Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Xung đột tâm lí giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở tại thành phố bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THÂN THỊ NGA

XUNG ĐỘT TÂM LÝ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI THÀNH PHỐ BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội, năm 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Thân Thị Nga

XUNG ĐỘT TÂM LÝ GIỮA CHA MẸ VÀ CON
LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI THÀNH PHỐ BẮC GIANG

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.04.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS . LÊ THỊ THU HẰNG

Hà Nội, năm 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thân Thị Nga


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn
đến TS. Lê Thị Thu Hằng - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong khoa tâm lý
học, cùng với các thầy cô giáo, các phòng, ban của Học viện Khoa học xã
hội đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn tới cán bộ, giảng viên và học sinh, cha mẹ học sinh
Trường trung học cơ sở Đồng Sơn và Trường trung học cơ sở Tiền Phong đã
tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Dù có nhiều cố gắng song luận văn vẫn còn những thiếu sót, vì vậy tác giả
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để luận
văn được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 07 năm 2016
Tác giả

Thân Thị Nga


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT TÂM LÝ GIỮA CHA
MẸ VÀ CON LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ................. 10
1.1. Các khái niệm công cụ ........................................................................... 10
1.2. Các biểu hiện của XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh
THCS .............................................................................................................. 22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa
tuổi học sinh trung học cơ sở........................................................................ 27
CHƯƠNG 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............... 32
2.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu ......................................................... 32
2.2 Tổ chức nghiên cứu ................................................................................. 37
2.3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 38
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 43
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XUNG ĐỘT TÂM
LÝ GIỮA CHA MẸ VÀ CON LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ............................................................................................................. 44
3.1. Đánh giá chung XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS ..... 44
3.2. Thực trạng XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS ............. 46
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 74
1. Kết luận ....................................................................................................... 74
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

Điểm trung bình

ĐTB

Độ chênh lệch

ĐCL

Độ lệch chuẩn

ĐLC

Nhà xuất bản

Nxb

Số lượng

SL

Trung bình


TB

Trung học cơ sở

THCS

Xung đột tâm lý

XĐTL


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1: Đặc điểm khách thể nghiên cứu ...............................................................32
Bảng 3.1: Đánh giá chung xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con .............................. 44
Bảng 3.2: Xung đột trong nhận thức trong giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS .
................................................................................................................................... 47
Bảng 3.3: Xung đột trong thái độ giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS ....... 53
Bảng 3.4: Xung đột trong hành vi giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS ...... 57
Bảng 3.5: Nội dung XĐTL giữa cha mẹ và con ....................................................... 62
Bảng 3.6: So sánh độ tuổi của cha mẹ với các nội dung XĐTL ............................... 66
Bảng 3.7: Cách thức giải quyết xung đột của cha mẹ và con khi xảy ra xung đột ... 69
Bảng 3.8: Nguyên nhân gây ra XĐTL giữa cha mẹ và con ...................................... 71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, chức năng giáo dục của gia đình vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển của một con người nói chung và đứa trẻ nói riêng. Tuy nhiên,
trong cuộc sống, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái diễn ra hết sức phức tạp và

không tránh khỏi việc xảy ra những xung đột mâu thuẫn. Ở lứa tuổi thiếu niên, các
em có nhiều thay đổi về thể chất, tâm sinh lý, dễ chịu tác động của những biến đổi
trong xã hội, vai trò của gia đình càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, ở
lứa tuổi này, nếu không nhận được sự quan tâm, giáo dục một cách đúng đắn từ
phía gia đình, các em sẽ rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội, có xu hướng thực hiện các
hành vi lệch chuẩn gây nên những hậu quả đáng tiếc đối với bản thân, gia đình và
xã hội. Xung đột tâm lí giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là hiện
tượng phổ biến có thể xảy ra ở bất kì thời điểm nào và nó bắt nguồn từ sự khác biệt
trong nhận thức giữa cha mẹ và con cái về cùng một vấn đề. Lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là lứa tuổi dễ xảy ra xung đột tâm lý với cha mẹ nhất. Ở lứa tuổi này, các
em muốn làm người lớn, muốn được độc lập, được thoát khỏi sự kiểm soát chặt chẽ
của cha mẹ, muốn được tự khẳng định bản thân và muốn tự quyết định những vấn
đề của mình dựa vào sự hiểu biết của bản thân mà không phụ thuộc vào cha mẹ.
Trong khi đó, cha mẹ do không hiểu đặc điểm tâm lý này của con, do có thói quen
kiểm soát con, muốn duy trì sự phụ thuộc của con vào mình và cho rằng con còn
nhỏ nên đã áp dụng nhiều biện pháp giáo dục cứng nhắc, áp đặt buộc con phải tuân
theo quyết định của mình trong mọi vấn đề. Chính điều này làm cho các xung đột
giữa cha mẹ và con trở nên trầm trọng hơn. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này, nhận thức của
các em còn nhiều hạn chế nên cha mẹ không thể để con quyết định mọi vấn đề mà
hiểu được đặc điểm này của con, cha mẹ cần tìm ra các biện pháp phù hợp nhất để
giải quyết triệt để các xung đột mà con cái vẫn cảm thấy mình được tôn trọng và
được khẳng định cái Tôi của bản thân.
Nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường hiện nay đang lôi kéo
những người làm cha làm mẹ vào vòng xoáy của lao động xã hội, của nghề nghiệp

