Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Các biện pháp giúp học sinh vượt qua rào cản trong quá trình học tập môn lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.46 KB, 5 trang )

Tạp chí Giáo dục số 169, tháng 8/2007
CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH VƯỢT QUA “RÀO
CẢN” TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG THPT
ThS. Hoàng Thanh Tú (ĐT: 0912153496)
Khoa Sư phạm – Đại học Quốc gia HN
Trong quá trình dạy học, việc giảng dạy của giáo viên (GV) và việc học tập của
học sinh (HS) là hai khâu của một quá trình thống nhất. Hiệu quả của việc dạy học
không chỉ phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy của GV mà còn phụ thuộc nhiều vào
phương pháp học của HS. Kết quả của nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu gần đây cho thấy
phần lớn HS còn coi nhẹ việc học tập các môn KHXH nói chung, môn Lịch sử (LS) nói
riêng. Kết quả thi Đại học môn Lịch sử trong mấy năm qua luôn ở mức thấp hơn rất
nhiều so với các môn học khác. Thực trạng đó đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu giáo dục. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá thực trạng dạy
học LS hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn LS ở
trường phổ thông. Tuy nhiên thực trạng dạy học môn LS ở các trường phổ thông vẫn
còn nhiều hạn chế. Quá trình triển khai chương trình phân ban mới của lớp 10 năm học
2006-2007 cho thấy có rất ít HS thực sự thích hoặc có khả năng theo học ban Khoa học
Xã hội nói chung, môn Lịch sử nói riêng. Nhiều HS không thích học Lịch sử vì cho
rằng đây là môn “học thuộc lòng” rất khó nhớ, thậm chí các em còn không biết cách học
như thế nào. Bài viết này muốn phân tích quá trình học tập của học sinh THPT theo
cách tiếp cận của quan điểm “Sư phạm tương tác” nhằm chỉ ra những “rào cản” và đề
xuất những biện pháp giúp HS thành công trong học tập môn Lịch sử.
1. Quan niệm về “rào cản” trong quá trình học tập theo cách tiếp cận của
“Sư phạm tương tác”:
Jean Marc Dénommé và Madeleine Roy trong cuốn “Tiến tới một phương pháp
sư phạm tương tác” đã đưa ra một cách tiếp cận cơ bản, trong đó chú trọng vào việc
nghiên cứu sự tham gia của hệ thống thần kinh vào việc học. Theo quan điểm “Sư phạm
tương tác” mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm hệ thần kinh và các giác quan. Các
giác quan giúp con người thu nhận thông tin. Các tế bào thần kinh nhận và truyền thông
tin lên não người. Thông tin muốn lên được não người phải đi qua vùng limbic – trung


tâm hứng thú. Nếu thông tin thực sự hứng thú thì vùng limbic sẽ chấp nhận, ngược lại
nó sẽ từ chối. Vì vậy đây có thể coi là rào cản thứ nhất trong quá trình tiếp thu kiến
thức.
Những thông tin được vùng limbic chấp nhận được truyền lên não người. Bán
cầu phải tiếp nhận thông tin song các thông tin đó ở dạng không đồng nhất (mọi thứ
trộn lẫn). Chức năng của bán cầu trái là đồng nhất (có một tên và một hình ảnh duy nhất
cho một thông tin nhận được). Chỉ khi nào bán cầu phải thu nhận thông tin đạt tới
ngưỡng nhất định, được gọi là trạng thái T, thì bán cầu trái mới đặt tên và hiểu những
thông tin nhận được. Như vậy não phải luôn tích hợp thông tin đủ cho não trái tiếp nhận

1


kiến thức mới. Nếu không đạt tới trạng thái T, thông tin không thể đến được não trái. Vì
vậy trạng thái T được coi là rào cản thứ hai trong quá trình học tập.
2. Các biện pháp giúp HS vượt qua “rào cản” để thành công trong học tập
môn Lịch sử
Theo “Sư phạm tương tác” người học làm chủ bộ não, sử dụng não vào quá trình
học tập, “người học là người đi học không phải là người được dạy” (1) . Do vậy người
dạy là người tổ chức, tạo điều kiện cho người học vận hành bộ não và chiếm lĩnh tri
thức. Vận dụng quan điểm “Sư phạm tương tác” vào quá trình dạy học LS ở trường
THPT giúp người GV luôn tôn trọng các chức năng của bộ máy học của HS trong khi
giảng dạy đồng thời hướng dẫn HS phương pháp học phù hợp.
2.1. Khơi gợi và duy trì hứng thú học tập giúp HS vượt qua “rào cản” của
vùng limbic:
Với vai trò là “trung tâm hứng thú”, vùng limbic có thể chấp nhận hoặc loại bỏ
thông tin mới. Do vậy trong dạy học GV cần luôn chú ý đến vùng limbic, luôn có những
tác động tích cực giúp HS hứng thú với môn học và có động lực học tập. Dưới đây là
một số biện pháp chủ yếu:
Kích thích đa giác quan của HS: Trong “bộ máy học”, các giác quan được coi

