Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận môn m & a ở việt nam thực trạng và giải pháp cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.75 KB, 12 trang )

M&A Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
M&A (Mergers and Acquisition) là một hoạt động kinh tế đã phát
triển mạnh từ lâu
trên thế giới. Ở Việt Nam, hoạt động này bắt đầu chưa lâu song
ngày càng sôi động và hứa hẹn một sự bùng nổ trong thời gian
tới. Để nhìn rõ cơ hội và thách thức mà M&A mang lại cho nền
kinh tế trong nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng
chúng ta cần phân tích thực tế của hoạt dộng này và tìm ra
cách ứng dụng hoạt động M&A ở Việt Nam một cách hiệu quả
nhất. Một trong những vấn đề lý thuyết mấu chốt cần nắm
vững khi tiến hành hoạt động M&A được đề cập đến là các yếu
tố tạo nên giá trị tăng thêm sau M&A.
I. M&A là gì và những lợi ích của nó
1. M&A là gì?
Hiện nay M&A được gọi phổ biến là “sáp nhập (Mergers) và mua lại
(Acquisitions)” (có người cịn gọi đó là “hợp nhất và thâu tóm”). Sáp
nhập là hình thức trong đó hai hay nhiều cơng ty kết hợp lại thành một
và cho ra đời một pháp nhân mới, một cơng ty mới thay vì hoạt động
và sở hữu riêng lẻ. Xem xét các lĩnh vực thực hiện sáp nhập và mua lại (M&A), có
thể nói ngân hàng là ngành có hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) diễn ra sôi động
nhất. Các vụ sát nhập đình đám trên thị trường thế giới trong thời gian
vừa qua là:
. Đầu tiên phải kể đến hai đại gia ngân hàng, ABN Amro của Hà Lan và Barclays PLC
của Anh. Hai đại gia này đã chính thức sáp nhập với nhau với trị giá hơn 91 tỷ USD. Đây
được coi là thương vụ sáp nhập lớn chưa từng thấy trong lịch sử ngành ngân hàng châu
Âu nói riêng và trong ngành cơng nghiệp tài chính tồn cầu nói chung. Khơng dừng lại ở
đó, ngân hàng ABN Amro cịn tiếp tục sáp nhập với Liên minh Ngân hàng Hoàng gia


Scotland RBS, Stantander của Tây Ban Nha và Fortis của Bỉ - Hà Lan. Thương vụ này có
tổng giá trị 101 tỷ USD. Tiếp đến là Unicredit SPA - một ngân hàng nổi tiếng bậc nhất


của Italia đã mua lại các ngân hàng Societe Generale SA và Capitalia SpA gây xơn xao
dư luận.
Tiếp sau đó tại khối ngành ngân hàng Mỹ, tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng nội địa
của Mỹ là động lực khiến Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD.
Cuộc sáp nhập này đã cho ra đời tập đồn tài chính hùng mạnh nhất thế giới. Theo đó,
Bank of America đã trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất tại Mỹ tính theo lượng tiền
gửi và lượng vốn hóa thị trường và là ngân hàng thành viên thuộc tập đoàn bảo hiểm tiền
gửi Mỹ (FDIC). Qua đây, Bank of America thu tới
Tại Châu Á thương vụ sáp nhập thành công trong ngành ngân hàng Nhật Bản khi
Mitsubishi UFJ Financial group là kết quả của sự sáp nhập giữa hai ngân hàng UFJ
Holding và Mitsubishi Tokyo Financial group. Đại ngân hàng này đã chính thức được
thành lập và đi vào hoạt động vào 01/10/2005. Mitsubishi UFJ Financial group giờ đã trở
thành một trong những tập đồn tài chính hùng mạnh nhất thế giới có số vốn lên tới 1.770
tỷ USD với 40 triệu khách hàng, vượt qua ngân hàng Citigroup của Mỹ về giá trị tài sản.
Các nhà phân tích cho rằng việc sáp nhập này thể hiện sự hồi phục của ngành ngân hàng
Nhật Bản sau thời gian nợ nần chồng chất.
Hiện có 3 loại sáp nhập: ngang, dọc, tổ hợp.
Sáp nhập ngang (horizontal mergers) là sự sáp nhập giữa hai công ty
kinh doanh trong cùng cùng một lĩnh vực, ví dụ giữa hai ngân hàng sáp
nhập với nhau;
Sáp nhập dọc (vertical mergers) là sự sáp nhập giữa hai công ty nằm
trên cùng một chuỗi giá trị, dẫn tới sự mở rộng về phía trước (forward,
ví dụ cơng ty may mặc mua lại chuỗi cửa hàng bán lẻ quần áo) hoặc
phía sau (backward, ví dụ cơng ty sản xuất sữa mua lại cơng ty bao bì,


