Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thực trạng và tác động của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

----------------VŨ QUỐC HUY

VŨ QUỐC HUY

QUẢN TRỊ KINH DOANH

THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHÓA 2011
Hà Nội – Năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

-----------------

Vũ Quốc Huy

THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TIÊN PHONG

Hà Nội – Năm 2013


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
[\

Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề tài:
Thực trạng và tác động của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế Việt Nam.

Giáo viên hướng dẫn

:

Tiến sỹ Nguyễn Tiên Phong

Học viên thực hiện

:

Vũ Quốc Huy

Lớp

:


QTKD 2011B

Khoa

:

Viện Quản lý và Kinh tế

Hà Nội, 2013
MỤC
LỤC


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VIỆT NAM....................................................................................................3
1.1.Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài............................................................3
1.1.2.Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài
có các đặc điểm sau đây:.......................................................................................4
1.1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài .......................................................5
1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài .............................8
1.1.5.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài..................................................12
1.1.6.Một số học thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................................14
1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.19
1.3.Kinh nghiệm về thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số
nước trên thế giới......................................................................................................21
1.3.1.Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chính sách mở cửa và phát triển kinh
tế của Trung Quốc ...............................................................................................21

1.3.2.Chính sách của Thái Lan đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài....................................................................................................................25
1.3.3.Kinh nghiệm về thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Malaysia .......................................................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM.....................32
2.1.Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những
năm qua (1988 - 2010)..............................................................................................32
2.1.1.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong
những năm qua (1988 - 2010).............................................................................32
2.1.2.Đánh giá về tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong những năm qua..........................................................................46
2.2.Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt
Nam trong những năm qua .......................................................................................55
2.2.1.Tác động tích cực .......................................................................................55
2.2.2.Tác động tiêu cực .......................................................................................63


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ
HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM..................................69
3.1.Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.........69
3.1.1.Cơ hội và thách thức ..................................................................................69
3.1.2.Mục tiêu và phương hướng ........................................................................73
3.2.Một số kiến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn tới....................................................................77
3.2.1.Các kiến nghị về phía Nhà nước ................................................................77
3.2.2.Các kiến nghị về phía doanh nghiệp ..........................................................87
3.3.Một số kiến nghị nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam...................................................91

3.3.1.Xây dựng quy hoạch về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng có
chọn lọc và phát triển bền vững ..........................................................................91
3.3.3.Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý Nhà nước ....................................97
KẾT LUẬN ...................................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Tên viết

Tên đầy đủ

tắt

The Asian Development Bank (Ngân
1.

ADB

hàng Phát triển Châu Á)
Asia - Pacific Economic Cooperation

2.

APEC

(Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương)

Association of Southeast Asia Nations

3.

ASEAN

(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á)
The Asia - Europe Meeting

4.

ASEM

(Diễn đàn hợp tác Á - Âu)
European Union

5.

EU

(Liên minh Châu Âu hay Liên hiệp Châu Âu)
Foreign Direct Investment

6.

FDI

(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
Gross Domestic Product


7.

GDP

(Tổng sản phẩm nội địa hay Tổng sản phẩm quốc nội)
International Monetary Fund (Quỹ

8.

IMF

tiền tệ quốc tế)
Official Development Assistance

9.

ODA

(Hỗ trợ phát triển chính thức)
Organization for Economic Co - operation and Development

10.

OECD

(Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)


United Nation Conference on Trade and Development
11.


UNCTAD

(Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển)
United States dollar

12.

USD

(Đồng đô la Mỹ hay Mỹ kim)
World Bank

13.

WB

(Ngân hàng Thế giới)
World Trade Organization (Tổ

14.

WTO

chức Thương mại Thế giới)


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta trong giai đoạn ..............34
Bảng 2.2: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công...........................38

Bảng 2.3: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ ......................39
Bảng 2.4: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực ...................................41
Bảng 2.5: Tốc độ tăng GDP bình quân năm giai đoạn 1986 – 2010..............................48
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn FDI đăng ký theo vùng lãnh thổ của Việt Nam......................44
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn FDI đăng ký theo hình thức đầu tư .......................................45
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu vốn FDI đăng ký theo đối tác đầu tư.............................................45


LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hiện nay trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, xu hướng toàn
cầu hóa và tự do hóa thương mại diễn ra nhanh chóng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài vì thế ngày càng trở nên sôi động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một vị trí
quan trọng không chỉ đối với các nước đang phát triển mà còn cả đối với các nước phát
triển. Đặc biệt đối với Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
ngành nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao chất lượng
sản phẩm và dịch vụ, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến
khích phát triển và bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là
chủ trương quan trọng góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác
kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của đất nước.” Chính vì thế, chúng ta cần có sự nhìn nhận, phân tích và đánh
giá đúng đắn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta trong thời gian qua,
từ đó thấy được những tác động tích cực và tiêu cực của dòng vốn này đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước để kịp thời đưa ra những giải pháp cụ thể, đồng bộ và hiệu
quả nhằm đưa đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành một công cụ đắc lực giúp
Việt Nam tận dụng được các nguồn lực của thế giới, tiếp thu những tinh hoa của nhân
loại để đi tắt, đón đầu trên con đường phát triển và thu hẹp khoảng cách với các nước đi

trước.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, em đã quyết định lựa chọn
đề tài: “Thực trạng và tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển
kinh tế Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp cho mình.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như thực trạng và
tác động của dòng vốn này đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, em xin đưa ra
một số kiến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút và hạn chế các tác động tiêu cực
của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển kinh tế của nước ta.

3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như
thực trạng thu hút và tác động của dòng vốn này đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung trình bày những nội dung chủ yếu về thực trạng thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn 1988 - 2010 và tác động của
dòng vốn này đối với sự phát triển kinh tế của nước ta.

5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, tiếp cận hệ thống
lý luận và thực tiễn, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để phân tích và xử lý các vấn đề nghiên cứu.

6. Nội dung của đề tài

Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng và tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm tăng cường thu hút và hạn chế tác động tiêu
cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kinh nghiệm nghiên cứu nên khóa luận
không tránh khỏi còn có một số thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu từ phía các thầy, cô. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy
giáo - Tiến sỹ Nguyễn Tiên Phong, người đã tận tình hướng dẫn em trong thời gian qua
để em có thể hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này.

2


CHƯƠNG 1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
1.1.Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
xuất hiện khi một nhà đầu tư ở một nước mua tài sản có ở một nước khác với ý định
quản lý nó. Quyền kiểm soát (Control - tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan
trọng liên quan đến chiến lược và các chính sách phát triển của công ty) là tiêu chí cơ
bản giúp phân biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư chứng khoán.
Theo các chuẩn mực của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa bằng một khái
niệm rộng hơn. Theo IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu như sau: “FDI nhằm
đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền
quản lý thực sự doanh nghiệp”1. Còn theo OECD, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu
là: “FDI được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh

nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc
quản lý doanh nghiệp nói trên bằng một trong các cách sau: thành lập hoặc mở rộng
một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại
toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới; hoặc cấp tín dụng dài
hạn (lớn hơn 5 năm).” 2
Như vậy, hai định nghĩa trên đều nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích
dài hạn của một chủ thể cư trú tại một nước, được gọi là nhà đầu tư trực tiếp thông qua
một chủ thể khác cư trú ở nước khác, gọi là doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp. Mục
tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có một mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và

1

Jacquemot Pierre (1990), La firme multinationale: Une introduction économique, Economica, Paris.

2

OECD (1999), OECD Benchmark definition of foreign direct investment, 3rd edition.

3


doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời nhà đầu tư phải có một mức độ ảnh
hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005 tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước
ngoài được hiểu là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý
hoạt động đầu tư.3 Về bản chất, luật này cũng thống nhất cách hiểu về FDI như cách
hiểu thông dụng trên thế giới.
Tóm lại có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế
trong đó chủ đầu tư của một nước đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư cho
một dự án ở nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó.


1.1.2.Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích
hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Theo một số nguồn tài liệu và theo quy định của luật
pháp ở một số nước, FDI được coi là đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, luật pháp của một số
nước khác (trong đó có Việt Nam) quy định trong trường hợp đặc biệt đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể có sự tham gia góp vốn của Nhà nước. Mặc dù vậy, dù chủ thể là tư
nhân hay Nhà nước, chúng ta cũng cần phải khẳng định rằng FDI có mục đích ưu tiên
hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển
phải đặc biệt lưu ý điều này khi tiến hành thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các
nước này cần phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính
sách thu hút FDI hợp lý để hướng dòng vốn này vào phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm
kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài. Đặc điểm thứ hai của FDI là các chủ
đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định
hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp ở từng nước để giành quyền kiểm soát
hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định

3

Luật ñầu tư năm 2005, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.

