyển từ nồi ra rá cho bốc hơi ráo hột.
Rá cơm thành một thứ vật dụng hết sức thông dụng, những gia đình có phương tiện sắm thứ rá đan cầu
kỳ: rá long bối. Đan long bối có lẽ là cách rắc rối khó khăn nhất trong nghề đan đồ tre. Nan được gài theo
ba chiều chéo nhau, lối đan cứ bắt ba nan lại đè ba nan; do đó tấm mê long bối vừa kín vừa dày cộm, đan
xong mà lận mê vô vành cho được cũng khó. Thế mà có người còn mằn mò đan kiểu một mẹ hai con: cứ

mỗi nan lớn ở giữa lại kèm hai nan nhỏ hai bên” (Quê một cục). Ông tái hiện một cảnh nếm nước mắm:
“Người bán hàng mắm dùng chiếc gáo nhỏ xíu làm bằng sọ quả dừa xiêm dẹt, chỉ lớn hơn thứ gáo của
bạn hàng dầu vốn làm bằng sọ quả mù u, lớn hơn một chút thôi. Người hàng mắm vục gáo vào “thõng”,
múc lên lưng gáo, rót một tí vào cái chén con sạch sẽ, đưa mời. Cô tôi đón lấy chén, đưa lên mũi, ngửi
qua, mắt nhìn ngưng lại giữa khoảng không, ngẫm nghĩ, thẩm định... Xong, một cách thận trọng, cô mới
le lưỡi nhấm tí nước mắm. Rồi lặng lẽ trầm tư, cô trao cái chén về phía thím tôi...
Nhưng bà tôi sốt sắng, nóng nảy, đã vội vàng đưa tay vẫy gọi. Và thím chuyển ngay chén mắm
sang bà. Lại ngửi, lại nếm. Sau đó, đến lượt thím tôi: lại ngửi, lại nếm...
Thím phát biểu:
- Khá hơn thứ năm cắc kỳ trước.
Cô tôi tán đồng dè dặt:
- Nhấm qua thì nó dịu hơn, nhưng chị chiếp cho lâu lâu thử coi...
Bà tôi nhận định:
- Nè, mấy đứa thấy sao? Cái màu kỳ này tao không vừa ý, mà mùi vị của nó
cũng chưa đằm đâu.
Người bán hàng vội vã cười hề hề:
- Bà nói vậy, con chịu. Bà tài thật, không cãi vào đâu được. Thưa, lứa nước này thiếu nắng. Nó
còn hơi “sống” đó mà. Thưa, bà mua xong, đem “giang” ít lâu, nó bắt nắng, dậy mùi, thơm không thể tả.
Màu nó cũng sẽ vàng óng lên chứ không hề như vầy đâu. Hề hề... Với bà thì cần gì phải bày vẽ, những cái
đó bà biết hết mà. Hề hề...
Trong khi người bán hàng xoắn xuýt quanh bà, thì cô tôi thong thả trao đổi một nhận xét với
thím:


- Nước kỳ trước, mới nhấp không thấy ngon lắm nhưng thâm thẩm nó ngọt hoài trên lưỡi: càng
chiếp càng ngọt. Nước kỳ này không có hậu. Chị nhớ không: năm ngoái mình cũng gặp phải...
Thím tôi vừa gục gặc nhè nhẹ vừa bưng chén mắm lên nhắp lại một tí nữa để chiêm nghiệm.
Người bán hàng tai nghe tiếng được tiếng mất những lời bàn tán thấp giọng giữa hai người đàn bà, liền
quay lại, ngờ vực, can thiệp liền: “Thưa..Thưa...” (Ăn uống sự thường).
Có thể thấy, khôi phục và lưu giữ những nét đẹp trong sinh hoạt đời thường là một xu hướng khá

