Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN bài học KINH NGHIỆM kết hợp HAI NHIỆM vụ CHIẾN lược xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC rút RA từ sự sụp đổ ở LIÊN xô và ĐÔNG âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.41 KB, 21 trang )

BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ SỰ KẾT HỢP HAI NHIỆM VỤ CHIẾN
LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN RÚT RA TỪ SỰ XỤP
ĐỔ CỦA CNXH Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Mùa thu năm 1991 chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô xụp đổ, cùng với trước đó
và tiếp sau là sự xụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Sự xụp đổ
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, đó là một sự kiện quốc tế có tác động,
ảnh hưởng to lớn tới tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống cộng, chống chủ
nghĩa xã hội thì sự xụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là dịp may để chúng thực hiện
“chớp lấy thời cơ” để chiến thắng chủ nghĩa xã hội. Với thủ đoạn “chiến lược
diễn biến hoà bình” nhằm lật đổ kết thúc sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội trên thế
giới, đồng thời cũng nhân cơ hội này chúng tìm cách xoá bỏ phong trào công
nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, dập tắt phong trào giải phóng dân tộc thiết lập
trật tự thế giới mới. Đối với những người cộng sản và nhân dân tiến bộ trên thế
giới, sự xụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, thành trì của hoà
bình và cách mạng thế giới, có hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã
không tránh khỏi làm cho họ hết sức lo ngại về số phận và tiền đồ cách mạng của
nước họ cũng như trên toàn thế giới. Sau sự xụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và Đông Âu hàng loạt vấn đề lớn được đặt ra là: Liệu các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại có tồn tại và đứng vững được hay không? Làm thế nào để các
nước đó có thể tiếp tục đứng vững và phát triển? đó là những vấn đề lý luận và
thực tiễn cấp bách đặt ra trong tiến trình cách mạng của các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại và tiến trình cách mạng thế giới.

1


Vậy thì, vì sao chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã từng được xây
dựng hơn 70 năm lại bị xụp đổ? Bài học nào có thể rút ra từ quá trình đó với
những thành tựu và những sai lầm dẫn đến sự xụp đổ? Sự kết hợp chặt chẽ giữa


hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tác động của nó tới sự
nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam ra sao? Từ đó rút ra những kinh
nghiệm để làm cho công cuộc đổi mới ở nước ta vượt qua những khó khăn thử
thách và đi đến thắng lợi, theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Sự xụp đổ chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu được bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa trong quá trình thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Với hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và
Đông Âu đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và toàn diện. Những thành
tựu đó không những làm biến đổi bộ mặt Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
mà còn đóng góp lớn lao vào sự phát triển của nền văn minh nhân loại và tiến
trình cách mạng thế giới. Ngay sau khi cách mạng tháng mười thành công
ngày25/10/1917 Đại hội II các Xô Viết khai mạc ở Điện Xmônưi đã tuyên bố
thông qua sắc lệnh hoà bình, sắc lệnh ruộng đất, sắc lệnh thành lập chính phủ
công nông do Lênin đứng đầu, tiếp tục chấn áp bọn phản động trong nước. Khẩn
trương xây dựng chính quyền từ cơ sở đến tận làng xã. Để bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng, ngày 15/1/1918, chính phủ đã ra chỉ thị thành lập Hồng
quân Công nông. Những chủ trương trên đã thể hiện sự nhìn nhận đúng đắn của
Lênin và Đảng Bônsơvích Nga về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền
mới. Hơn 7 thập niên tồn tại, gần 30 năm đầu nước Nga và sau đó là Liên Xô đã
kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chính vì
vậy Liên Xô đã đứng vững giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, đương đầu với
cuộc nội chiến khốc liệt ( 1918- 1921), chống lại cuộc can thiệp của 14 nước đế