4


không giống nhau về vấn đề này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là
20%, Việt Nam là 30% và trong những trường hợp đặc biệt có thể giảm nhưng không
được phép dưới 20%, còn theo quy định của OECD thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu
thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp - đây là mức được công nhận cho phép

nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia thực sự vào việc quản lý doanh nghiệp.4
Thứ ba, tỷ lệ góp vốn của các chủ đầu tư sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa vào tỷ lệ này.
Thứ tư, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao,
không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Một đặc điểm khác cũng không kém phần quan trọng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư
thông qua việc đưa máy móc, thiết bị, bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, cán
bộ quản lý,... vào nước nhận đầu tư để thực hiện dự án.
Đặc điểm cuối cùng của đầu tư trực tiếp nước ngoài là thu nhập của chủ đầu tư
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, vì vậy mang
tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.

1.1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau,
dưới đây là một số tiêu chí thông dụng.
Nếu dựa theo hình thức xâm nhập, đầu tư trực tiếp nước ngoài được chia thành
các hình thức: đầu tư mới (Greenfield investment), sáp nhập và mua lại (Merger &
acquisition).
Đầu tư mới (Greenfield investment) là hình thức mà chủ đầu tư trực tiếp nước
ngoài góp vốn để xây dựng một cơ sở sản xuất, kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư.

4

Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình ðầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

5



Hình thức này thường được các nước nhận đầu tư đánh giá cao vì nó có khả năng tăng
thêm vốn, tạo thêm việc làm và giá trị gia tăng cho những nước này.
Sáp nhập và mua lại (Merger & acquisition hay M&A) là hình thức mà chủ đầu
tư trực tiếp nước ngoài mua lại hoặc sáp nhập một cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở
nước nhận đầu tư. Theo quy định của Luật Cạnh tranh của Việt Nam, “Sáp nhập
(merger) doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập; còn mua lại (acquisition) doanh
nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua
lại.”5 Trên thực tế, FDI chủ yếu diễn ra dưới hình thức mua lại. Hình thức này được
nhiều chủ đầu tư ưa chuộng hơn hình thức đầu tư mới vì chi phí đầu tư thường thấp
hơn, mặt khác lại cho phép chủ đầu tư tiếp cận thị trường nhanh hơn.
Nếu dựa theo quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp
nhận đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài được chia thành ba hình thức, đó là: FDI theo
chiều dọc (Vertical FDI), FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI) và FDI hỗn hợp
(Conglomerate FDI).
FDI theo chiều dọc (Vertical FDI) nhằm khai thác nguyên, nhiên vật liệu
(Backward vertical FDI) hoặc để gần gũi với người tiêu dùng hơn thông qua việc mua
lại các kênh phân phối ở nước nhận đầu tư (Forward vertical FDI). Như vậy, doanh
nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư nằm trong cùng một dây chuyền sản
xuất và phân phối một sản phẩm cuối cùng.
FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI) là hoạt động FDI được tiến hành nhằm
sản xuất cùng loại sản phẩm hoặc các sản phẩm tương tự như chủ đầu tư đã sản xuất ở
nước chủ đầu tư. Như vậy, yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của hình thức
FDI này chính là sự khác biệt của sản phẩm. Thông thường FDI theo chiều ngang được

5

Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Lao ñộng, Hà Nội.


6


tiến hành nhằm tận dụng các lợi thế độc quyền hoặc độc quyền nhóm, đặc biệt là khi
việc phát triển ở thị trường trong nước vi phạm luật chống độc quyền.
FDI hỗn hợp (Conglomerate FDI) là hình thức FDI mà ở đó doanh nghiệp chủ
đầu tư và doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau.
Nếu dựa theo định hướng của nước nhận đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài được
phân thành ba hình thức: FDI thay thế nhập khẩu, FDI tăng cường xuất khẩu và FDI
theo các định hướng khác của Chính phủ.
FDI thay thế nhập khẩu là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiến hành
nhằm sản xuất và cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây
nước này phải nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến hình thức FDI này là dung
lượng thị trường, các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư và chi phí vận tải.
Đối với FDI tăng cường xuất khẩu, thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm tới
không phải hoặc không chỉ dừng lại ở nước nhận đầu tư mà còn là các thị trường rộng
lớn hơn trên toàn thế giới và có thể có cả thị trường ở nước chủ đầu tư. Yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng các yếu tố
đầu vào với giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên vật liệu hay bán thành phẩm.
FDI theo các định hướng khác của Chính phủ là hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài mà ở đó Chính phủ nước nhận đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích
đầu tư để điều chỉnh dòng vốn FDI chảy vào nước mình theo đúng ý đồ, ví dụ như tăng
cường thu hút FDI để giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán.
Nếu dựa theo quy định tại điều 21, Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam, đầu tư
trực tiếp nước ngoài bao gồm các hình thức sau: thành lập doanh nghiệp 100% vốn của
nhà đầu tư nước ngoài; thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh,
hợp đồng BOT (hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), hợp đồng BTO (hợp

đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh), hợp đồng BT (hợp đồng xây dựng - chuyển

7


giao); đầu tư phát triển kinh doanh; mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt
động đầu tư; đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.6

1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay tồn tại hai quan điểm khác nhau về các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài, thứ nhất là quan điểm xuất phát từ cách tiếp cận vi mô coi các
công ty đa quốc gia (MNCs - Multinational Corporations) là các chủ thể chính quyết
định dòng vốn FDI và thứ hai là quan điểm xuất phát từ cách tiếp cận vĩ mô theo đó cơ
cấu thị trường sẽ quyết định các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn này. Tuy nhiên, chúng
ta có thể tập hợp các nhân tố theo hai quan điểm trên thành bốn nhóm nhân tố chính tác
động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là: các nhân tố liên quan đến chủ đầu tư, các
nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư, các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư và
các nhân tố của môi trường quốc tế.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét nhóm nhân tố liên quan đến chủ đầu tư. Mục
tiêu của các chủ đầu tư, đặc biệt là các chủ đầu tư tư nhân khi tiến hành đầu tư là nhằm
thu lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Chính vì thế, họ không thể dừng lại ở thị trường
trong nước mà phải tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Để xâm nhập thị trường
nước ngoài, các chủ đầu tư có thể sử dụng nhiều cách khác nhau như: xuất khẩu, tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngoài hay nhượng quyền,... họ sẽ lựa chọn hình thức xâm
nhập phù hợp, đem lại hiệu quả cao nhất và góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận. Thông thường chủ đầu tư sẽ quyết định đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức FDI
khi bản thân họ có các lợi thế độc quyền riêng và FDI sẽ giúp họ tận dụng được lợi thế
nội bộ hóa các tài sản riêng này.
Nhóm nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố liên
quan đến nước chủ đầu tư. Các biện pháp liên quan trực tiếp đến đầu tư ra nước ngoài

và một số biện pháp khác có liên quan gián tiếp đến đầu tư ra nước ngoài của các nước
có ảnh hưởng rất lớn đến việc định hướng và đến lượng vốn của nước đó chảy ra nước

6

Luật đầu tư năm 2005, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.

8


ngoài. Các nước có thể có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các chủ đầu tư nước
mình tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và trong những trường hợp cần thiết, cũng
có thể áp dụng các biện pháp để hạn chế, hoặc cấm đầu tư ra nước ngoài. Một số biện
pháp nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như: tham gia ký kết các hiệp
định song phương và đa phương về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư; Chính phủ
đứng ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở nước ngoài; ưu đãi về thuế và tài chính;
khuyến khích chuyển giao công nghệ; trợ giúp tiếp cận thị trường; hoặc cung cấp thông
tin và trợ giúp kỹ thuật. Các biện pháp hạn chế đầu tư bao gồm: hạn chế chuyển vốn ra
nước ngoài, hạn chế đầu tư ra nước ngoài bằng cách sử dụng công cụ thuế; hạn chế tiếp
cận thị trường; hoặc cấm đầu tư vào một số nước.
Nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư là nhóm nhân tố quan trọng tiếp theo có
ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi lựa chọn địa điểm để đầu
tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở
địa điểm đó xem có thuận lợi hay không, nói cách khác là cân nhắc đến các yếu tố có
liên quan đến lợi thế địa điểm của nước nhận đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế
địa điểm của nước nhận đầu tư được gọi là môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư được
hiểu là tổng hoà các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và các yếu tố
cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, lợi thế của quốc gia có liên quan. Tất cả những yếu
tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong
và ngoài nước khi đầu tư vào quốc gia đó. Theo Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về