nổi bật trong tản văn, nó được phát huy đặc biệt trong giai đoạn những năm chín mươi của thế kỷ XX trở
lại đây. Trong cảm hứng chung là hoài cựu, nhiều tác giả đương đại thường kết cấu tác phẩm theo lối đối
lập xưa - nay, thấy cái cũ mất đi thì than tiếc, thấy cái mới lấp dần cái cũ thì kỳ thị, rồi ước vọng được trở
về với cái ngày xưa... Cũng có lúc Võ Phiến tỏ ra kỳ thị những thứ văn hóa kỹ trị làm biến chất những nét
đẹp thuần hậu của con người. Song, tản văn Võ Phiến viết về những cái đang tuột khỏi hiện tại, mờ chìm
vào kỉ niệm, có luyến tiếc, nhưng chủ yếu là được soi chiếu bằng một mong muốn lưu giữ lại những dấu
vết của cuộc sống tiền nhân để đánh thức hậu nhân những thấu nhận về lịch sử của chính mình. Trong
nhiều bài khác nhau, Võ Phiến thường bộc lộ ý tưởng này: “Những chỗ khác ấy không chắc sẽ còn tồn tại
lâu dài, nếu không ghi nhận kịp thời, có thể một ngày kia sự tìm hiểu sẽ thành khó vì quá muộn” (Cha cậu
Thuột); “Nghề đan của nông dân ta suy tàn nhanh chóng. Thiết tưởng nếu không gấp lưu giữ những kỷ
vật thuộc nghề này, chẳng bao lâu nữa một học sinh Việt Nam sẽ không tìm đâu ra tài liệu cụ thể để căn
cứ mà hình dung ra cảnh sống của người dân quê Việt Nam vào đầu thế kỷ nầy” (Quê một cục); “trước
khi bọt chè tan vỡ tiêu tùng hết, nên có đôi lời ghi chép về chút chuyện bọt bèo” (Hạt bọt trà)...
Thời nào cũng có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, song cái thời đang hắt bóng vào tản văn Võ
Phiến là thời có sự giao thoa mạnh mẽ giữa các sắc màu văn hóa nông thôn và đô thị, truyền thống và
hiện đại, Đông phương và Tây phương. Sự pha trộn, giành lấn này thực sự quyết liệt ở những đô thị lớn
miền Nam. Chúng ta càng nhận thấy rõ hơn một tình yêu và sự hướng về một cách chân thành nhất những
giá trị văn hóa dân tộc ở Võ Phiến, người có thừa những điều kiện để có thể chấp nhận và lao vào một
cuộc sống hiện đại như biết bao người giữa Sài Gòn hoa lệ.
2.3. Một số thủ pháp tiếp cận và thể hiện đề tài văn hóa dân tộc ở tản văn Võ Phiến
Đối với Võ Phiến, hình như những gì thuộc về quá khứ hay sắp thuộc về quá khứ, những gì thuộc
về nông thôn, những gì phản chiếu cốt cách phương Đông nông nghiệp đều làm nên bản sắc văn hóa, làm
nên những giá trị tinh thần rất đáng lưu giữ và trân trọng. Những điều ấy, như trên đã nói, đang có sự cọ
xát với những đổi thay chóng mặt của thời đại. Có lẽ chính vì vậy, Võ Phiến thường dùng cách khai thác
vấn đề dựa trên những sự tương phản: tương phản thôn quê - đô thị, xưa - nay, Đông - Tây... Người đọc
có thể nhận thấy một cách đối xử với láng giềng hàng xóm của người nhà quê khác hẳn với người thành
phố, thấy sự đối lập gay gắt giữa cách ăn uống của người xưa và người nay, thấy sự khác nhau trời bể
trong cách thư giãn của người phương Đông và người phương Tây... Từ những tương phản đó, nhà văn
biểu hiện một quan niệm nhân sinh mang đậm phong vị phương Đông cổ truyền mà con người ngày nay
không phải ai cũng có được. Ông thường nghiêng về lối sống biết nương vào thiên nhiên mà hành xử, ví

như cách ăn uống phải phù hợp thời tiết, con người biết “sống theo nhịp điệu thời tiết”, “biết nghe ngóng
từng biến chuyển của thiên nhiên để hòa nhịp đời sống mình theo một cách thông minh tinh tế. Cái thái