2


quốc, bảo vệ và phát triển thành quả của cách mạng tháng mười Nga, thiết lập và
củng cố chính quyền Xô Viết, làm cơ sở để thống nhất các dân tộc Nga thành
một nhà nước liên bang rộng lớn bao gồm 15 nước cộng hoà với diện tích 22,4
triệu kilômét vuông dân số hơn 250 triệu người vào ngày 30-12 1922, kết quả đó

bước đầu đánh dấu thắng lợi của chính sách kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ tổ quốc của Lênin và của đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ .
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô còn
đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, cũng như khôi phục nền kinh tế
(1921-1925), thời kỳ xây đựng và phát triển xã hội chủ nghĩa (1926-1941) biến
Liên Xô từ một nền kinh tế lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá thành một cường quốc
kinh tế số một trên thế giới, làm tiền đề cho những cống hiến tiếp theo của Liên
Xô sau đó …Với những chính sách đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc
của Lênin cũng như Đảng cộng sản Liên Xô, trong một thời gian ngắn đã biến
Liên Xô thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, với một nền công nghiệp
tiên tiến, khoa học, kỹ thuật, văn hoá phát triển tạo tiền đề vật chất và tinh thần
bảo đảm cho Liên Xô giữ vững và phát triển sự nhiệp xây dựng và bảo vệ chủ
nghĩa xã hội của mình.
Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa phát huy vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản đối với toàn bộ xã hội, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước chân chính
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Xô Viết. Tính ưu việt của chế độ
xã hội mới và tác động tích cực của nó trong sự nghiệp xây dựng đất nước là
những nguyên nhân dẫn tới thành tựu toàn điện của Nhà nước Xô Viết. Nhờ
những thành tựu to lớn đó nhân dân Liên Xô đã chiến đấu kiên cường góp phần
chống lại chủ nghĩa phát xít cứu loài người thoát khỏi hiểm hoạ do chúng gây ra,
tạo thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, từ đây các nước xã

3


hội chủ nghĩa ở Đông Âu và tiếp theo là một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở
Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh ra đời. Vào những năm 70 của thế kỷ XX
Liên xô đã đạt được sự cân bằng quân sự chiến lược Liên Xô- Mỹ. Và Liên Xô
đã trở thành trung tâm, chỗ dựa tin cậy của các lực lượng đấu tranh cho hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, Liên Xô và Đông
Âu đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng kéo dài trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, dẫn đến sự xụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ thứ XX. Đó là, xem xét từ
tình trạng xã hội và điều kiên cuộc sống chung thì các nước Liên Xô và Đông Âu
có rất nhiều vấn đề nhưng ở góc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ta thấy rằng:
Việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội với thể chế kinh tế và chính trị
cứng nhắc đã làm cho dân chủ xã hội chủ nghĩa biến dạng méo mó nghiêm trọng.
Nền kinh tế phát triển chậm chạp, không kịp thời áp dụng những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, chính vì vậy năng xuất lao
động thấp, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Cách mạng đã thắng
lợi đã mấy chục năm, nhưng vẫn chưa giải quyết được những vấn đề căn bản
trong đời sống dân cư. Nhân dân sống quá cực khổ trong một thời gian dài, họ so
sánh đời sống trong nước với đời sống của nhân dân phương tây nơi mà hàng
hoá tràn ngập, từ đó sinh ra tâm lý hâm mộ phương tây, hoài nghi tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội là điều không thể tránh khỏi.
Từ vấn đề kinh tế không làm tốt sẽ tác động đến các vấn đề chính trị, xã hội mà
như Đặng Tiểu Bình đã nói: “ Một số nước trên thế giới sảy ra vấn đề, về cơ bản mà

4


nói, đều là vì kinh tế không đi lên, không có cơm ăn, không có áo mặc, tiền lương
tăng lên bị lạm phát xoá sạch, mức sống đi suống, sống quá khổ cực lâu dài”1.
Từ những quan tâm không đúng đắn lợi ích vật chất dẫn đến sự giác ngộ về
tinh thần cách mạng cũng bị giảm sút, bởi lẽ cách mạng xuất phát từ lợi ích vật chất,
nếu chúng ta chỉ nói và hô hào tinh thần chung chung mà không chú ý đến lợi ích
vật chất của người lao động, đó là quan điểm phiến diện sai lầm. Thực tế những
người công nhân muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bởi vì
họ nói “ Chúng tôi phải lật đổ các ông vì một bánh mì không đủ ăn, hai ngày đông