Thương mại và Phát triển (UNCTAD), môi trường đầu tư bao gồm ba nhóm là: khung
chính sách hay hành lang pháp lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước nhận đầu tư;
các yếu tố của môi trường kinh tế và các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh.7 Trong
đó:
Khung chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước nhận đầu tư bao gồm
các quy định liên quan trực tiếp đến FDI và các quy định khác có ảnh hưởng gián tiếp

7



9


đến FDI. Các quy định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp đến FDI bao gồm
các quy định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài (như: cho
phép, hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép tự do hay hạn chế
quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài đối với các dự án; cho phép tự do hoạt
động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động; có hay không các ưu đãi nhằm khuyến
khích FDI;...), các tiêu chuẩn đối xử với FDI (như: phân biệt hay không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau;...) và cơ chế hoạt động của thị trường
trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng (như: cạnh tranh có bình đẳng hay không; có
hiện tượng độc quyền không; thông tin trên thị trường có rõ ràng, minh bạch hay
không;...). Các quy định này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu các quy định thông thoáng, có nhiều ưu đãi,
không có hoặc ít có các rào cản hạn chế hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sẽ
góp phần tăng cường thu hút FDI cũng như tạo thuận lợi cho các dự án FDI trong quá
trình hoạt động. Ngược lại, hành lang pháp lý và cơ chế chính sách có nhiều quy định
mang tính chất hạn chế và ràng buộc đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ

khiến cho dòng vốn này không vào được hoặc các chủ đầu tư không muốn đầu tư. Các
quy định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy theo định hướng, mục tiêu
phát triển của từng quốc gia trong từng thời kỳ, thậm chí có tính đến cả các quy hoạch
về ngành và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, còn có một số các quy định và chính sách có
ảnh hưởng gián tiếp đến quyết định của chủ đầu tư như: chính sách thương mại, chính
sách tư nhân hóa, chính sách tiền tệ và chính sách thuế, chính sách tỷ giá hối đoái, chính
sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ, chính sách lao động,
chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách y tế và các quy định trong các hiệp định quốc
tế mà nước nhận đầu tư tham gia ký kết.
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nước có hành lang
pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và có thể dự đoán
được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.

10


Về các yếu tố của môi trường kinh tế, tùy thuộc vào động cơ của chủ đầu tư nước
ngoài mà có thể có các yếu tố khác nhau của môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng đến dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường, họ sẽ
quan tâm đến các yếu tố như: dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người;
tốc độ tăng trưởng của thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các
sở thích đặc biệt của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư cũng như cơ cấu thị trường.
Nếu chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản, họ sẽ quan tâm đến
tài nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề; công
nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra (như: thương hiệu,
...); cơ sở hạ tầng phần cứng (như: cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng,
mạng lưới viễn thông,...). Nếu chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả, họ sẽ chú trọng đến chi
phí mua sắm các nguồn tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên (có cân đối với
năng suất lao động); các chi phí đầu vào khác như: chi phí vận chuyển và thông tin liên
lạc đi, đến hoặc trong nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm; việc tham gia các

hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh
nghiệp toàn khu vực.
Ngoài hai nhân tố vừa đề cập ở trên, theo UNCTAD, môi trường đầu tư còn bao
gồm các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh. Các yếu tố này bao gồm chính sách xúc
tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng cách
giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động
của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã hội để đảm
bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài (như: mở các trường song
ngữ, nâng cao chất lượng cuộc sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước nhận
đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các nước đều tìm cách
cải thiện các yếu tố này nhằm tạo thuận lợi hơn cho các chủ đầu tư nước ngoài.
Nhóm nhân tố cuối cùng có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
là các nhân tố của môi trường quốc tế. Đây là các yếu tố liên quan tới việc môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn định hay không, có thuận lợi hay không thuận

11


lợi cho nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư cũng như cho chính chủ đầu tư khi tiến
hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tình hình cạnh tranh giữa các nước trong thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng ảnh hưởng nhiều đến dòng chảy FDI. Để nâng cao
năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI, các nước sẽ phải cải tiến môi trường đầu tư, tạo
thuận lợi và đưa ra những ưu đãi cho hoạt động này. Nước nào xây dựng được môi
trường đầu tư có sức hấp dẫn cao hơn thì nước đó sẽ có khả năng thu hút được nhiều
FDI hơn. Cùng với môi trường đầu tư ngày càng được cải tiến và càng có độ mở cao,
dòng vốn FDI trên toàn thế giới sẽ dễ dàng lưu chuyển hơn và nhờ vậy lượng vốn FDI
toàn cầu có thể gia tăng nhanh chóng.