đóng chai hoặc cơng ty chăn ni bị sữa) của cơng ty sáp nhập trên
chuỗi giá trị đó;
Sáp nhập tổ hợp (conglomerate mergers) bao gồm tất cả các loại sáp
nhập khác.

Ngược lại, mua lại được hiểu là việc một công ty mua lại hoặc
thơn tính một cơng ty khác và không tạo ra một pháp nhân mới. Dù là
giao dịch thân thiện hay khơng (thâu tóm, triệt tiêu sự cạnh tranh lẫn
nhau) thì trong mọi trường hợp, mua lại xảy ra khi công ty mua lại
(bidder) giành được thành công quyền kiểm sốt cơng ty mục tiêu
(target company). Đó có thể là quyền kiểm sốt cổ phiếu của cơng ty
mục tiêu, hoặc dành được việc kinh doanh hoặc tài sản của cơng ty
mục tiêu.
Có 2 cách mua lại:một là mua lại tài sản (Acquisition of Assets)
mua lại toàn bộ hoặc một phần tài sản và/hoặc nợ của công ty mục
tiêu (target company) và hai là mua lại cổ phiếu (Acquisition of
shares)_công ty mục tiêu tiếp tục tồn tại và các tài sản của nó khơng bị
ảnh hưởng. Theo Ðiều 17 Luật Cạnh tranh ngày 3 tháng 12 năm 2004
của Việt Nam: “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh
nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh
nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ
để kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp
bị mua lại”.
Tuy có khác nhau, nhưng điểm chung của cả sáp nhập và mua lại
là tạo ra sự cộng hưởng, tạo ra giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị của


từng bên riêng lẻ (synergy). Đó chính là dấu hiệu cuối cùng của sự
thành công hay thất bại của một thương vụ M&A. Cũng nên lưu ý rằng,
cũng chính vì lợi ích chung đó nên hai thuật ngữ này được sử dụng gắn
kết với nhau và có thể đại diện cho nhau.
Cộng hưởng là động cơ quan trọng và kỳ diệu nhất giải thích cho
mọi thương vụ M&A. Nói chung, lợi ích mang lại từ sự cộng hưởng mà

các cơng ty kỳ vọng sau mỗi thương vụ M&A thường bao gồm: đạt được
hiệu quả dựa vào quy mô, giảm nhân viên và các chi phí, thực hiện đa
dạng hóa và loại trừ rủi ro phi hệ thống, hiện đại hóa công nghệ, tăng
cường khả năng thanh khoản, thị phần, hưởng những lợi ích từ thuế…
Điểm mấu chốt để giải thích mọi lợi ích của sự cộng hưởng như đã
nêu ở trên chính là phân tích giá trị tăng thêm (synergy) từ hoạt động
M&A:
Giả sử cơng ty A đang dự tính mua lại công ty B. Giá trị của công
ty A là VA và giá trị của công ty B là V B . Sự khác nhau giữa giá trị của
công ty sáp nhập (V AB ) và tổng giá trị của 2 cơng ty riêng lẻ chính là
giá trị tăng thêm (synergy) từ hoạt động M&A: Synergy = VAB –
(VA+VB )
Giá trị tăng thêm của một thương vụ M&A có thể được xác định
dựa vào mơ hình chiết khấu dịng tiền (DCF). Các nguồn tiềm năng tạo
ra giá trị tăng thêm có thể chia thành 4 loại cơ bản sau: sự gia tăng thu
nhập, việc giảm các chi phí, các khoản thuế thấp hơn và chi phí vốn
cũng thấp hơn.
+ Sự gia tăng thu nhập (Revenue Enhancement): các khoản thu nhập
gia tăng này có thể nhờ lợi ích marketing, các lợi ích chiến lược và sức
mạnh thị trường.