độ ngồi nhấm nháp và liên hệ một đĩa rau một món cá với trận mưa cơn nắng ngoài trời, thái độ ấy nó
cách xa phản ứng hồn nhiên của thú vật trước cơn đói biết bao!” (Yêu và ăn). Nhà văn đối lập văn hóa ăn
uống đó với kiểu ăn chủ yếu thỏa mãn cái dạ dày của con người ngày nay: “Không phải ăn. Thế hệ này
dùng tiếng đớp. Họ có tụ tập đêm ngày đông đen đông đỏ ở các tiệm Tây, tiệm Tàu, làm vơi thực phẩm
đô thành cứ hàng tấn hàng tấn thực; nhưng đó là đớp. Đớp ào ào, đớp như điên, không phải là ăn” (Yêu và
ăn). Trong quan niệm của Võ Phiến, sống là thưởng thức cõi đời, như vậy sống là một cuộc du ngoạn,
một cuộc chơi. Con người sống trong cuộc đời như nhẩn nha dạo chơi trong một chốn bình yên, đó là sự
sống tinh tế, cân bằng và hòa hợp. Võ Phiến viết: “Chắt chiu từng ngọn rau, trái ớt, nghĩ ngợi trù tính từ
giọt cà cuống trở đi cho được bữa ăn ngon, con người như thế dù chẳng lạc quan ham sống, ít ra cũng
bình thản trong tâm hồn, cũng hòa thuận với cuộc sống, dàn hòa với nó để nghĩ cách thưởng thức nó đến
mức tối đa” (Yêu và ăn). Đối với Võ Phiến, nếu trong cách sống xưa con người giữ được sự “bình thản
trong tâm hồn”, thì đối lập gay gắt với nó, cuộc sống nay chú vào sự hành lạc, bất cần đời, con người
“vầy vò thân xác mình, tận hưởng nó đồng thời hành hạ, đầu độc nó”. Con người hiện đại hưởng thụ văn
minh vật chất tiên tiến nhất, song văn hóa sống lại đứng bên bờ của sự suy thoái. Thời đại mới có thể tiến
bộ hơn cuộc sống của ông bà xưa về nhiều mặt, đó là điều không thể phủ định. Nhưng cách sống hòa hợp
với tự nhiên của người xưa vẫn là bài học cho con người hôm nay. Sự cắt đứt với truyền thống trong
trường hợp này không phải là sự lựa chọn thông minh của con người hiện đại. Tâm hồn phương Đông ở
Võ Phiến cũng thường hướng tới những biểu hiện của cuộc sống ưu nhàn, nhịp điệu chậm, thưa, phong
thái ung dung khác hẳn với sự mạnh mẽ, nhịp điệu nhanh, gấp gáp, ào ạt của người phương Tây. Trong
cách tiêu khiển của người phương Tây và người Việt Nam xưa ông nhận thấy những khác biệt: “Cái chơi
của Tây phương ngày nay là đá banh, là phóng xe, là bơi thuyền, là ôm nhau nhảy nhót hò hét v.v.. Cái
thú chơi cổ truyền của ta là chăm nom một cây kiểng suốt vài mươi năm, truyền tử lưu tôn một gốc cây
lùn trong vài ba thế kỷ để mấy đời con cháu thay nhau gọt tỉa, là nhấp chén trà, là tìm cách bày một hòn
đá cho hợp cảnh vườn v.v..” (Nhàn và nhã). Cái khác biệt lớn nhất của chúng ta với người Tây phương là
cốt cách thưởng nhàn một cách thanh nhã, cũng chính là sự khác biệt của hai lối sống thuộc hai hệ hình
văn hóa.