tháng giá không có lò sưởi ấm”. Ra cốp Kơ cựu bí thư thứ nhất trung ương Đảng
cuối cùng của Đảng công nhân thống nhất Ba Lan khi nói đến bài học thất bại của
Đảng Ba Lan đã nói: “ Nguyên nhân căn bản nhất làm cho Đảng thất bại là không
làm tốt kinh tế, đối với Đảng cầm quyền mà nói, làm tốt việc xây dựng kinh tế thi
tất cả các vấn đề khác đều làm tốt. Không làm tốt việc xây dựng kinh tế, quần
chúng không ủng hộ, nói ra không ai nghe thì có nguy cơ mất chính quyền”
Các nước Liên Xô, Đông Âu không làm tốt kinh tế không phải do bản chất
của chế độ chủ nghĩa xã hội không tốt, mà là do thể chế chính trị cụ thể có vấn
đề nghiêm trọng. Sai lầm và thiếu sót của họ lại không ở trên một vấn đề cụ thể
nào đó, mà là từ tư tưởng chỉ đạo chung. Đó chính là chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa giáo điều tả khuynh lâu dài nóng vội muốn đi ngay lên chủ nghĩa xã hội
hoặc chủ nghĩa cộng sản, đốt cháy giai đoạn phát triển của thời kỳ quá độ, xa rời
thực tế của một nước có nền kinh tế lạc hậu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề sai sót khác như sai lầm và thiếu sót trong xây dựng một thể chế
chính trị, kinh tế và về vấn đề chế độ sở hữu, vấn đề phân phối ... Vì vậy dẫn đến
1Văn

tuyển Đặng tiểu Bình; quyển 3; tr. 354.

5


một thời gian dài không giải quyết được vấn đề kết hợp giữa chủ nghĩa MácLênin với thực tế nước mình và đặc trưng của thời đại. Về sau lại từ tả khuynh
nhảy sang hữu khuynh, hoàn toàn xa rời, từ bỏ và vứt bỏ chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Liên Xô và Đông Âu đã tiến hành cải tổ là tất yếu nhưng tiến hành cải tổ,
cải cách, sửa chữa sai lầm…lại mang tính dị dạng, nửa vời, mãi vẫn không thể
đột phá được cái khung cũ, không thể vượt qua cái mô hình truyền thống của chủ
nghĩa xã hội, không giải quyết được vấn đề về kết hợp đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, giữa xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước và các tổ chức chính trị

xã hội, về sau lại ngả theo, làm theo phương tây, từ chỗ đang áp dụng giáo điều
chủ nghĩa Mác - Lê nin nhảy sang tôn sùng đối với chủ nghĩa tư bản. Vì vậy quá
trình tiến hành cải tổ sửa chữa sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
mang tính chất tả khuynh vừa mang tính chất hữu khuynh mà thực chất là xa dời
chủ nghĩa Mác - Lê nin dẫn đến sự xụp đổ không thể tránh khỏi trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước Đông Âu cho chúng ta thấy rằng. Với những thành tựu trong bảo vệ tổ
quốc sau cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 nhất là sự chiến thắng phát xít với
vai trò quyết định chủ yếu của Liên Xô trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, cùng
với đó là sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã làm cho nhiều
người cộng sản có xu hướng đánh giá chủ quan về phong trào cách mạng thế giới
nói chung và phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Họ đã đánh giá
không đúng kể thù của mình là chủ nghĩa tư bản, không thấy hết khả năng tự
điều chỉnh và thích nghi của nó, nhấn mạnh một chiều tính chất giãy chết, diệt
vong của chủ nghĩa đế quốc …và hy vọng sẽ tiến hành cách mạng vô sản trên

6


phạm vi toàn thế giới khi mà so sánh lực lượng chưa cho phép. Trong khi đó chủ
nghĩa đế quốc không bao giờ từ bỏ âm mưu và thủ đoạn hòng tiêu diệt chủ nghĩa
xã hội ngay từ khi còn trong chứng nước.
Thực tế chủ nghĩa chống cộng điên cuồng do chủ nghĩa đế quốc phát động
tìm mọi cách để tiêu diệt phong trào cộng sản nói chung và đảng cộng sản Liên
Xô nói riêng. Thăng lợi của cách mạng tháng mười, Đảng Cộng sản nắm chính
quyền ở một lãnh thổ bằng 1/5 trái đất làm cho chủ nghĩa đế quốc luôn tức tối,
chúng tìm mọi cách để tiêu diệt chủ nghĩa xã hội chống phá phong trào công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc mà mũi nhọn công kích là Đảng cộng sản
Liên Xô. Chúng không từ bỏ thủ đoạn nào, từ công khai đến bí mật, lợi dụng