1.1.5.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài


Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện trên hai phương diện tích cực
và tiêu cực, đối với nước chủ đầu tư và đối với nước nhận đầu tư.
Đối với nước chủ đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại các tác động tích cực sau
đây:
Trước hết, thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, nước chủ đầu tư có cơ hội
tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (như: giá lao
động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp,...) để hạ giá thành sản phẩm,
giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận
đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, nâng cao tỷ suất lợi nhuận và khắc
phục được tình trạng thừa vốn tương đối.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty ở nước chủ đầu tư
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm mới được chế tạo ra trong nước. Thông qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản
phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sang các nước nhận đầu tư để tiếp
tục sử dụng như sản phẩm mới ở các nước này, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử
dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư.

12


Thứ ba, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các công ty đi đầu tư tạo dựng được thị
trường cung cấp nguyên vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ. Bên cạnh đó là việc đổi
mới cơ cấu sản phẩm, áp dụng công nghệ mới cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh
về kinh tế và tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế nhờ việc mở rộng
được thị trường tiêu thụ sản phẩm đồng thời tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của
nước nhận đầu tư, từ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với
hàng hoá nhập từ nước khác.
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn có một tác động vô cùng quan trọng đó là
góp phần giúp cho nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh và nâng cao uy tín chính trị

trên trường quốc tế.
Bên cạnh các tác động tích cực như trên, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng gây
ra một số tác động tiêu cực đối với nước chủ đầu tư. Đó là các vấn đề về quản lý vốn
(vốn đầu tư khi chảy ra nước ngoài sẽ làm giảm tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
trong nước - GDP) và công nghệ; sự ổn định của đồng tiền; cán cân thanh toán quốc tế;
và vấn đề việc làm cũng như lao động trong nước.
Đối với nước nhận đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại các tác động tích cực
như sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần bổ sung một lượng vốn quan
trọng cho nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế của nước nhận đầu tư.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ
tiên tiến cho các nước nhận đầu tư, góp phần vào sự phát triển của các quốc gia này.
Thứ ba, nước nhận đầu tư có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tích cực cũng như nâng cao năng lực công nghiệp nhờ vào ảnh hưởng của FDI
đến nền kinh tế.
Bên cạnh đó, FDI cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước nhận đầu tư trên thị
trường thế giới.

13


Mặt khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan trọng trong việc tạo
công ăn việc làm, tăng năng suất lao động và phát triển nguồn nhân lực tại nước nhận
đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp đáng kể vào thu ngân sách Nhà
nước cũng như các cân đối vĩ mô khác.
Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, FDI góp phần củng
cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới của nước nhận đầu tư.

Tuy đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò rất quan trọng đối với các nước
nhận đầu tư song dòng vốn này cũng mang tới một số ảnh hưởng tiêu cực nhất định
như: sự mất cân đối về ngành nghề và vùng lãnh thổ, sự yếu kém trong chuyển giao
công nghệ hay vấn đề về ô nhiễm môi trường,…

1.1.6.Một số học thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Để có một cái nhìn đầy đủ hơn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta
hãy đi vào tìm hiểu một số học thuyết liên quan đến vấn đề này. Các học thuyết sẽ giúp
tìm câu trả lời cho các câu hỏi như tại sao phải hoặc nên đầu tư ra nước ngoài? Những
đối tượng nào có thể và nên tiến hành đầu tư ra nước ngoài? Đầu tư ở đâu? Khi nào? Và
bằng cách gì?
Trước hết, chúng ta sẽ nghiên cứu lý thuyết về Vòng đời quốc tế của sản phẩm
(International product life cycle - IPLC) của Raymond Vernon. Lý thuyết này được S.
Hirsch đưa ra trước tiên và sau đó được R.Vernon phát triển một cách có hệ thống từ
năm 1966 trên cơ sở nghiên cứu các doanh nghiệp của Mỹ. Lý thuyết này lý giải cả đầu
tư quốc tế và thương mại quốc tế, trong đó lý thuyết coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn
tự nhiên của vòng đời sản phẩm. Bên cạnh đó, lý thuyết cũng cho thấy vai trò của các
phát minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích quá trình
quốc tế hoá sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Hai ý tưởng làm căn cứ xuất phát
của lý thuyết này là: mỗi sản phẩm đều có một vòng đời (bao gồm: xuất hiện - tăng
trưởng mạnh - chững lại - suy giảm, tương ứng với quy trình: xâm nhập - tăng trưởng -