1


mưu sinh cùng với gánh nặng công việc trong gia đình dẫn đến họ thường xuyên bị
quá tải, mệt mỏi, stress..., dẫn đến họ không có nhiều thời gian quan tâm sát sao,

chăm sóc và dạy dỗ các con. Hiện nay, Bắc Giang là tỉnh đang thu hút rất nhiều các
tập đoàn, công ty trong và ngoài nước, các khu công nghiệp ngày một tăng lên,
phần lớn những người dân ở đây làm công nhân trong các công ty, họ phải làm việc
ở công ty từ 8 đến 12 giờ một ngày dẫn đến ít có thời gian quan tâm đến con. Cùng
với đó là sự lớn lên phát triển cả về thể chất và tâm sinh lý của đứa trẻ đặc biệt là
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, các em có sự thay đổi lớn trong nhận thức và hình
thành "cảm giác về sự trưởng thành", "cảm giác người lớn". Nếu không khéo trong
cách cư xử với con, cha mẹ và con cái rất dễ nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến việc các
bậc cha mẹ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc giáo dục con cái. Mỗi gia đình có hoàn
cảnh khác nhau, ông cha ta có câu: "Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh", tùy vào
đặc điểm tính cách của con mà cha mẹ lựa chọn cách dạy dỗ giáo dục con phù hợp
tạo mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái. Trên thực tế, phần lớn cha
mẹ cảm thấy khó khăn trong giáo dục con cái ở lứa tuổi này. Các mâu thuẫn giữa
cha mẹ và con cái hiện nay đang tăng cao, rất nhiều các ông bố, bà mẹ phải trăn trở,
đau đầu trong việc tìm cách giáo dục con và các biện pháp giải quyết xung đột.
Hiện nay, vấn đề xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con cái là vấn đề cấp bách và cần
được quan tâm. Các xung đột này đòi hỏi phải được giải quyết. Xung đột không
được giải quyết thì không thể tiến hành công việc tiếp theo hoặc không thể có được
một cuộc sống bình thường giữa các cá nhân trong gia đình. Những công trình
nghiên cứu trước đây về vấn đề này thường cho rằng xung đột là một hiện tượng
tiêu cực, nó có ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng
như sự phát triển của trẻ. Các xung đột mang tính chất phá hoại, làm tan vỡ gia
đình. Xung đột làm đảo lộn cuộc sống gia đình, gây ảnh hưởng nặng nề đến trạng
thái tâm lý thần kinh của mọi người. Vì khi xung đột mỗi bên của xung đột ít nghĩ
đến công việc hơn nhưng lại nghĩ đến đấu tranh. Nếu xung đột không được giải
quyết thỏa đáng sẽ dẫn đến không khí trong gia đình trở nên nặng nề, căng thẳng,
gây bất hòa giữa các thành viên và làm cho khoảng cách giữa cha mẹ và con cái

2



ngày càng sâu sắc hơn. Nhưng thực tế cho thấy rằng, không phải lúc nào xung đột
cũng mang tính tiêu cực. Nếu chúng ta biết điều chỉnh các xung đột thì sẽ có tác
dụng ngược lại, các xung đột có tính chất giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy gia đình
cũng như bản thân cá nhân phát triển thì khi đó xung đột lại mang tính tích cực. Nếu
xung đột được giải quyết một cách đúng đắn thì nó sẽ làm dịu đi sự căng thẳng, dập
tắt xung đột, nó xóa nhòa cảm giác nặng nề trong gia đình, trong mỗi cá nhân, lôi
cuốn mọi người chú ý đến trách nhiệm chung và tính tích cực được nâng cao, tạo
bầu không khí tâm lý trong gia đình trong sạch, góp phần xây dựng gia đình đầm
ấm, hạnh phúc. Bởi vậy, việc khắc phục xung đột có một ý nghĩa rất lớn, nó thúc
đẩy sự phát triển của gia đình cũng như của cá nhân. Việc nghiên cứu xung đột tâm
lý giữa cha mẹ và con cái đặc biệt là lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là rất cần
thiết và nó có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu và giáo dục nhân cách cho trẻ.
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy vấn đề nghiên cứu: "Xung đột tâm lí giữa cha
mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở tại thành phố Bắc Giang" là vô cùng
cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Trên thế giới
Xung đột là hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội và tinh thần của con
người. Trong quá trình con người giao lưu quan hệ với nhau thì bất đồng và xung
đột là điều không thể tránh khỏi. Đã từ rất lâu, vấn đề xung đột giữa cá nhân với cá
nhân đã được các nhà tâm lý học ở nước ngoài rất quan tâm đặc biệt là XĐTL giữa
cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS.
Trước đây, các nhà tâm lý xã hội phương Tây rất quan tâm nghiên cứu các
xung đột trong tập thể giữa cá nhân với cá nhân. Có thể kể đến các công trình tiêu
biểu như sau:
S.Freud (1856-1939) bác sĩ tâm thần người Áo cho rằng: nhân cách được
cấu tạo từ ba khối: "cái nó" (id),"cái tôi" (ego), "siêu tôi" (superege). Giữa "cái nó"là các bản năng vô thức luôn đòi thỏa mãn với "siêu tôi"- các chuẩn mực cấm kỵ xã
hội luôn mâu thuẫn, xung đột, chống đối lẫn nhau. Theo S. Freud: "Xung đột chủ