những sai lầm sơ hở trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội để chống phá.
Trong thời kỳ cải tổ, lợi dụng những sai lầm trong cải tổ, cải cách chúng tuyên
truyền kiểu tự do phương Tây, bôi nhọ nói sấu Đảng Cộng sản, kích động đòi đa
nguyên đa đảng đối lập. Chúng dùng chiêu bài viện trợ về kinh tế, kỹ thuật, kết
hợp với thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, ra sức cổ xuý cho các phần tử
phản động, trong nước và quốc tế với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng,
xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ tự do “kiểu phương Tây”.
Sự tấn công của kẻ thù từ nhiều phía đã gây ra rất nhiều khó khăn trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu như: bị cô lập dẫn đến sự khủng hoảng về
kinh tế, từ đó dẫn đến mất ổn định về chinh trị, uy tín của Đảng Cộng sản bị
giảm sút nghiêm trọng, tạo điều kiện cho các lực lượng chống đối hoạt động, các
tổ chức chính trị xã hội mất phương hướng chiến đấu. Đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu trong thời gian vừa qua.

7


Vì vậy vấn đề rút ra trong lĩnh vực bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là phải
luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không đánh ngang bằng kể thù
xâm lược với người cán bộ bị xâm lược, phải vạch trần các luận điệu xuyên tạc
lịch sử. Thấy rõ âm mưu của chủ nghĩa đế quốc vừa tiến hành chiến lược “ diễn
biến hoà bình”, vừa tăng cường chạy đua vũ trang dùng sức mạnh quân sự dăn
đe và sẵn sàng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phù hợp với lợi ích của
chúng và âm mưu chỉ huy thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa luôn chuẩn bị mọi
mặt cho việc bảo vệ tổ quốc trong mọi tình huống và là vấn đề có tính nguyên
tắc trong nhận thức và hành động của các nước xã hội chủ nghĩa.
Sự xụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự kết hợp tác
dụng tổng hợp của các nhân tố nhiều tầng với những nguyên nhân sâu xa và trực

tiếp, cùng với những bài học rất đắt giá. Trong đó nhìn nhận từ vấn đề thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quỗc xã hội chủ nghĩa đối với
những thành tựu cũng như sai lầm dẫn đến sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu, cho chúng ta thấy rằng:
Nguyên nhân sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước
Đông Âu là tổng hợp các nguyên nhân: khách quan, chủ quan, sâu xa, trực tiếp,
bên trong, bên ngoài, trong đó nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do sự xuy
yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, Đảng đánh mất vai trò lãnh đạo
của mình. Sự sai lầm về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cho Đảng cầm quyền
xa rời và vi phạm những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin, để cho
các phần tử cơ hội, chủ nghĩa cơ hội, xét lại thao túng phá hoại; mơ hồ mất cảnh
giác trước âm mưu phá hoại của chủ nghĩa đế quốc; xa rời nhân dân, quan liêu
tham nhũng, mất lòng tin của nhân dân, không được nhân dân bảo vệ ủng hộ.

8


Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông âu đã tác động
mạnh mẽ tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và xã hội chủ nghĩa trên
nhiều lĩnh vực đó là: Các nước định hướng xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng xuy
yếu, mất ổn định về chính trị, suy thoái kinh tế, các thế lực chống cộng đẩy mạnh
hoạt động chống phá. Lần lượt nhiều nước rơi vào xung đột, nội chiến, hoặc Đảng
Cộng sản, Đảng cách mạng mất chính quyền (Apganixtan, Nicaragoa, Ăngôla,
Môdămbích…). ở các nước tư bản chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản cũng gặp khó
khăn tổn thất lớn trước chiến dịch tiến công của chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa
xã hội dân chủ, uy tín của đảng bị suy yếu, ảnh hưởng của nhiều Đảng bị thu hẹp.
Vấn đề chiến lược sách lược cách mạng dao động về mục tiêu, phương hướng…
Lịch sử đã chứng minh sau cách mạng tháng mười hành tinh chúng ta đã
hình thành nên hai hệ thống thế giới đối lập, thế giới xã hội chủ nghĩa và thế giới
tư bản chủ nghĩa. Sự vận động và phát triển của đời sống quốc tế sau cách mạng

tháng mười chịu sự tác động của các mối quan hệ, cũng như sự phát triển của hai
thế giới trên. Là một nước tiến hành cách mạng vô sản đầu tiên giành được thắng
lợi, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên toàn thế giới. Liên Xô thực sự là nước đi đầu trong tiến hành cách mạng
thế giới, đã từng là thành trì của hoà bình, chỗ dựa tin cậy của hệ thống xã hội
chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc. Tác động to lớn nhất của Liên Xô và Đông Âu đối với các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại là sự khảng định lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa và thực
hiện lý tưởng đó. Trước đây sự ra đời và tồn tại của Nhà nước Xô Viết và sau đó
là các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu có ý nghĩa to lớn đối với sự lựa chọn hệ
tư tưởng Mác và con đường xã hội chủ nghĩa của nhân dân các nước đang đi lên
chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa.