Võ Phiến có cái tài quan sát và miêu tả tinh tế, nên những “tư liệu” của ông đặc biệt hấp dẫn,
sống động, tự nhiên, tác động mạnh mẽ vào sự tưởng tượng ở bạn đọc. Đó không phải những thứ ghi chép
đơn thuần, mà là sự sống được tái hiện qua những xúc cảm và một nhãn quan riêng của nhà nghệ sĩ. Lối
miêu tả nhẩn nha, chi tiết tạo nên những trường đoạn như là những điểm nhấn giàu sức gợi mang lại cho
tản văn Võ Phiến những vẻ đẹp riêng. Ông viết về cách người ta pha chè và uống chè với con mắt say
sưa, như bị hút hồn vào từng động tác, theo dõi từng chi tiết nhỏ, chú ý đến cái mỹ cảm mà những hạt bọt
trà mang lại. Có cảm giác như tất cả những giác quan của người đọc đều bị đánh thức dậy để cuốn theo
những tình tiết của một cuộc thưởng trà độc nhất vô nhị này.
Sức hấp dẫn của tản văn Võ Phiến còn là ở chỗ từ những nét cụ thể, bình thường của đời sống
ông cho thấy cả chiều sâu tâm linh của con người, thấy các tầng vỉa văn hóa kết tụ trong đó. Vì thế, những
chi tiết đời sống thành ra có khả năng mang những mã thông tin lớn, nó là sự ngưng kết của một quá
trình, là sự ngoại hiện của một thế giới tinh thần chung của cộng đồng văn hóa. Cách thức đặt cái cụ thể
trong cái khái quát rộng lớn như vậy đã tạo ra một sự rộng mở, lan tỏa cho những trang văn Võ Phiến.


Hình như đối với ông mỗi cách hành xử dù nhỏ của con người cũng mang theo cả lịch sử dài lâu của quê
hương, cả những vô thức tập thể ngấm vào linh giác. Trong mỗi con người thấy cả quê hương, thấy cả
cộng đồng. Như vậy, mỗi hành động của chúng ta không chỉ giới hạn trong hành động của một con người,
và sự sống của mỗi người được đặt trong dòng chảy của văn hóa cộng đồng. Trong cách con người làm
nhà để ở, nhà văn thấy những nhu cầu sâu xa của tâm hồn, thấy bản lĩnh dân tộc vững vàng, qua nhiều thử
thách thời gian mà không bị lấn át hay ảnh hưởng của những phong cách kiến trúc khác (Xem tướng nhà).
Âm điệu lục bát trong thơ Việt lại là tín hiệu cho nhà văn nghĩ về lối cảm xúc riêng của dân tộc trải từ
kiếp nọ sang kiếp kia (Thơ lục bát Chàm). Trong Ăn và đọc, nhà văn cho rằng một món ăn phản chiếu
trong nó khí hậu, lịch sử của địa phương, cả bản tính, cốt cách của những con người nơi đó. Theo ông:
“Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh của khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa
phương... Và giả sử nói có phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có qua chăng?
Cái vị ngọt rất thanh của các thứ chè ở Huế gợi nhớ đến nét dịu dàng trong giọng nói và trong tính tình
người Huế. Nhất là nếu so sánh thứ nước chấm pha chế rất dịu ở Thừa Thiên với thứ nước mắm thường
dùng giữa khoảng đèo Hải Vân cho đến đèo Đại Lãnh, người ta không khỏi nghĩ đến cái tâm lý xẳng xớm
bộc trực của người dân Việt từ Quảng nam Quảng Ngãi trở vào...”. Không những thế, đối với Võ Phiến,