3


yếu là do những xung lực bản năng vấp phải thực tế (sự vật bên ngoài và ràng buộc
xã hội) không thể thỏa mãn trực tiếp đầy đủ. Đó là nguồn gốc của mọi hành vi,
hành vi là do sự thỏa hiệp giữa các xung năng và thực tế. Xung đột là tình trạng
thường xuyên trong thực tế".[10, tr. 38]
Khái niệm về sự cạnh tranh và xung đột trong Tâm lý học phương Tây được
phân tích đầy đủ hơn trong các tác phẩm của M.Deutsch trong cuốn “Vấn đề giải
quyết xung đột”. Theo ông sự khác nhau giữa hai hiện tượng này là ở chỗ chúng liên
quan đến những khía cạnh khác nhau của hiện thực. Theo tác giả thì dấu hiệu khách
quan của nó là sự va chạm của những hành động không cùng nhau (những hành
động chia rẽ, cắt đứt…) nảy sinh không phải do những đặc điểm của tình huống
xung đột mà là do đặc điểm của những mối quan hệ liên nhân cách.[4].
Từ những hiện tượng xung đột trong thực tiễn đời sống xã hội hàng ngày của
con người, từ việc tìm hiểu nguyên nhân của các hiện tượng này, các nhà khoa học
đã khái quát chúng để có thể đưa ra khái niệm chung nhất về xung đột. Nhà nghiên
cứu nổi tiếng người Mỹ L.Coser cho rằng: "Sự xung đột theo đúng từ của nó là sự
đấu tranh, nó xuất hiện khi có sự thiếu hụt quyền lực, vị trí hay công cụ cần thiết để
thỏa mãn những đòi hỏi, kì vọng và đấu tranh đó làm cô lập, lấn át hoặc dập tắt
mục đích của đối phương".[37, tr. 8]. Theo Coser, xung đột là một phần của các mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân và không nhất thiết đó phải là dấu hiệu của sự bất
ổn. Ông cũng chỉ ra sự cần thiết phải phân biệt xung đột như là một phương tiện để
đạt được một kết quả nhất định và sự xung đột như là mục đích tự thân của nó. Khi
xung đột như là phương tiện để đạt kết quả thì nó sẽ kích thích ý định đạt được mục
đích mong muốn. Ngược lại, nếu xung đột là phương tiện không phù hợp để đạt
được kết quả mong muốn thì xung đột sẽ làm cho tâm lý của mỗi cá nhân căng
thẳng hơn. Tuy nhiên, định nghĩa của ông còn nhiều hạn chế, ông chỉ nhấn mạnh
đến các hiện tượng xung đột trong đời sống xã hội mà chưa quan tâm đến các hiện
tượng xung đột trong đời sống tâm lý của con người.

Nhà tâm lý học Mỹ Watson Goodwin cho rằng: "Xung đột là mâu thuẫn
người - người. Xung đột nảy sinh và phát triển từ một tình huống mà cả hai người

4


đều có cơ hội thắng, nhưng nếu một người thắng thì người khác phải thua". Do đó,
xung đột có thể được coi như là một cuộc cãi nhau, cảm giác này có thể trở thành
quá gay gắt đến nỗi mà con người có thể giết chết lẫn nhau. Ông cũng cho rằng
nghệ thuật của người hòa giải là tìm cách tháo gỡ xung đột bằng cách tìm ra một sự
hợp nhất chân chính giữa hai bên tham gia xung đột hoặc làm xao nhãng sự chú ý
của một trong hai bên xung đột bởi sự gợi lên những hứng thú khác để hướng họ tới
hoạt động khác.[40, tr. 38-39]
Vào những năm 60 của thế kỉ 20 nhiều nhà tâm lý học Xô Viết cũng quan
tâm đến vấn đề này. A.G.Covaliốp trong cuốn sách "Tập thể và những vấn đề tâm
lý xã hội của lãnh đạo"(1975) cho rằng: "Xung đột là mâu thuẫn giữa người với
người đặc trưng bởi sự đấu tranh. Mâu thuẫn chỉ dẫn tới xung đột khi nó đụng
chạm tới cương vị xã hội của cá nhân, quyền lợi vật chất và tinh thần của người ta,
uy tín của họ...[3, tr. 47]
Tóm lại, có nhiều lý thuyết và quan điểm của các tác giả khác nhau về vấn đề
xung đột và bước đầu đã khám phá ra các biểu hiện của xung đột, nguyên nhân gây
ra xung đột, một số cách thức giải quyết xung đột. Tuy nhiên, các lý thuyết và quan
điểm này còn nhiều hạn chế chưa phản ánh được đầy đủ bản chất của mối quan hệ
xung đột giữa cá nhân và cá nhân.
2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề xung đột cũng bắt đầu được các nhà nghiên cứu quan
tâm. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn chưa nhiều
và những vấn đề khác nhau của hiện tượng xung đột còn chưa được đề cập một cách
toàn diện. Các nghiên cứu của các tác giả chủ yếu quan tâm đến xung đột trong tập
thể và xung đột giữa cá nhân với cá nhân. Một số tác giả đã nghiên cứu về vấn đề

xung đột tâm lý tiêu biểu như:
Nguyễn Phúc Ân cho rằng: "Trong cuộc sống và hoạt động, con người rất
cần đến nhau, thiếu nhau thì cảm thấy cô đơn không chịu được, nhưng sống gần
nhau thì phát sinh mâu thuẫn, va chạm, do đó mỗi người có thói quen tâm lý, phong
tục, tập quán, truyền thống khác nhau, có tàn dư quá khứ khác nhau, có nhu cầu,