9


Những thành tựu mà nhân dân Liên Xô đã giành được và sự đóng góp vào
quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thế giới hơn 70 năm qua, đã đem
lại niềm tin vô hạn cho nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa vào đất nước Xô
Viết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Đối với họ niềm tin vào Liên Xô
và chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Đó là đất nước đi
đầu trong sự nghiệp cách mạng thế giới, thực thi nghĩa vụ quốc tế to lớn, ủng hộ
về mọi mặt phong trào cách mạng thế giới. Liên Xô cũng là một đất nước đã trải
qua sự thách thức to lớn và khắc nhiệt do các thế lực đế quốc gây ra, song không
một kẻ thù nào khuất phục được Liên Xô…Nó là niềm tin của nhân dân các
nước xã hội chủ nghĩa và cũng là thực tế lịch sử hơn 70 năm tồn tại của Nhà
nước Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ
quốc ở các nước xã hội chủ nghĩa luôn có hình ảnh Liên Xô, Đông Âu trong trái
tim họ, luôn có người anh quan tâm giúp đỡ. Bởi lẽ thực tế khi họ bị chủ nghĩa

đế quốc đe doạ thì chính Liên Xô và Đông Âu đã giúp đỡ họ giải phóng và bảo
vệ thành quả cách mạng. Khi họ xây dựng đất nước thì Liên Xô và các nước
Đông Âu đã giúp đỡ họ về mọi mặt, đặc biệt là vạch hướng cho các nước xã hội
chủ nghĩa đi tới con đường hạnh phúc tương lai. Sự giúp đỡ đó một mặt nó tạo
điều kiện thuận lợi cho các nước phát triển nhưng từ đó cũng xuất hiện một số
hạn chế, yếu kém trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở các nước xã hội chủ nghĩa
đó là: Sự dập khuôn máy móc Liên Xô, Đông Âu, tâm lý dựa dẫm, không phát
huy tính năng động sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội, trong quan hệ hội nhập quốc tế …chính vì vậy, khi Liên Xô và Đông Âu
xụp đổ thì các nước xã hội chủ nghĩa còn lại phần nào bị chi phối và hẫng hụt …
làm cho một bộ phận lớn những người cộng sản và nhân dân các nước xã hội chủ

10


nghĩa hết sức bàng hoàng, xuy giảm niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa vào lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa. Với tâm tư phổ biến của những người cộng sản và
nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đó là quan điểm: Liên Xô là một nước xã
hội hùng mạnh, hệ thống xã hội chủ nghĩa vững chắc như vậy mà không chánh
khỏi sự xụp đổ thì chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại sẽ ra sao?
Có thể nói bài học trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu các Đảng cộng sản cần rút ra những bài học đó là: Bài
học về sự kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin; lợi ích lập trường của
giai cấp công nhân; bài học về không ngừng chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị
và chế độ dân chủ; chú trọng phát triển kinh tế, xã hội chăm lo đời sống mọi mặt
của nhân dân; giải quyết đúng đắn có hiệu quả các vấn đề xã hội búc súc; cảnh giác
với kẻ thù; tăng cường sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tăng cường
đoàn kết quốc tế; chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội xét lại…
Chúng ta thấy rằng những hạn chế yếu kém của chủ nghĩa xã hội trong quá

trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một mặt là sự tất yếu của quả trình phát triển
vì xuất phát điểm của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ những lực lượng sản
xuất chưa thực sự phát triển cộng với sự chống phá của kẻ thù và những sai lầm
khuyết điểm trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin vào trong quá
trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, chứ không phải sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là bắt nguồn từ bản
chất của chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Chính vì vậy bài học trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa rất thiết thực