món ăn còn được hình thành, tuyển lựa, hoàn thiện từ đời này sang đời khác giống như một thứ nghệ
thuật dân gian vậy. Chính vì thế cái sự ăn đâu phải chỉ là đưa thức ăn vào miệng, “Con người ăn bằng tất
cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng cái khí chất riêng biệt của từng cơ thể
mình, cũng như bằng lịch sử, bằng trình độ văn hóa của xứ sở mình”. Nhiều người viết tản văn thường
quan tâm đến chuyện ăn chuyện uống, từ Tản Đà cho đến Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... Song có
lẽ chưa mấy ai bàn rộng và sâu ngoài phạm vi cái ăn đến như Võ Phiến. Đặt cái ăn uống thường tình của
con người trong một tọa độ văn hóa như vậy, nhà văn đã biến những điều cụ thể dễ nhận ra đối với bất kỳ
ai thành một biểu hiện của kinh nghiệm sống tập thể, của sự sống rộng lớn và dài lâu trong truyền thống
cộng đồng mà không phải ai cũng thấy được. Tương tự như thế, Võ Phiến nhận thấy người Việt khi nghe
những điệu hát ru à ơi trong đêm khuya là nghe “bằng cả quãng đời thơ ấu của riêng mình, bằng truyền
thống dân tộc mà mỗi chúng ta thừa tiếp nơi mình...”.
Khơi sâu vào vấn đề văn hóa dân tộc, ngòi bút Võ Phiến có cái tinh tế, mượt mà, đôi khi còn thể
hiện ý vị hài hước trong những liên tưởng đột ngột và một khẩu khí bỡn cợt quá đà. Vượt lên tất cả những
kỹ thuật sáng tác, người ta thấy đậm nét ở Võ Phiến một tình cảm chân thành, sự phát hiện những nét đẹp
đời thường đầy ngẫu hứng, lòng tự tôn đối với những gì làm nên bộ mặt tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
3. Kết luận
Tiếp cận các vấn đề văn hóa trong chiều sâu của truyền thống và lịch sử, Võ Phiến tạo cho ngòi
bút của mình một hướng đi mà sau ông mấy mươi năm trở thành một dòng chảy chính của tản văn Việt
Nam. Tản văn Võ Phiến hầu như không có những suy tư mang tính triết học về con người như trong một
số sáng tác của Mai Thảo. Bàn về các vấn đề quen thuộc, gần gũi, lại bằng cách nói cụ thể, giản dị, tự
nhiên, không có những triết lý trừu tượng, tác phẩm của ông đến được với nhiều đối tượng tiếp nhận khác
nhau. Võ Phiến cũng ít khi bộc bạch những cảm xúc, những kỷ niệm riêng tư bó hẹp trong cuộc sống cá
nhân như trong tản văn Thanh Tâm Tuyền hay Vũ Bằng... Những trải nghiệm riêng được nhà văn đưa vào
những vấn đề có tính phổ quát, vào những mối quan tâm của cả một lớp người mà thị hiếu, nếp sống, nếp


nghĩ ít nhiều còn gắn với những giá trị truyền thống phương Đông, lớp người đang chứng kiến thế hệ sau
trưởng thành ở những đô thị miền Nam thời ấy sẵn sàng xa rời những gì thuộc về văn minh nông nghiệp
để thể nghiệm một lối sống mới từ phương Tây đưa lại. Theo dõi quá trình sáng tác của Võ Phiến sẽ nhận
thấy, ông khởi nghiệp bằng truyện ngắn, sáng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, có những tập truyện đã

được giải thưởng văn học (Tập Mưa đêm cuối năm), song càng về sau ông lại càng mặn mà với thể loại tự
do bộc bạch chính kiến và thái độ chủ quan của mình - tản văn (sau 1975, ở hải ngoại, ông tiếp tục đăng
nhiều tác phẩm trên Internet). Vào giai đoạn sung sức nhất, những năm sáu mươi đầu bảy mươi của thế kỉ
XX, tâm lực và vốn sống của Võ Phiến có dịp bộc lộ trong nhiều tác phẩm tản văn, nhất là bộ phận sáng
tác về đề tài văn hóa dân tộc. Đây là những sáng tác đánh dấu những thành công trong sự nghiệp văn
chương của Võ Phiến cũng như đóng góp của ông với văn học miền Nam nói riêng và văn học dân tộc nói
chung.

VO PHIEN' WRITING AND NATIONAL CULTURE
Le Tra My
Abstract
Vo Phien's writing is typical of South Vietnamese literature before 1975, in that it examines the
meaning of the nation and its culture. Reading Vo Phien’s writing, we can see very clearly his pride in,
and sense of custodianship for Vietnam’s traditional cultural values. His early essays and short stories
earned him his literary reputation and are seminal works of south Vietnamese literature in particular and
national literature in general.



×