5


khát vọng khác nhau". Tác giả cho rằng có ba loại va chạm cơ bản: va chạm giữa cá
nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể với tập thể. Từ va chạm dẫn
tới xung đột là hiện tượng vốn có trong tâm lý tập thể, là đặc điểm của sự vận động
trong giao tiếp [1, tr. 86-89].
Mai Hữu Khuê đã xác định: "Xung đột giữa các cá nhân tức là mâu thuẫn
giữa những người làm việc riêng lẻ với nhau mà nguồn gốc của những xung đột này
thường là do tàn dư của quá khứ, những thói quen, tập quán và truyền thống thừa
hưởng từ xã hội cũ như: tính ích kỉ, tính tự cao tự đại, sự ki cóp thu vén cá
nhân..."[16, tr. 13].
Tác giả Trần Trọng Thủy với trong cuốn "Tâm lý học quản lý" (1992) đã
cho rằng "Xung đột là một hiện tượng nảy sinh trong hoạt động cùng nhau giữa các
cá nhân trong tập thể. Nó liên quan đến bầu không khí tâm lý trong tập thể"[26, tr.
98].
Tác giả Vũ Dũng cho rằng: “Xung đột là sự khác biệt (về quan điểm, mục
đích, động cơ…) giữa các thành viên trong quá trình thực hiện hoạt động của
nhóm” [6, tr. 158].
Tác giả Nguyễn Khắc Viện cũng quan tâm đến hiện tượng xung đột. Ông đã
đưa ra khái niệm xung đột và ảnh hưởng của xung đột đối với những tâm bệnh của
trẻ em và chứng nhiễu tâm ở người lớn.[34]
Trong luận án Tiến sĩ của Cao Thị Huyền Nga (2001) nghiên cứu về "Xung
đột trong quan hệ vợ chồng", tác giả cho rằng: "Xung đột tâm lý là nguyên nhân

chính dẫn đến việc ly hôn giữa các cặp vợ chồng".[20, tr. 16]
Tác giả Nguyễn Văn Tuân trong luận án của mình nghiên cứu "Vấn đề xung
đột liên nhân cách trong tập thể quân nhân ở đơn vị cơ sở" (2002) tìm hiểu về xung
đột tâm lý trong các mối quan hệ liên nhân cách như các biểu hiện của xung đột
giữa các cá nhân trong tập thể quân nhân và ảnh hưởng của các xung đột đó đến bầu
không khí của tập thể.[31]
Năm 2005 tác giả Nguyễn Thị Tế với công trình nghiên cứu về "Một số biểu
hiện xung đột tâm lý trong quan hệ cha mẹ và con cái thiếu niên về nhu cầu độc

6


lập". Theo tác giả nguyên nhân chính dẫn đến xung đột giữa cha mẹ và con cái ở
tuổi thiếu niên là do sự khác biệt về nhận thức giữa cha mẹ và thiếu niên liên quan
đến quyền được thỏa mãn nhu cầu độc lập.[24]
Tác giả Đỗ Hạnh Nga trong nghiên cứu "Xung đột tâm lý giữa cha mẹ và
con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về nhu cầu độc lập" (2005) cho rằng đặc điểm
nổi bật của xung đột tâm lý về nhu cầu độc lập là sự khác biệt nhận thức giữa cha
mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, khi con cái đã có khả năng trong nhận
thức và muốn tự quyết định những công việc trong cuộc sống hàng ngày, còn cha
mẹ lại muốn duy trì sự phụ thuộc của con vào mình.[19]
Tác giả Nguyễn Xuân Thức (2005) nghiên cứu về “xung đột tâm lý trong
giao tiếp nhóm bạn bè của học sinh tiểu học”. Nghiên cứu đã chỉ ra nhận thức của
học sinh tiểu học về xung đột và những nguyên nhân gây ra xung đột trong giao tiếp
nhóm bạn bè của học sinh tiểu học [27, tr. 21-24]
Các công trình nghiên cứu của các tác giả trước đây mới chỉ đề cập đến các
biểu hiện và một số biện pháp khắc phục xung đột mà chưa quan tâm đến các yếu tố
ảnh hưởng đến xung đột tâm lí giữa cha mẹ và con ở lứa tuổi học sinh trung học cơ
sở. Do vậy, theo chúng tôi nghiên cứu về vấn đề này để tìm ra được các nguyên
nhân gây ra xung đột để từ đó giúp những người làm cha làm mẹ có các biện pháp

khắc phục và giải quyết triệt để các xung đột tạo mối quan hệ gần gũi, thân mật giữa
cha mẹ và con.
Khách thể chúng tôi lựa chọn cũng khác với các công trình nghiên cứu trước
đó, chúng tôi lựa chọn học sinh của các khối lớp 6, 7, 8, 9 của hai trường THCS
Tiền Phong và THCS Đồng Sơn - Đây là hai trường có những nét đặc thù riêng:
Học sinh trường Đồng Sơn phần đa số là con em trong gia đình kinh doanh giàu có,
học sinh trường Tiền Phong đa số là con em trong gia đình làm nông nghiệp kinh tế
gia đình ở mức bình thường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