11


đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng tháng mười, được sự
giúp đỡ quý báu của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cùng với
sự kết hợp hài hoà giữa bản lĩnh chính trị vững vàng và trí tuệ khoa học, giữa sự
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin với sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện
hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắng lợi cơ bản đó là: thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 và việc thành
lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, là nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, mở ra cho đất nước ta một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi oanh liệt của hai cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ và thực dân Pháp không những có ý nghĩa giải phóng và bảo
vệ tổ quốc mà còn có cả ý nghĩa quốc tế. Đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và
mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện thống nhất tổ
quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như Liên Xô và Đông Âu
cách mạng Việt Nam đã mắc phải sai lầm trong một số lĩnh vực đặc biệt là kinh

tế, dẫn đến khủng hoảng kinh tế, đời sống của nhân dân bị khó khăn. Cùng lúc
đó chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã ảnh hưởng rất lớn
đến cách mạng Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Mặt khác sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đối
với các thế lực thù địch, chúng coi đây là “cơ hội vàng” để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội
trên thế giới. Mượn cớ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
chúng tuyên bố sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản. Chúng cho rằng sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chính là “ cái chết” của chủ

12


nghĩa cộng sản, sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội hơn 70 năm qua là “lỗi lầm của lịch
sử” là sự “áp đặt” của những người cộng sản theo một mô hình mà họ tưởng tượng
ra và thực thi nó trong cuộc sống hiện tại. Mượn cớ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và Đông Âu các thế lực đế quốc đã nhân cơ hội đó xuyên tạc lên án chủ
nghĩa xã hội, gây lòng căm thù và reo rắc sự hoài nghi về chế độ xã hội chủ nghĩa
cho mọi người nhằm loại bỏ chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam.
Nhưng trong những bước quanh co của con đường phát triển, trước những
tổn thất to lớn của cách mạng trên thế giới do tác động tiêu cực của sự sụp đổ chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta đã kịp thời rút ra những bài học kinh
nghiệm tích cực đóng góp lớn về lý luận và thực tiễn cho việc thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước 1981 Đảng ta đã xác định những vấn
đề chiến lược con đường phát triển của đất nước, những nhiệm vụ cơ bản của
đảng cộng sản Việt Nam trong suốt thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặt cơ sở lý
luận, định hướng chính trị của Đảng và đất nước tiếp tục thực hiện trong giai
đoạn tiếp theo. Đảng ta khảng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua nhữnh bước
quanh co; song, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy
luật tiến hoá của lịch sử”2. Từ đó Đảng ta xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam là: xã hội “do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng tiến
2

cương lĩnh xây dựng đất nước…; Nxb Chính trị quốc gia, H. 1991, tr8.

13


bộ; có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh cũng chỉ ra những vấn đề cần nắm vững trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng - an ninh, xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ qúa
độ đề ra những định hướng lớn về kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại…
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 12/1986 tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI với đường lối kinh tế là xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều quyết định quan trọng trong các lĩnh vực tiền tệ
tài chính, thực hiện các giải pháp đa dạng hoá các nền kinh tế, xoá bỏ chế độ đặc
quyền kinh doanh của nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thực hiện một
bước tự do hoá thương mại, xoá bỏ sự khép kín của thị trường.
Từ đổi mới kinh tế rất cơ bản dẫn đến có tác động tích cực từng bước khắc
phục khủng hoảng, hạn chế tiêu cực do sự xụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu gây ra, phát triển lực lượng sản xuất đem lại sự ổn định và phát triển
đất nước. Với đường lối đổi mới và mở cửa đúng đắn việc kêu gọi đầu tư nước

ngoài vào Việt Nam, đã làm cho kinh tế nước ta từng bước được khắc phục và
phát triển, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Cùng với những chính sách đổi mới
về kinh tế chính sách đối ngoại được mở rộng thực hiện đa phương hoá đa dạng
hoá trong quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, đã tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp “công
nghiệp hoá hiện đại hoá” đất nước và góp phần vào sự ổn định và hợp tác trong
khu vực và trên thế giới. Đổi mới kinh tế chúng ta tiến hành đổi mới về chính trị,
đã phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước và