là cổng vào của tri thức. Càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình học tập thì thông
tin thu được càng nhiều, quá trình học tập càng hiệu quả. Lịch sử là những sự kiện, hiện
tượng đã diễn ra trong quá khứ. HS không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện
tượng đó vì vậy việc nhận thức lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên trong thực tế, còn
nhiều giờ học LS diễn ra rất tẻ nhạt, kém hấp dẫn vì GV chỉ cung cấp thông tin cho HS
bằng lời nói, còn HS chỉ tiếp thu qua kênh nghe. Do vậy việc sử dụng các đồ dùng trực
quan như: tranh ảnh, bản đồ, hay các đoạn phim tư liệu làm cho giờ học LS trở nên sinh
động, tạo hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên để giúp HS vận hành “bộ máy học” GV
cũng cần lưu ý không nên chỉ giới hạn tác động ở thính giác và thị giác của HS. Yêu
cầu HS trình bày diễn biến các sự kiện lịch sử trên bản đồ hay làm các bài tập thực hành
như: lập bảng so sánh, bảng niên biểu, sưu tầm tài liệu lịch sử…là những biện pháp giúp
HS học tập hiệu quả hơn. Mặt khác GV cũng cần chú ý luôn thay đổi cách kích thích
giác quan bằng cách kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau trong từng
bài thậm chí trong từng phần để tránh nhàm chán cho người học. Các sự kiện lịch sử
trong chương trình môn học được sắp xếp một cách hệ thống, lôgic theo trình tự thời
gian. Vì vậy GV cần hướng dẫn HS xem xét các sự kiện lịch sử trong mối quan hệ biện
chứng và lô gic với nhau. Huy động các giác quan của HS không chỉ giúp cho việc thu
nhận thông tin mà còn giúp cho việc thực hiện các liên tưởng với những kiến thức đã có
để thu nhận kiến thức mới.
Tạo động lực học tập: Một cách chung nhất động lực học tập được thể hiện ở
thái độ tự nguyện, ở nhu cầu mong muốn, sự thôi thúc tham gia và thành công trong quá
trình học tập của HS. Theo các nhà nghiên cứu có động lực bên trong và động lực bên
ngoài. Động lực bên trong nằm trong chính bản thân người học. Việc học sẽ không thể
hiệu quả nếu người học cảm thấy chán nản và thụ động. Do vậy thúc đẩy được động lực

2


bên trong của chính người học là rất quan trọng. Bên cạnh đó việc học cũng sẽ được cải
thiện tốt hơn nhờ vào một môi trường học tập thuận lợi do GV tạo ra. Tạo động lực học