7


Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu thực trạng các biểu hiện và những
nguyên nhân dẫn đến XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS. Trên cơ
sở đó, đề tài đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế xung đột, mâu thuẫn giữa cha mẹ
và con cái ở lứa tuổi này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản để từ đó đưa ra khái niệm và các
biểu hiện XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS.
- Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến XĐTL giữa cha mẹ và con
lứa tuổi học sinh THCS.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế xung đột, mâu thuẫn giữa cha mẹ và
con cái ở lứa tuổi học sinh THCS, làm cho mối quan hệ này tốt đẹp hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS tại thành phố Bắc Giang.
4.2. Khách thể nghiên cứu
500 người bao gồm: 250 học sinh lứa tuổi học sinh trung học cơ sở thuộc hai

trường THCS Tiền Phong và trường THCS Đồng Sơn và 250 cha mẹ của các em
học sinh này.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Các biểu hiện XĐTL giữa cha mẹ và con ở lứa tuổi học sinh THCS.
4.3.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Trường THCS Tiền Phong, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc giang và trường
THCS Đồng Sơn, TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Tiếp cận theo Tâm lý học lứa tuổi
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản

8


- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp chuyên gia
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú hơn lý luận về XĐTL nói chung và
XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh THCS nói riêng. Chỉ ra những biểu
hiện và nguyên nhân ảnh hưởng đến XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh
THCS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Làm rõ thực trạng biểu hiện XĐTL giữa cha mẹ và con của học sinh THCS
tỉnh Bắc Giang, những nguyên nhân ảnh hưởng đến XĐTL, đồng thời đề xuất được

một số biện pháp tác động nhằm hạn chế XĐTL giữa cha mẹ và con lứa tuổi học
sinh THCS.
Những kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo bổ ích giúp cho cha mẹ và
con cái xây dựng mối quan hệ tình cảm tốt đẹp, gần gũi, thân thiện tạo bầu không
khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và mục
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học
sinh trung học cơ sở
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT TÂM LÝ
GIỮA CHA MẸ VÀ CON LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm xung đột và xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học
sinh trung học cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm xung đột
Quá trình sống, hoạt động và giao lưu của con người tự nó đã chứa đựng các
mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn về nhận thức, về quan điểm, về lợi ích của mỗi cá nhân
trong mối quan hệ liên nhân cách.
Xung đột là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh: conflictus - là sự va
chạm, bất hòa, sự tranh cãi đụng độ, xô xát, chống đối giữa các khuynh hướng đối
lập nhau, là sự tương hợp nhau trong ý thức của mỗi cá nhân riêng biệt, trong sự tác

động qua lại liên nhân cách của các cá nhân hay của nhóm người gắn liền với các
trạng thái cảm xúc tiêu cực gay gắt.
Trong từ điển Anh - Việt (1993), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
Quốc gia, Viện ngôn ngữ học xung đột có hai nghĩa: 1. Sự bất đồng, tranh luận,
tranh cãi nghiêm trọng. 2. Sự đối lập, khác biệt, xô xát, không tương hợp.[28, tr.
437]
Từ điển tâm lý (Vũ Dũng chủ biên) xác định: "Xung đột là sự va chạm của
các hướng đối lập, mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân cá nhân trong quan hệ liên
nhân cách hay liên nhóm, kèm theo những chấn động về tình cảm ( thường là những
cảm xúc âm tính, bực bội, khó chịu, căm giận...)".[7, tr. 420]
Từ điển tâm lý (1995, Nguyễn Khắc Viện chủ biên) có định nghĩa: "Xung
đột là sự tranh chấp giữa những xu hướng, những lợi ích trong đó chủ thể thấy
mình bị giằng xé giữa những lực lượng, những sức mạnh ngược chiều và ngang sức
nhau".[35, tr. 405].

10


Trong các từ điển Tiếng việt (1997), từ điển Triết học (1976) cũng đưa ra các
định nghĩa khác nhau về xung đột.[22], [29], [30].
Ngoài những từ điển đã nêu trên, trong tâm lý học, khái niệm xung đột được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra những quan điểm riêng về vấn đề này:
Nhà nghiên cứu Mỹ L.Coser cho rằng: "Sự xung đột theo đúng từ của nó là
sự đấu tranh, nó xuất hiện khi có sự thiếu hụt quyền lực, vị trí hay công cụ cần thiết
để thỏa mãn những đòi hỏi, kì vọng và đấu tranh đó làm cô lập, lấn át hoặc dập tắt
mục đích của đối phương". Theo Coser, xung đột là một phần của các mối quan hệ
và không nhất thiết đó phải là dấu hiệu của sự bất ổn.[37, tr. 120]
- Nhà tâm lý học Mỹ J. P. Chaplin cho rằng: "Xung đột là hai hay nhiều
xung cơ có tính đối kháng lẫn nhau xảy ra một cách đồng thời" [36,tr. 102].
Theo tác giả Severy, Brighamva Schlenker: "Xung đột là hoàn cảnh mà ở