+ Sự cắt giảm chi phí (Cost reduction): cơng ty sáp nhập có thể có
được các khoản chi
phí thấp hơn, hoạt động có hiệu quả hơn 2 cơng ty riêng lẻ nhờ vào
hiệu quả kinh tế về quy mô (Economies of scale), hiệu quả kinh tế của
kết hợp theo chiều dọc (Economies of Vertical Integration), nguồn lực
bổ sung (Complementary Resources), loại bỏ sự quản lý không hiệu
quả (Elimination of Inefficent Management).
+ Lợi ích thuế (Tax gain): lợi ích thuế tiềm năng của M&A có thể do việc

sử dụng những tổn thất thuế (tax losses) từ những khoản lỗ của hoạt
động sản xuất rịng (cơng ty sáp nhập sẽ trả ít thuế hơn 2 công ty riêng
lẻ), việc sử dụng năng lực vay nợ chưa được sử dụng (khả năng tăng tỷ
số Nợ-Vốn chủ sở hữu sau khi M&A, tạo nên lợi ích thuế tăng thêm và
giá trị tăng thêm).
+ Chi phí vốn (The cost of Capital): có thể giảm đi khi hai cơng ty sáp
nhập vì chi phí của việc phát hành (nợ và vốn chủ sở hữu) sẽ thấp hơn
nhiều khi phát hành số lượng lớn hơn so với phát hành số lượng ít.
II. Tình hình M&A trong các ngân hàng Việt Nam
Ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 254/QÐ-TTg về Ðề án
cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015. Ðây được xem là một
nỗ lực về mặt pháp lý quan trọng nhất cho tới nay trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng, tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém. Theo lộ trình, NHNN
yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ
cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần. Nếu các ngân
hàng không thể tự tái cấu trúc thì NHNN sẽ can thiệp và thậm chí tính đến việc hợp nhất
hoặc sáp nhập. Cuối năm 2015, TCTD phải đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II.


Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở
tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng NHTM và bảo đảm tuân
thủ các quy định của pháp luật, NHNN xem xét áp dụng biện pháp can thiệp, thông qua
mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia tích cực
của các NHTM Nhà nước và khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2011, hoạt động M&A trong ngân hàng đã diễn ra rất sôi động. Với sự tham gia
của một số quỹ đầu tư và các ngân hàng nước ngoài, một số ngân hàng Việt Nam đã thực
hiện thành công việc mua bán cổ phần của mình, giúp tăng nguồn vốn kinh doanh và cải
thiện tình hình quản trị và ứng dụng cơng nghệ.


Bên bán

Bên mua
Mizuho Bank

Vietcombank

Tỷ lệ sở hữu
15%

Quỹ đầu tư quốc gia Singapore
(GIC)

7,73%

Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)

8,03%

VietinBank
Ngân hàng Tokyo Mitsubishi UFJ

20%

Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)

10%

Maybank


20%

Commonwealth Bank of Australia

20%

Tập đồn DOJI

20%

ABBank
Ngân hàng Quốc tế (VIB)
TienPhongBank
Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)
Ngân hàng Bưu điện Liên Việt

Công ty Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện
(VNPost)

VPBank

Tổ chức tài chính quốc tế (IFC)

Ngân hàng Quân Đội (MB Bank)

Quỹ đầu tư Dragon Capital

4,99%

125 triệu USD

64,2 triệu cổ


Bên bán

Bên mua

Tỷ lệ sở hữu
phiếu

Eximbank

Sumitomo Mitsui Banking
Corporation (SMBC)
Quỹ đầu tư Vina Capital

ACB

Quỹ đầu tư Dragon Capital

15%
4,97%
7,13%

Trong hai năm 2012 và 2013, hoạt động M&A ngân hàng thương mại chủ yếu nằm trong
chương trình tái cơ cấu bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo an toàn hệ
thống các TCTD, ổn định thị trường tiền tệ. Có 9 NHTM nhỏ đã được đưa vào chương
trình phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông qua các biện pháp khác nhau như hợp nhất
(SCB, Ficombank, Tinnghiabank), sáp nhập (Habubank vào SHB), và tự tái cơ cấu
(Tienphongbank, Trustbank, Navibank, Westernbank và GP bank).