14


bão hòa - suy giảm) và các nước công nghiệp phát triển thường nắm giữ những công
nghệ độc quyền do họ khống chế khâu nghiên cứu, triển khai cũng như do có lợi thế về
quy mô.
Theo lý thuyết này, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất tại nước
phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các nước. Nhưng khi sản phẩm mới đã được chấp

nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản xuất bắt đầu được tiến hành ở các nước
khác. Và theo lý thuyết này kết quả rất có thể là sản phẩm sau đó sẽ được xuất khẩu trở
lại nước phát minh ra nó. Cụ thể vòng đời quốc tế của một sản phẩm sẽ bao gồm 3 giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất là khi sản phẩm mới xuất hiện cần thông tin phản hồi nhanh và
được bán ở trong nước phát minh ra sản phẩm đó, xuất khẩu không đáng kể. Giai đoạn
thứ hai là khi sản phẩm chín muồi, nhu cầu tăng, làm cho xuất khẩu tăng mạnh, các đối
thủ cạnh tranh trong và ngoài nước xuất hiện. FDI cũng bắt đầu xuất hiện từ giai đoạn
này. Giai đoạn thứ ba là khi sản phẩm và quy trình sản xuất được tiêu chuẩn hóa, thị
trường ổn định, hàng hóa trở nên thông dụng, các doanh nghiệp chịu áp lực phải giảm
chi phí càng nhiều càng tốt để tăng lợi nhuận hoặc giảm giá để tăng năng lực cạnh
tranh, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vì thế tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng lý thuyết này được xây dựng căn cứ chủ yếu
vào tình hình thực tế của nước Mỹ trong những năm 1950 - 1960. Trong thời kỳ này,
Mỹ là nước dẫn đầu về các phát minh sáng chế. Ngày nay, sản phẩm được phát minh ở
nhiều nước khác ngoài Mỹ và các sản phẩm mới có thể được tung ra đồng thời ở nhiều
nước khác nhau. Mặt khác, do mạng lưới sản xuất quốc tế ngày càng phức tạp vì thế
không thể lý giải được nếu chỉ sử dụng các giả thuyết đơn giản về vòng đời quốc tế sản
phẩm của Vernon. Bản thân Vernon cũng thừa nhận điều này và cho rằng khi khoảng
cách về công nghệ và thu nhập giữa Mỹ và các nước công nghiệp khác đã được thu hẹp
lại thì lý thuyết trên có nhiều hạn chế trong việc lý giải thương mại cũng như đầu tư
quốc tế. Để khắc phục hạn chế của lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm, một số nhà
kinh tế học khác đã đề xuất ý tưởng mở rộng các giả thuyết của Vernon bằng cách đưa

15


thêm các chi phí khác ngoài chi phí lao động để lý giải hiện tượng đầu tư trực tiếp nước
ngoài của tất cả các nước phát triển.
Bên cạnh lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm, lý thuyết Chiết trung của
Dunning về sản xuất quốc tế (Dunning’s Eclectic theory of international production)