đó mục đích của hai hay nhiều người không thống nhất nhau ở một số mức độ"[41,
tr. 4].
Theo tác giả Vũ Dũng trong cuốn Tâm lý học xã hội cho rằng: "Xung đột là
sự khác biệt về quan điểm, mục đích, động cơ... giữa các thành viên trong quá trình
hoạt động chung của nhóm" [6, tr. 158].
Vấn đề xung đột được tác giả Vũ Dũng đề cập trong cuốn “Cơ sở tâm lý học
của ê kíp lãnh đạo” (1995). [5].
Các tác giả: Mai Hữu Khuê, Nguyễn Ngọc Phú, Ngô Công Hoàn... trong
các nghiên cứu của mình đều cho rằng xung đột là mâu thuẫn người - người về các
vấn đề liên quan tới vị thế xã hội, quyền lợi, uy tín của các cá nhân... [16], [23],
[14].
Như vậy, tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về xung đột, song mỗi
cách định nghĩa lại nhìn xung đột ở những góc độ khác nhau hoặc là xem xét xung
đột dưới góc độ tâm lý cá nhân hoặc là xem xét xung đột dưới góc độ của tâm lý
học xã hội. Nhưng dù nhìn ở góc độ nào thì các tác giả đều có những điểm tương
đồng trong việc xác định nội hàm của khái niệm xung đột. Từ việc tham khảo ý

11


kiến của các tác giả trên, theo tôi hiểu: Xung đột là sự đối lập, bất đồng trong nhận
thức, thái độ và hành vi giữa người này với người kia.
1.1.1.2. Khái niệm xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học
cơ sở
Xung đột tâm lý có thể định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo các
cách tiếp cận khác nhau của từng tác giả. Xung đột tâm lý là một khái niệm rộng vì
vậy khó có thể đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh và toàn diện.
Nhà tâm lý học L. A. Karpenco cho rằng: "Xung đột tâm lý là sự va chạm
có tính đối kháng của các định hướng, khuynh hướng không tương hợp nhau về
nhận thức ở trong một cá nhân, trong mối quan hệ liên nhân cách của các cá nhân

hay nhóm người có mối liên hệ với những trải nghiệm cảm xúc cực kì tiêu cực"[dẫn
theo 18, tr. 162].
Tác giả tâm Đỗ Hạnh Nga xác lập khái niệm xung đột tâm lý như sau:
"Xung đột tâm lý là sự va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao của các xu hướng đối lập
nhau trong tâm lý- ý thức của mỗi cá nhân trong quan hệ qua lại giữa các cá nhân
hay các nhóm người, nó biểu hiện trong các trải nghiệm cảm xúc kèm theo những
chấn động về tình cảm( thường là những cảm xúc âm tính tiêu cực mức độ mâu
thuẫn giữa hai bên không còn ở dạng tiềm mà được bộc lộ công khai thông qua
hành vi".[19, tr. 26]
Tác giả Ngô Công Hoàn đã đề cập đến vấn đề cập đến vấn đề xung đột tâm
lý giữa các thành viên trong gia đình: "Đó là xung đột về nhận thức, quan điểm,
thái độ và những thói quen hành vi ứng xử trong tổ chức đời sống sinh hoạt của các
thành viên ở gia đình".[14, tr. 116]
Các tác giả như: A.X.Macarenco, Nguyễn Ngọc Bích, Lê Văn Hảo, … cũng
đưa ra các quan niệm khác nhau về vấn đề xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con
cái.[18], [2], [3].
Từ việc tìm hiểu các quan điểm của các tác giả ở trên, theo tôi hiểu: "Xung đột tâm
lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là sự đối lập, bất đồng
trong nhận thức, thái độ và hành vi về cùng một vấn đề".

12


Các kiểu loại và giai đoạn XĐTL
* Các kiểu loại XĐTL
Có rất nhiều các cách phân loại xung đột khác nhau. Tùy từng cách tiếp cận
mà các tác giả đưa ra các cách phân loại khác nhau:
Theo thời gian diễn ra xung đột có thể có :
+ Xung đột ngắn hạn : thường là hậu quả của việc hiểu nhầm nhau hay là
những sai lầm nhanh chóng được phát hiện và nhận thức. Kiểu xung đột này không

ảnh hưởng nhiều đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
+ Xung đột dài hạn : là loại xung đột trong đó các bên tham gia xung đột
ngấm ngầm phản bác nhau, chê bai nhau chờ thời cơ để sát phạt nhau, để khẳng
định mình và tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn mới. Thông thường xung đột kiểu này kéo
dài và có ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của các thành viên trong gia đình rất lớn,
có thể gây ra sự thờ ơ lãnh đạm, tẻ nhạt trong gia đình, làm ảnh hưởng đến kết quả
học tập của con và hiệu quả làm việc của cha mẹ. Nếu cha mẹ không có những biện
pháp cụ thể để ngăn chặn thì khó có thể chấm dứt được xung đột.
Theo ý nghĩa xã hội, xung đột có 2 loại :
+ Xung đột tích cực : Đây là loại xung đột xuất phát từ lòng mong muốn làm
cho các cá nhân mình và những người xung quanh trở nên tốt hơn, không khí tâm lý
trong gia đình lành mạnh hơn. Ý nghĩa tích cực của xung đột thuộc loại này là nhờ
nó mà các mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được cải thiện, nhân cách của các
thành viên trong gia đình ngày càng được hoàn thiện hơn. Hiểu được điều này, cha
mẹ luôn khơi gợi làm nảy sinh nhiều xung đột tích cực làm cho cha mẹ và con cái
hiểu nhau hơn, tạo mối quan hệ gần gũi, thân mật.
+ Xung đột tiêu cực : Đây là loại xung đột xuất phát từ các lý do cá nhân, từ
các mục đích ích kỉ, vụ lợi. Kiểu xung đột này có ảnh hưởng không tốt đến mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái, vì vậy cha mẹ cần hạn chế và tránh các xung đột
này tạo điều kiện cho các xung đột tích cực nảy sinh và phát huy hiệu quả tốt nhất.
Để làm được điều đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của cả cha mẹ và con cái,