14


quyền làm chủ của nhân dân lao động ngày càng được nâng lên, tạo sự ổn định
chính trị góp phần tác động cho phát triển kinh tế.
Đi đôi với phát triển kinh tế Đảng ta chủ trương phát triển văn hoá và giáo
dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
nhân dân. Đảng ta đã chỉ rõ “ Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,
từng bước cải thiện đời sống vất chất và tinh tần của nhân dân”3.
Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới từ 1996-1996, Đại hội VIII rút ra
một số bài học chủ yếu đó là: Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng và tiến bộ xã hội, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái; mở rộng và
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân
tộc; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân

dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản, coi xây dựng Đảng là vấn đề then chốt. Từ những
thành tựu của 10 năm đổi mới, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, các xu thế
chủ yếu trong quan hệ quốc tế, chỉ ra thời cơ và thách thức đối với đất nước, Đại
hội VIII đã đề ra mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa Việt Nam
trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
3

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nxb CTQG; H. 2004, Tr. 89.

15


tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Chính vì có đường lối đổi mới kịp thời đúng đắn Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân ta vượt qua những khó khăn thử thách tiến hành thành công công cuộc đổi
mới. Đánh giá về thành tựu đất nước qua 20 năm đổi mới Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X khảng định “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lich sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản
toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ dệt. Hệ thốnh chính trị và khối đại
đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc
phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước đi lên với những triển vọng tốt đẹp”4. Những tành tựu về kinh

tế, xã hội, chính trị, quốc phòng, an ninh và đồi ngoại trong thời gian qua đã làm
tăng cường sức mạnh của đất nước, tạo ra thế mới, lực lực mới để đất nước ta
bước vào thế kỷ mới. Những thành tựu đã làm thăy đổi bộ mặt đất nước; cuộc
sống của nhân dân được cải thiện; củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã
hội chủ nghĩa nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trrên trường quốc tế. Thắng lợi
đó chẳng những khảnh định đường lối đổi mới là đúng đắn, hình thức, bước đi,

4

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2007 tr. 67-68.

16


cách làm trong đổi mới là phù hợp, mà quan trọng hơn giúp ta có thêm kinh
nghiệm mới, nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Về lĩnh vực quốc phòng an ninh Đảng ta đặc biệt quan tâm coi đó là vấn đề
trọng yếu xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Trên thế giới sau khi chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sup đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào
thoái trào, so sánh lực lượng hiện nay có lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Với bản chất
chống chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới, nhân cơ hội này Mỹ
và các nước đế quốc, cùng các thế lực phản cách mạng mưu đồ thiết lập một trật
tự thế giới mới, thế giới một cực do Mỹ đứng đầu, đe doạ độc lập dân tộc và chủ
quyền các quốc gia.
Đối với nước ta, vì nước ta có vị trí địa lý - chính trị quan trọng trong khu vực
và trên thế giới nên nhiều nước có quan hệ lợi ích với nước ta, đồng thời có chiến
lược sách lược với nước ta vì lợi ích của họ. Đó là điều kiện để phát triển mối quan
hệ hợp tác cùng có lợi, nhưng mặt khác, các thế lực thù địch với nước ta cũng tìm
mọi thủ đoạn để thực hiện chính sách áp đặt, lôi kéo chống phá nước ta.
Với mục tiêu “chiến thắng không cần chiến tranh”, “triệt tiêu kẻ thù cũ”,

“thua trong chiến tranh, thắng trong hoà bình”, Mỹ và các thế lực thù địch đã thực
hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay chúng sử dụng các thủ đoạn như: chi phối đầu tư chiếm lĩnh thị
trường; lợi dụng ngoại giao thân thiện để chia rẽ nội bộ; kết hợp chống phá về kinh
tế với chống phá về tư tưởng, tuyên truyền, xuyên tạc nhằm lất đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa của chúng ta. Đây thực sự là cuộc chiến tranh không có khói súng. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X vẫn xác định “diễn biến hoà bình” là một
trong 4 nguy cơ lớn đối với sự ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc gia.

17


Chính vì vậy, ngay sau khi thống nhất đất nước, măc dù đã chiến thắng
oanh liệt kẻ thù, tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh nhất trên
thế giới nhưng Đảng ta vẫn xác định: Bảo vệ tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,
VII, IX Đảng ta đã phát triển nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc lên một tầm cao mới mà
tập trung vào những vấn đề cơ bản là: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia bảo
vệ tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng an ninh xây
dựng lực lượng vũ trang. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã cụ thể
hoá nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong đó Đảng xác định: Bảo vệ tổ quốc là “bảo vệ
vững chắc tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự , kỷ
cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa đẩy
lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị
dộng bất ngờ”5. Do sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc Đảng
đã lãnh đạo đất nước luôn đảm bảo được sự ổn định chính trị xã hội, quốc phòng
an ninh được tăng cường, các lực lượng vũ trang nhân dân luôn thực hiện tốt

nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia.
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là
trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo được phát huy. Trước yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới Đảng ta đã đề ra tư duy
mới về quốc phòng an ninh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc không

5

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2007, tr.109.