Ghi chú:
SCB
Ficombank
SHB

Ngân hàng Thương mại
cổ phần Sài Gòn
Ngân hàng Đệ nhất
Ngân hàng thương mại
cổ phần Sài Gòn – Hà Nội

Habubank

Ngân hàng thương mại
cổ phần Nhà Hà Nội

PVcom Bank NH TMCP Đại Chúng
MD Bank

Ngân hàng thương mại
cổ phần phát triển Mê Kông

III. Dự báo về M&A ngân hàng Việt Nam thời gian tới.
a. Nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng Việt Nam thời gian tới.

Kinh tế Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, việc thực thi các hiệp định
tự do hóa thương mại, mở cửa lĩnh vực tài chính đang đến rất gần. Trong bối cảnh


cạnh tranh gay gắt, các NHTM CP nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn trong quản trị
thanh khoản, kinh doanh. Ngành ngân hàng đã đi qua giai đoạn 1 quá trình sàng
lọc, tái cơ cấu nhưng mới chỉ dừng lại ở xử lý những ngân hàng yếu kém nhất
trong hệ thống. Bước sang giai đoạn 2, sẽ có những TCTD mạnh hơn và thơng qua
đó để xử lý các ngân hàng yếu kém, các ngân hàng lớn phải nhận ngân hàng nhỏ


hoặc có những TCTD sẽ do NHNN trực tiếp xử lý. Hoạt động M&A ngân hàng sẽ
được NHNN triển khai quyết liệt trong thời gian tới đây. Chính vì thế, M&A ngân
hàng tại Việt Nam được dự báo sẽ nở rộ trong thời gian tới.
Thị trường Việt Nam ngày càng xuất hiện thêm nhiều ngân hàng mới, khơng
chỉ có các tập đồn tài chính, mà ngay cả các Tập đồn ở những lĩnh vực khác như
dệt may, viễn thông, bảo hiểm, năng lượng… cũng lên kế hoạch thành lập ngân
hàng. Mặt khác, NHNN đã chấp thuận cho phép HSBC và Standard Chartered
thành lập 02 ngân hàng con 100% vốn và có nhiều hồ sơ của ngân hàng nước ngồi
xin thành lập ngân hàng đang chờ được duyệt.
Các NHTM lớn đang sở hữu một phần vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần,
hoặc thơng qua hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng với nhau nhằm tận
dụng thế mạnh của nhau. Các ngân hàng quốc doanh đang tìm cách có cổ phần tại
các NHTM để chuẩn bị cho các cuộc sáp nhập tập đồn (Vietcombank đang có cổ
phần tại các NHTM khác như GiaDinh Bank, Eximbank, VIBBank, OCB…).


Các tập đồn tài chính nước ngồi đang tìm cách trở thành đối tác chiến lược
của các NHTM CP trong nước đang có vị trí ưu thế. Bởi vì việc mua lại một tỷ lệ
cổ phần của Ngân hàng trong nước được thực hiện dễ dàng hơn rất nhiều so với
thủ tục xin thành lập một ngân hàng con 100% vốn ngoại.
Chủ trương của NHNN hạn chế việc thành lập các ngân hàng mới, thay vào
đó tiến hành M&A các ngân hàng trong nước với nhau, các định chế tài chính như
cơng ty bảo hiểm, cơng ty chứng khốn, cơng ty đầu tư tài chính… hình thành tập

đồn tài chính lớn để tránh phá sản, đổ vỡ không mong muốn. Trong tương lai gần,
Nhà nước sẽ cho phép thành lập 01 Tập đồn tài chính ngân hàng đầu tiên có đủ
năng lực cạnh tranh trong khu vực.
Bản thân các NHTM CP có quy mơ nhỏ trên mọi phương diện mong muốn
thơng qua hoạt động M&A để có cơ hội nâng cao năng lực tài chính, tiết giảm chi
phí, nâng cao ứng dụng cơng nghệ ngân hàng, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng
SPDV, tăng tính linh hoạt, năng động, mở rộng thị trường, mạng lưới…
b. Hình thức M&A ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới

- M&A diễn ra giữa các ngân hàng nhỏ
Trong số gần 20 NHTM phải tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng, mới có
khoảng một nửa trong số đó NHTM hồn thành lộ trình. Việc chịu sức ép về tăng
vốn điều lệ, cùng với hoạt động trong điều kiện kinh tế còn nhiều thách thức đặt ra,
các ngân hàng nhỏ dần bộc lộ sự lúng túng trong quản trị điều hành, yếu kém trong
thanh khoản… Để nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, các ngân
hàng nhỏ buộc phải nghĩ đến giải pháp liên kết với nhau nhằm phát huy các giá trị
cộng hưởng sau M&A, với hình thức ban đầu thành lập các liên hiệp ngân hàng
gồm 3-5 ngân hàng nhỏ, vẫn duy trì tư cách pháp nhân riêng của từng ngân hàng
và chỉ thành lập Hội đồng tín dụng thống nhất, chính sách tín dụng thống nhất,
đường lối chiến lược thống nhất, sáp nhập các bộ phận dịch vụ, hệ thống thanh
tốn thẻ, marketing, truyền thơng…; Hình thức tiếp theo, sau khi đạt được mức độ
hòa hợp nhất định, các ngân hàng nhỏ sẽ tiến tới sáp nhập hoàn tồn thành một
khối thống nhất để hình thành một pháp nhân mới.
Do các ngân hàng nhỏ cơ sở kỹ thuật như nhau và khơng có điểm nổi trội nên
phải tốn thời gian và chi phí cho hoạt động nghiên cứu, phát triển và tìm chiến lược
kinh doanh mới, quản lý mới cho ngân hàng sau sáp nhập.
- Ngân hàng lớn tiến hành sáp nhập, mua lại ngân hàng nhỏ
Đây là xu thế nhiều khả năng xảy ra nhất trong thời gian sắp tới khi các ngân
hàng nhỏ không đáp ứng được các điều kiện trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập,
các ngân hàng lớn âm thầm tiến hành chiến lược mở rộng thị trường, thị phần.

Hoạt động M&A sẽ diễn ra như sau: Giai đoạn đầu, các ngân hàng lớn sẽ
tham gia góp vốn, liên doanh, liên kết, trở thành cổ đông chiến lược với các ngân


hàng nhỏ hơn; Giai đoạn tiếp theo, các ngân hàng lớn sẽ tiến hành sáp nhập, mua
lại các ngân hàng nhỏ.
Các ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ có những dịng sản phẩm khác nhau,
phân khúc thị trường khơng đồng nhất, khác nhau về văn hóa… nên giai đoạn đầu
sau M&A sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tạo nên sự hòa hợp để đạt được những
giá trị như mong đợi.
- M&A giữa các ngân hàng cùng quy mô (trung bình, lớn) cùng chiến lược
phát triển
M&A giữa các ngân hàng cùng quy mô sẽ diễn ra khi thị trường tài chính
ngân hàng phát triển đạt mức tương đối ổn định, các nguồn lực được khai thác
tương đối toàn diện. Hoạt động này sẽ đem đến kết quả hình thành nên những ngân
hàng có quy mơ lớn, tăng khả năng cạnh tranh với các tập đồn tài chính quốc gia.
M&A giữa các ngân hàng cùng quy mơ lớn, trung bình, cùng chiến lược phát
triển sẽ được thực hiện thông qua các hình thức: Giữ cổ phiếu chéo với nhau thơng
qua góp vốn liên doanh, đầu tư mua cổ phần và hợp tác liên kết trong nhiều lĩnh
vực như tín dụng, sản phẩm thẻ, công nghệ thông tin…; hoặc tiến hành sáp nhập
với nhau để hình thành các ngân hàng mạnh hơn.
Hình thức M&A này có khả năng thực hiện khi nền tài chính phát triển khá
cao và ổn định. Khi các nguồn lực được khai thác triệt để, thị trường đã khai thác
hiệu quả và đạt đến mức bão hòa, lúc đó cần có sự sáp nhập của các ngân hàng để
giảm chi phí hoặc tăng khả năng mở rộng thị trường sang những thị trường mới
hơn để khai thác. Tuy nhiên, việc đàm phán cho hoạt động sáp nhập ngân hàng
giữa các nhà quản trị và điều hành sẽ khó khăn hơn do ngân hàng nào cũng có thế
mạnh riêng có và khơng muốn đánh mất vị trí hiện có.
- Sáp nhập xuyên biên giữa các tổ chức tài chính nước ngoài với các ngân
hàng trong nước