13


mỗi thành viên cần phải bỏ qua lợi ích cá nhân và "Cái Tôi" của bản thân để cùng
góp sức xây dựng lợi ích chung của gia đình được hòa thuận, hạnh phúc.[44], [46].
Xét về quy mô xung đột, Nguyễn Đình Xuân (1993) chia ra hai loại:
+ Xung đột nhỏ: là biểu hiện những mâu thuẫn lặt vặt thường xảy ra hàng
ngày. Kiểu xung đột này ảnh hưởng không nhiều đến mối quan hệ giữa cha mẹ và

con cái. Nếu cha mẹ không chú ý, những xung đột nhỏ này tích tụ dần sẽ thành
xung đột lớn.
+ Xung đột lớn: thể hiện những mâu thuẫn khá gay gắt có thể dẫn đến cãi
nhau, giận nhau và thậm chí là đánh nhau. Khi xung đột xảy ra, nếu cha mẹ không
làm chủ được bản thân, điều chỉnh được cảm xúc cũng như hành vi của mình thì sẽ
làm cho mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng hơn và không tìm ra được biện pháp
giải quyết vấn đề tốt nhất. Để hạn chế các xung đột không có lợi này cũng như hậu
quả của nó thì các thành viên trong gia đình cần phải tự điều chỉnh, kiềm chế cảm
xúc tiêu cực và hành vi của bản thân và cùng nhau đưa ra cách giải quyết xung đột
hiệu quả hợp lý nhất.
Tóm lại, tùy vào từng cách tiếp cận thì các cách phân loại khác nhau và mỗi
cách đều có mặt tích cực, hạn chế nhất định.
* Các giai đoạn của xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con cái: Qua nghiên cứu
tôi thấy có 3 giai đoạn cơ bản như sau:
Giai đoạn trước xung đột : Có hai mức độ
+ Xuất hiện xung đột bên trong (xung đột trong cá nhân): là xung đột xảy ra
trong nội tâm cá nhân, đó có thể là xung đột trong cảm xúc, động cơ hay nhận
thức... Xung đột đang ở tình trạng tiềm ẩn, thầm lặng chưa có biểu hiện gì ra bên
ngoài. Ở giai đoạn này cả cha mẹ và con tự chịu đựng được xung đột đó và chưa có
biểu hiện cũng như hành động ra bên ngoài.
+ Xung đột bên ngoài (xung đột xã hội- xung đột liên nhân cách): là xung
đột giữa cá nhân với cá nhân, giữa các cá nhân với nhóm và giữa nhóm với nhóm.
Xung đột đã được bộc lộ ra bên ngoài, thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, lời nói,
hành vi của con người. Ở mức độ này hai bên xung đột bắt đầu thể hiện sự bất bình

14


đối với nhau, các thành viên trong gia đình bộc lộ thái độ tiêu cực kéo dài trong mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái mà dấu hiệu của nó là lo lắng, giọng nói không thân

thiện, không quan tâm, hay than phiền, kêu ca... có những ý kiến khác nhau và tỏ ý
phê bình lẫn nhau. Các thành viên bắt đầu đưa ra ý kiến, quan điểm riêng của mình
và có những xích mích với nhau, tranh luận với nhau một cách cương quyết, bảo vệ
chính kiến của mình. Xung đột bên ngoài và bên trong có mối quan hệ nhất định với
nhau. Những xung đột bên ngoài thường mang tính chất tạm thời, còn những xung
đột bên trong sẽ dẫn đến sự biệt lập tâm lý của con với cha mẹ. Nếu xung đột này
không được giải quyết thỏa đáng thì sẽ phát triển sang giai đoạn cao hơn - giai đoạn
xung đột.
Giai đoạn xung đột
Ở giai đoạn này cả cha mẹ và con có những biểu hiện cũng như hành động ra
bên ngoài. Các thành viên tranh luận, bảo vệ chính kiến của mình. Tùy vào cách
giải quyết của cha mẹ mà xung đột được lắng xuống hay ngày càng căng thẳng gay
gắt hơn.
Nếu cuộc tranh luận không được giải quyết ổn thỏa, hai bên giận dữ, bực tức,
khó chịu, cãi nhau, thậm chí là đánh nhau... Chính những lời nói xúc phạm, lăng
mạ...giữa cha mẹ và con sẽ đẩy các cuộc xung đột lên tới mức độ gay gắt làm bất
hoà các mối quan hệ trong gia đình và tạo khoảng cách giữa các thành viên.
Giai đoạn sau xung đột :
Nếu cha mẹ giải quyết xung đột ổn thỏa, hài lòng giữa hai bên thì bầu không
khí tâm lý trong gia đình sẽ vui vẻ, các thành viên sẽ thấy thoải mái và gần gũi quan
tâm nhau hơn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của
mỗi cá nhân.
Nếu xung đột không được giải quyết thỏa đáng, xung đột sẽ chuyển sang giai
đoạn căng thẳng cao hơn và hậu quả là gia đình tan vỡ, không khí gia đình nặng nề,
căng thẳng. Ở trường hợp này cha mẹ và con đều trở nên mất sáng suốt, có những
hành động bột phát, không kiềm chế được cảm xúc và hành động tiêu cực của bản
thân, có những cơn tức giận nổi khùng.