18


bị bất ngờ trước mọi tình huống, tạo sự ổn định vững chắc góp phần tích cực vào
nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội.
Tóm lại: Từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
Đảng ta đã kịp thời rút ra những bài học quý báu trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt
được trong công cuộc đổi mới vừa qua đã làm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ngày càng chứng tỏ tính ưu việt, các tầng lớp nhân dân Việt Nam ngày
càng tin yêu Đảng, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa và quyết tâm bảo vệ chế độ, bảo
vệ con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Không chỉ nhân dân ta mà đông đảo bạn bè quốc tế đều tự hào, vì sau sự kiện
Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, Việt Nam không những
không sụp đổ mà còn thực hiện sự nghiêp đổi mới thành công, vững bước tiến
lên trong một thế giới đầy biến động và khó lường hiện nay.
Sau 20 năm đổi mới, kinh tế ngày càng phát triển đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện, chính trị ổn định, văn hoá, khoa học khoa học kỹ thuật
khởi sắc quốc phòng an ninh được giữ vững, vị thế quốc tế được đề cao tạo ra thế
và lực mới cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mặt khác trong giai đoạn phát triển hiện nay nền kinh tế Việt Nam phát
triển chưa thực sự vững chắc, những vấn đề mới đang đặt ra khi chúng ta thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thời cơ
chúng ta còn gặp phải những thách thức to lớn trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác
định: “nước ta đang đứng trước nhiều thử thách lớn, đan xen nhau, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế

19


giới vẫn còn tồn tại. Tình trạng xuy thoái về chính tri, tư tưởng, đạo đức, lối
sốngcủa một bộ phận cán bộ đảng viên giắn với tệ quan liêu, tham nhũng và
lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa dời của mục têu chủ nghĩa xã hội
chưa được khác phục. Các thế lực thù địchvẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn
biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”6.
Vượt qua thử thách chớp lấy thời cơ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng làm
cho Đảng thực sự vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, giải đáp những
vấn đề lý luận nảy sinh. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng, với đường lối đổi mới phát triển kinh tế
năng động vững chắc kiên quyết chống tham nhũng, giải quyết tốt những vấn đề
xã hội từ đó, tạo được sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
củng cố uy tín của Đảng với nhân dân và dân tộc. Làm cho nhân dân tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy việc thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần
phải cố gắng quyết tâm cao hơn trên mọi lĩnh vực, phải có đường lối phát triển
kinh tế đúng đắn để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển trở thành

một nước công nghiệp. Thực hiện phát triển kinh tế là trọng tâm, kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng an ninh và thực hiện các vấn đề xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện để tạo động lực giải phóng và
phát huy mọi nguồn lực. Có chính sách phát triển văn hoá khoa học giáo dục,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc, phát huy sức mạnh đại
6

Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2007,tr. 75.

20


đoàn kết dân tộc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước.
Quân đội với vai trò nhiệm vụ chức năng sãn sàng chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi mọi kẻ thù, cần phải phát huy hơn nữa truyền thồng anh hùng để góp
phần vào giữ vững sự ổn định chính trị xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc trong giai đoạn mới. Không ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu,
phát huy bản chất cách mạng của Bộ đội Cụ Hồ, trung thành tuyệt đối với Đảng,
tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi mọi kẻ thù xâm lược. Đối với người cán bộ chính trị và giáo viên khoa
học xã hội nhân văn đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu sâu sắc bài học kinh nghiệm
rút ra từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, với cả sự thành công và thất bại của nó. Từ đó, có sự nghiên cứu, đánh giá
đúng đắn đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng ta hiện nay, một mặt tuyên
truyền xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ
học viên, mặt khác luôn luôn cảnh giác kiên quiết đấu tranh chống mọi luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù chống phá ta trên lĩnh vực tư tưởng. Bảo vệ đường lối quan
điểm của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự trong sáng của lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin trong bối cảnh hiện nay.


21



×