tập cho HS cần được tiến hành ngay từ buổi học đầu tiên và duy trì trong suốt quá trình
học tập:
Mở đầu bài học cuốn hút, hiệu quả là bước đầu tiên nhằm thu hút sự chú ý, tập
trung của HS vào nội dung của bài. Có nhiều cách để mở đầu thành công như bắt đầu từ
một câu chuyện có gắn với nội dung của bài, bắt đầu từ những hình ảnh, những sự kiện
trong thực tiễn cuộc sống hoặc gắn nội dung chính của bài với những tình huống có tính
thực tiễn cao…Theo quan điểm “Sư phạm tương tác”, việc khai thác yếu tố môi trường
nhằm tạo thuận lợi cho quá trình học tập cần được GV lưu ý ngay từ lúc bắt đầu cũng
như trong suốt quá trình dạy học.
Chỉ ra những mục tiêu cần đạt nhằm định hướng việc học tập cho HS là cách tạo
động lực thực sự hiệu quả. Mục tiêu đó cần được xác định rõ ràng ngay từ khi GV
chuẩn bị giáo án. Xác định một mục tiêu bài học chính là việc chỉ ra cái đích mà người
học phải hướng tới. Do vậy mục tiêu cần nêu rõ HS sẽ đạt được những gì sau khi học
xong một bài, một chương. Ví dụ: HS trình bày được nguyên nhân thúc đẩy đế quốc
Pháp ráo riết khai thác thuộc địa ở Đông Dương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phân
tích được tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp đến tình hình phân hóa
giai cấp trong xã hội Việt Nam…Mục tiêu bài học hoàn toàn không phải là phần tóm tắt
nội dung cơ bản của bài. Đây là công việc rất quan trọng song trong thực tế dường như
các GV còn chưa chú ý đến.
Đưa ra nhiệm vụ cụ thể và kiểm tra đánh giá (KT ĐG) thường xuyên trong quá
trình dạy học để biết được HS của mình thành công ở mức nào. Từ đó có GV có những
điều chỉnh hợp lý hoặc khuyến khích, động viên khi HS của mình thành công. Trong
thực tế dạy học LS hiện nay, GV thường chỉ chú ý đến việc giao nhiệm vụ mà thiếu sự
hướng dẫn, hỗ trợ HS trong việc giải quyết các nhiệm vụ đó. Việc KT ĐG được GV tiến
hành theo định kỳ là chủ yếu mà chưa chú ý đến KT ĐG thường xuyên. Việc kiểm tra
thường xuyên không chỉ nhằm đánh giá kết quả học tập của HS mà hơn thế nữa nó giúp
GV thu thập thông tin phản hồi về tình hình học tập của HS để điều chỉnh việc giảng
dạy của mình.
Luôn tạo cơ hội cho HS của mình được chủ động tham gia vào quá trình học tập
là rất cần thiết. Do vậy GV phải là người tổ chức, quản lý các hoạt động cá nhân, hoạt

động nhóm của HS. Đặc biệt là việc tổ chức hoạt động học tập hợp tác trên lớp nhằm
phát triển một môi trường cộng tác và làm việc nhóm hiệu quả. Chính trong môi trường
đó mỗi thành viên tích cực trong nhóm sẽ tạo động lực học tập hiệu quả cho các thành
viên còn lại.
2.2. Giúp HS vượt qua “rào cản” của trạng thái T
Theo quan điểm “Sư phạm tương tác”, mỗi bán cầu não người có một chức năng
riêng biệt trong việc xử lý thông tin, còn trạng thái T là trạng thái bổ sung để tạo nên
hoạt động thống nhất của hai bán cầu não. Chỉ khi nào các thông tin được não phải thu

3


nhận đạt tới “ngưỡng” (trạng thái T) thì não trái mới nhận ra thông tin cần tìm và đạt
đến kiến thức mới. Như vậy mỗi người có một bộ não riêng nên tốc độ đạt tới “ngưỡng”
thông tin là không giống nhau.
Tuy có cách tiếp cận khác, song quan điểm của Antoine de La Garandrie phần
nào có sự đồng nhất với quan điểm “Sư phạm tương tác”. Điểm cơ bản trong quan điểm
của ông đó là hướng tới hoạt động dạy học “hợp quy luật hoạt động trí óc”. Những
công trình nghiên cứu của đã giúp ông rút ra hai kết luận quan trọng:
- Hoạt động trí óc có những quy luật chung cho mọi người, có thể mô tả được,
do đó có thể luyện tập hoặc tự điều khiển được.
- Mỗi người có thói quen hoạt động trí óc khác nhau, ảnh hưởng đến việc học
tập của họ (2).
Điều này lý giải cho chúng ta một thực tế rõ ràng là cùng trong một môi trường
học tập song mỗi người học lại thành công ở những mức độ khác nhau. Do vậy để giúp
HS vượt qua “rào cản” của trạng thái T, trong dạy học GV cần tôn trọng các chức năng
của bộ não người học. Dưới đây là một vài biện pháp giúp GV tổ chức hoạt động học
cho HS thành công:
Luôn bắt đầu từ các ví dụ, các hình ảnh, các sự kiện cụ thể để giúp HS hình
thành các khái niệm. Cung cấp sự kiện LS một cách cụ thể, sinh động tạo điều kiện