Thời gian vừa qua, đã có một số ngân hàng nước ngồi mua cổ phần của một
số NHTM CP trong nước để trở thành cổ đông chiến lược. Tại các nước trong khu
vực, hoạt động này đều đã bước vào giai đoạn thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
thơng qua hình thức các ngân hàng nước ngoài mua phần lớn cổ phần của các ngân
hàng trong nước, trong đó Hàn Quốc, Thái Lan, Inđơnêxia đã cho phép nhà đầu tư
nước ngồi được phép nắm giữ 100% cổ phiếu của các ngân hàng trong nước, tại
Philippines, tỷ lệ này là 50%, Malaysia tỷ lệ này là 30%. Qua đây ghi nhận sự ảnh
hưởng tích cực của các ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên ngân hàng trong nước vẫn
giữ vai trò hạt nhân đối với sự phát triển một nền tài chính ổn định vì các ngân
hàng này thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, cịn các ngân hàng
nước ngồi tập trung mục đích duy nhất vì lợi nhuận.
Trong bối cảnh tự do hóa tài chính theo lộ trình của WTO mà Việt Nam đã
gia nhập, xu hướng M&A xuyên biên sẽ là xu hướng tất yếu vì các ngân hàng nước


ngoài ưa chuộng việc mua lại các ngân hàng trong nước thay cho việc thành lập
ngân hàng mới nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian gia nhập thị trường khi luật
pháp Việt Nam cho phép.
Hình thức M&A xuyên biên này được thực hiện theo các giai đoạn: Ngân
hàng nước ngồi trở thành cổ đơng chiến lược của các ngân hàng trong nước theo
tỷ lệ tối đa cho phép; Ngân hàng nước ngoài tiến hành mua đứt các ngân hàng
trong nước khi lộ trình tự do hóa được mở ra hồn tồn.
Hình thức M&A xun biên này sẽ có trở ngại lớn nhất đó là sự khác biệt về
văn hóa làm việc đối với chính nhân viên và khách hàng truyền thống. Mặt khác,
sự thay đổi chính sách vĩ mơ của Chính phủ, các chính sách tài chính tiền tệ nói
chung cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động này.
- Sáp nhập ngân hàng để thành lập tập đoàn tài chính ngân hàng
Các NHTM khơng chỉ cạnh tranh với nhau, mà cịn cạnh tranh với các định
chế tài chính khác như cơng ty tài chính, cơng ty bảo hiểm, cơng ty chứng khốn.
Việc sáp nhập ngân hàng để hình thành nên tập đồn tài chính ngân hàng sẽ góp

phần đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị mới cho khách hàng, khai thác
được lợi thế tổng thể… từ đó tạo ra được những lợi thế cạnh tranh mới.
Đối với ngân hàng quốc doanh: Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hóa hình thành
ngân hàng mẹ là trung tâm của tập đồn, lựa chọn các cổ đơng chiến lược cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TCTD có tiềm lực mạnh về tài chính,
cơng nghệ, trình độ quản lý, uy tín quốc tế… mua cổ phiếu và tham gia quản lý
điều hành ngân hàng; Chuyển đổi các cơng ty trực thuộc (chứng khốn, bảo hiểm,
cho th tài chính, mua bán nợ…) sang mơ hình cơng ty cổ phần và thành lập tập
đồn tài chính ngân hàng.
Đối với các ngân hàng tư nhân: Tiến hành M&A với các cơng ty tài chính,
cơng ty bảo hiểm, cơng ty chứng khốn, cơng ty cho th tài chính và các ngân
hàng khác để thành lập tập đồn tài chính ngân hàng. Sáp nhập để hình thành tập
đồn tài chính ngân hàng đối mặt với rủi ro gia tăng về quy mơ, khơng đạt được
tính kinh tế, rủi ro gia nhập thị trường mới có thể làm tăng chi phí quản lý. Mặt
khác, việc sáp nhập này gặp trở ngại vì có q nhiều cơng ty, nhiều sản phẩm,
phạm vi hoạt động rộng khắp, văn hóa làm việc khác nhau, lịch sử phát triển khác
nhau… nên sẽ rất mất nhiều thời gian để tiến hành M&A.
- NHTM CP trong nước mua lại các cơng ty tài chính
Các NHTM CP mua lại các cơng ty tài chính của các Tập đồn, Tổng Công
ty… nhằm thực hiện chiến lược phát triển kênh sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán
lẻ, dịch vụ tài chính cá nhân với chi phí rẻ do tận dụng được mạng lưới, nhân sự…
sẵn có của các cơng ty tài chính.




×