cũng là một trong các học thuyết quan trọng về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Lý thuyết Chiết trung được Dunning đề xuất từ năm 1977 trên cơ sở kết hợp các
giả thuyết về tổ chức doanh nghiệp, nội bộ hóa và lợi thế địa điểm để lý giải về hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Lý thuyết này nhằm trả lời cho các câu hỏi như: tại
sao nhu cầu về một loại hàng hóa ở một nước lại không được đáp ứng bởi các doanh
nghiệp của chính nước đó hoặc bởi các hàng hóa nhập khẩu qua con đường thương mại
thông thường? Giả sử một doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động, tại sao doanh nghiệp
không chọn các cách mở rộng khác (như: sản xuất ở nước mình rồi xuất khẩu sang các
nước khác hay cho phép doanh nghiệp nước ngoài sử dụng công nghệ của mình; ...) mà
lại chọn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Theo tác giả nên quyết định đầu tư dưới hình thức FDI khi cả 3 yếu tố lợi thế địa
điểm, lợi thế về quyền sở hữu và lợi thế về nội bộ hoá được thoả mãn. Ba yếu tố trên
được kết hợp trong một mô hình có tên gọi là OLI trong đó: O (Ownership advantages)
là lợi thế về quyền sở hữu, L (Location advantages) là lợi thế địa điểm và I
(Internalization advantages) là lợi thế nội bộ hóa.
Trong đó, lợi thế về quyền sở hữu còn được gọi là lợi thế riêng của doanh nghiệp
(Firm specific advantages - FSA). Một doanh nghiệp tiến hành sản xuất, kinh doanh ở
nước ngoài phải trả những chi phí phụ trội (được gọi là chi phí hoạt động ở nước ngoài)
so với đối thủ cạnh tranh nội địa của nước đó. Chi phí phụ trội này có thể là do: sự khác
biệt về văn hóa, luật pháp, thể chế và ngôn ngữ; sự thiếu hiểu biết về các điều kiện thị
trường nội địa và/hoặc chi phí thông tin liên lạc cũng như chi phí hoạt động cao hơn do
sự cách biệt về địa lý. Vì vậy, để có thể tồn tại được ở thị trường nước ngoài doanh
nghiệp phải tìm cách để có được thu nhập cao hơn hoặc chi phí thấp hơn đối thủ cạnh
tranh nhằm bù đắp lại bất lợi về chi phí phụ trội đã đề cập ở trên. Muốn làm được điều

16


này doanh nghiệp phải sở hữu một hoặc một số lợi thế cạnh tranh đặc biệt gọi là lợi thế
về quyền sở hữu hoặc lợi thế riêng của doanh nghiệp. Chính các lợi thế không bị chia sẻ

với các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp các doanh nghiệp thành công trong việc chinh phục
các thị trường nước ngoài. Các lợi thế này (một phần hoặc toàn bộ) phải là lợi thế riêng
biệt của doanh nghiệp, sẵn sàng chuyển giao trong nội bộ doanh nghiệp và giữa các
nước. Doanh nghiệp sở hữu lợi thế này một cách độc quyền, có thể khai thác chúng ở
nước ngoài và sẽ có được thu nhập cận biên cao hơn hoặc chi phí cận biên thấp hơn so
với các đối thủ cạnh tranh. Điều này giúp doanh nghiệp khắc phục bất lợi thế về chi phí
phụ trội khi hoạt động ở nước ngoài, thậm chí doanh nghiệp còn có thể có thu nhập cao
hơn các đối thủ cạnh tranh.
Lợi thế nội bộ hóa được hiểu là khi doanh nghiệp có các lợi thế về quyền sở hữu,
doanh nghiệp có thể tăng thu nhập bằng cách sử dụng các lợi thế này ở nước ngoài.
Doanh nghiệp có nhiều cách mở rộng hoạt động ra nước ngoài từ cách xuất khẩu đơn
thuần, cấp license, nhượng quyền đến các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Mỗi hình thức đem lại những lợi
ích và những chi phí riêng cho các doanh nghiệp và điều này thay đổi tùy thuộc vào
nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư, vào các đối tác tiềm năng, vào thị trường sản
phẩm, vào các rào cản thương mại của Chính phủ hoặc phi Chính phủ,... Doanh nghiệp
sẽ so sánh giữa những điểm lợi và bất lợi của các hình thức trên từ đó lựa chọn hình
thức nào có lợi nhất cho mình. Theo các giả thuyết về nội bộ hóa, đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ được sử dụng nhằm thay thế các giao dịch trên thị trường bằng các giao dịch
nội bộ khi các nhà đầu tư thấy các giao dịch nội bộ ít tốn kém, an toàn và khả thi hơn
các giao dịch trên thị trường bên ngoài. Điều này thường xảy ra do sự không hoàn hảo
của thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất. Sự không hoàn hảo của thị trường xuất
phát từ hai nhóm nguyên nhân chủ yếu, đó là những yếu kém tự nhiên và những yếu
kém về cơ cấu của thị trường. Như vậy, khi thị trường bên ngoài không hoàn hảo, các
doanh nghiệp sẽ có được lợi thế nội bộ hóa khi lựa chọn FDI là hình thức xâm nhập thị
trường nước ngoài. Lợi thế này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí và khắc phục

17



×