15



Nếu xung đột được giải quyết bằng một sự can thiệp hòa giải bên ngoài có thể
là người thứ ba, cha mẹ có nhờ đến họ hàng, bạn bè của con hay các văn phòng tư vấn
tâm lý... thì xung đột có thể giảm đi và được giải quyết thỏa đáng cho cả hai bên.
Có thể nói, tính giai đoạn trong hình thành và phát triển xung đột tâm lý giữa
cha mẹ và con là một trong những vấn đề phức tạp. Người lớn trong gia đình, đặc
biệt là cha mẹ cần kịp thời ngăn ngừa và tìm biện pháp giải quyết xung đột tốt nhất
trong gia đình để giải quyết triệt để các xung đột tiêu cức và phát huy các xung đột
tích cực.
1.1.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THCS
Khái niệm lứa tuổi học sinh THCS:
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11- 15 tuổi, các em
đang học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9).
Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có vị trí đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển của trẻ em, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: đây là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được
phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như; "thời kì quá độ", "tuổi khó bảo", "tuổi
khủng hoảng", "tuổi khó khăn", "tuổi bất trị"... Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về
thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn
phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt
trong mọi mặt phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức... của thời kì này.[19].
* Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý ở lứa tuổi học sinh THCS
- Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể.
Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Sự phát triển hệ xương không đồng đều dẫn
đến các em lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng hay
làm đổ vỡ … Điều đó gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu.
- Sự phát triển của hệ thống tim mạch, tuyến nội tiết, hệ thần kinh cũng
không cân đối. Do đó, các em hay nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi khi làm việc và dễ
xúc động, dễ bực tức. Vì thế, các em thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ
và những cơn xúc động.


16


- Cần lưu ý ở lứa tuổi này, đó là thời kỳ phát dục. Sự phát dục ở lứa tuổi học
sinh THCS là một hiện tượng bình thường, diễn ra theo quy luật sinh học, chịu ảnh
hưởng của môi trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, các em chưa trưởng thành về
mặt cơ thể và đặc biệt là sự trưởng thành về mặt xã hội. Chính vì thế, các nhà khoa
học cho rằng ở lứa tuổi học sinh THCS không có sự cân đối giữa sự phát dục, giữa
bản năng tương ứng, những tình cảm và ham muốn đượm màu sắc tình dục với mức
độ trưởng thành về mặt xã hội và tâm lý. Nhiều khó khăn trở ngại ở lứa tuổi này
chính là các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn bản năng, ham
muốn của mình một cách đúng đắn, chưa biết kiểm tra tình cảm và hành vi, chưa
biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa người bạn khác giới. Vì thế, các nhà giáo
dục cần phải giúp đỡ các em một cách tế nhị, khéo léo để các em hiểu đúng vấn đề,
đừng làm cho các em băn khoan, lo ngại.
Tóm lại, sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của thiếu niên ở
trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em ý
thức được sự thay đổi và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự thay đổi đó. Do đó,
đặc điểm tâm lý, nhân cách của học sinh trung học cơ sở được hình thành và phát
triển phong phú hơn so các lứa tuổi trước
* Hoạt động giao tiếp của học sinh THCS
- Giao tiếp của thiếu niên với người lớn
+ Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo : “cảm giác mình đã
là người lớn”. Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, nhưng các em cũng
có cảm giác mình chưa thực sự là người lớn.
+ Cảm giác về sự trưởng thành của bản thân là nét đặc trưng trong nhân cách
thiếu niên, vì nó biểu hiện lập trường sống mới của thiếu niên đối với người lớn và
thế giới xung quanh. Cảm giác mình đã là người lớn được thể hiện rất phong phú về
nội dung và hình thức. Các em quan tâm đến hình thức, tác phong, cử chỉ…và

những khả năng của bản thân.
+ Trong phạm vi ý thức xã hội, các em muốn được độc lập và không phụ
thuộc vào người lớn ở một mức độ nhất định.

17


+ Các em đòi hỏi, mong muốn người lớn quan hệ đối xử với mình bình đẳng
như đối xử với người lớn, không can thiệp quá tỉ mỉ vào một số mặt trong đời sống
riêng của các em.
+ Thiếu niên bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây nó vẫn thực
hiện một cách tự nguyện. Các em bảo vệ ý kiến của mình không chỉ trong lời nói
mà cả trong hành động.
+ Cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận nó là
người lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với
nhau. Các em mong muốn hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn
của mình; Các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng
và mở rộng tính độc lập của các em.
+ Nguyện vọng muốn được tin tưởng và độc lập hơn, muốn được quyền bình
đẳng nhất định với người lớn có thể thúc đẩy các em tích cực hoạt động, chấp nhận
những yêu cầu đạo đức của người lớn và phương thức hành vi trong thế giới người
lớn, khiến các em xứng đáng với vị trí xã hội tích cực. Nhưng mặt khác nguyện
vọng này cũng có thể khiến các em chống cự, không phục tùng những yêu cầu của
người lớn.
+ Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những
hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho
rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có
ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, những nhận xét của người lớn. Tác động
giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
+ Có nhiều yếu tố làm cho người lớn vẫn giữ nguyên quan hệ như trước đây

đối với các em : các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế;
cha mẹ và giáo viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; hơn thế nữa, ở các em
vẫn còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, trong dáng dấp, trong hành vi và trong
tính cách. Mặt khác, nhiều người lớn còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập
cho thiếu niên là không hợp lí.

18


×