thuận lợi cho sự vận hành của bộ máy học. Tuy nhiên khi HS chưa gọi được tên khái
niệm, chưa trình bày được các nội dung của khái niệm có nghĩa là GV chưa cung cấp đủ
thông tin cần thiết hoặc HS chưa tích hợp đủ thông tin cần thiết để đạt tới “trạng thái T”.
Do vậy GV cần kiên nhẫn và có biện pháp phù hợp. GV cần cung cấp thêm thông tin,
hoặc nêu câu hỏi gợi mở giúp HS liên tưởng với những kiến thức đã có để đạt đến kiến
thức mới. Khi đặt ra các câu hỏi gợi mở giúp HS liên tưởng GV cần dành thời gian chờ
đợi hợp lý cho câu trả lời của HS. Kiên nhẫn chờ đợi và không làm thay người học đó là
một nguyên tắc trong dạy học.
Luôn tạo được sự kết nối giữa kiến thức cũ với kiến thức mới bằng cách:
củng cố ôn tập thường xuyên, kiểm tra kiến thức nền. Hướng dẫn HS ôn tập bằng
cách sắp xếp các sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian diễn ra, lập sơ đồ mạng thiết lập
mối quan hệ giữa các sự kiện, khái niệm lịch sử, lập bảng tổng kết... Vận dụng kĩ thuật
kiếm tra kiến thức nền trong quá trình dạy học không chỉ nhằm đánh giá kết quả học tập
của HS mà còn tạo sự liên kết giữa kiến thức cũ với kiến thức mới. Kiểm tra kiến thức
nền có nghĩa là kiểm tra những kiến thức, khái niệm mà HS đã được học từ trước nhằm
làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức mới. Tiến hành kiểm tra kiến thức nền theo các
bước như sau:
- Trước khi giới thiệu sự kiện, khái niệm mới GV cần quan tâm đến những sự
kiện, khái niệm liên quan mà HS đã biết.
- Chuẩn bị những câu hỏi mở, câu hỏi nhiều lựa chọn để kiểm tra những kiến
thức liên quan.
- Hướng dẫn HS trả lời và tìm ra những điểm mà phần lớn HS đều biết để dẫn
dắt các em tìm hiểu kiến thức mới.

4


Kĩ thuật kiểm tra kiến thức nền có thể vận dụng linh hoạt trong suốt tiến trình
dạy học giúp HS tái hiện những gì đã biết, sử dụng trí nhớ để học tập hiệu quả. Vì học
không phải chỉ là đối diện với những thông tin mới, mà còn là huy động tổng thể các

kiến thức lưu giữ trong trí nhớ dài hạn của chúng ta (3).
Hoạt động của “bộ máy học” của mỗi HS là không giống nhau, do vậy GV cần
chú ý đến nhịp độ làm việc trí óc của HS, không áp đặt học sinh làm việc theo thói
quen làm việc trí óc của GV (4). Cần có biện pháp hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời khi HS
chưa đạt đến “ngưỡng” cần thiết trong việc học tập. Đồng thời GV cũng cần có biện
pháp động viên, khuyến khích hợp lý khi HS thành công.
Trong vai trò là người tổ chức, hướng dẫn việc học tập của HS theo tinh thần đổi
mới phương pháp dạy học, GV cần hiểu được cơ chế hoạt động của bộ máy học của HS
để có những biện pháp giúp người học vượt qua các “rào cản” và là người chủ động,
tích cực trong học tập. “Sư phạm tương tác” là một quan điểm tiến bộ và phù hợp với
công cuộc cải cách giáo dục của nước ta hiện nay. Việc nghiên cứu quan điểm này để
vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy
học môn Lịch sử nói riêng là rất cần thiết và cần được triển khai rộng rãi cho GV các
trường THPT.
Hết

Tài liệu tham khảo
(1). Jean Marc Dénommé et Madeleine Roy. Tiến tới một phương pháp sư phạm
tương tác. NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000, tr.73.
(2), (4). Nguyễn Hữu Lương. Dạy và học hợp quy luật hoạt động trí óc (Giới thiệu
phương pháp sư phạm của Antoine de La Garandrie). NXB Văn hóa thông tin, Hà
Nội, 2002, tr. 14-15, tr.166.
(3) Khoa Sư phạm – ĐH Quốc gia HN. Tập bài giảng “Lý thuyết sư phạm tương
tác”, Hà Nội 2006, tr.30.

5




×