Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nợ nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 72 trang )

1


MỤC LỤC


trang


PHẨN MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
2.

ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
4.

KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI 4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI


VIỆT NAM 5
1.1.

TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI 5


1.1.1.

Định nghĩa về nợ nước ngoài 5
1.1.2.

Phân loại nợ nước
ngoài
6
1.1.3.

Phân loại các nước theo mức độ nợ nước
ngoài
7
1.1.4.

Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước
ngoài
8
1.1.5.

Vai trò của nợ nước ngoài 9
1.2.

KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI 10
1.2.1.

Định nghĩa về khủng hoảng
nợ
10
1.2.2.


Việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 11
1.3.

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 14
1.3.1.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ nước ngoài 14
1.3.2.

Bài học kinh nghiệm cho việc Việt Nam trong việc vay và quản lý nợ
quốc
tế
16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 18

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI


VIỆT NAM 19
2.1.

TÌNH HÌNH VAY NỢ VAY NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 19
2.1.1.

Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt
Nam
19
2.1.2.


Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 23
2.2.

TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 26
2.2.1.

Cơ chế quản lý nợ 26
2.2.2.

Đánh giá về tình hình nợ nước ngoài tại Việt Nam 27
2.2.3.

Hiệu quả sử dụng nợ
vay
29
2.3.

ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 31
2.3.1.

Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 31
2.3.2.

Một số tồn tại trong quản lý nợ nước ngoài 32
2.3.3.

Nguyên nhân của những tồn tại 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 37


CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT VÀ
QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 38
3.1.

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ VAY NƯỚC
NGOÀI 38
2


3.1.1.

Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững 38
3.1.2.

Gia tăng dự trữ ngoại hối 38
3.1.3.

Gia tăng dự trữ ngoại hối 39
3.2.

CÁC GIẢI PHÁP LÀM GIẢM CHI PHÍ VAY NỢ 40
3.2.1.

Chính sách tỷ giá hối đoái 40
3.2.2.

Ổn định lạm phát 40
3.2.3.

Thay đổi hình ảnh Việt Nam trên thị trường thế giới 41

3.3.

CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG VỐN VAY HIỆU QUẢ 43
3.3.1.

Kiểm soát nợ nước ngoài 43
3.3.2.

Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 44
3.4.

CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NỢ VAY NƯỚC
NGOÀI
45
3.5.

CÁC BIỆN PHÁP HỖ
TRỢ
46
3.5.1.

Ổn định môi trường thể
chế
46
3.5.2.

Cải thiện môi trường đầu tư 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 47
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49

PHỤ LỤC
1



Bản Tóm Tắt Đề Tài


1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm qua nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đó
không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên ngoài. Để đạt
được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn hạn chế, các
nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác
nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay
nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và
vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài
đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát triển và chuyển sang phát triển
bền vững.
Nợ nước ngoài phải được sử dụng một cách có hiệu quả để đáp ứng các nhu cầu
đầu tư, đồng thời phải thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn trả nợ,
đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, cũng có không ít quốc gia không
những không cải thiện được một cách đáng kể tình hình kinh tế mà còn lâm vào tình
trạng nợ nần, khủng hoảng nợ và kinh tế suy thoái. Nguyên nhân của những thất bại
trong việc vay nợ nước ngoài cũng có rất nhiều, trong đó phải kể đến buông lỏng quản
lý nợ nước ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết
yếu trong chính sách tài chính quốc gia.
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1993 khi
nước ta chính thức thiết lập lại quan hệ hợp tác đa phương với các tổ chức tín dụng lớn

trên thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) và Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB). Song, cũng từ đó các cam kết hỗ trợ vốn ODA của các nước
công nghiệp phát triển và các tổ chức tín dụng quốc tế cho nước ta ngày càng tăng dần
về số lượng vay, số khoản vay, tính đa dạng của hình thức vay và trả nợ, vì thế việc
theo dõi và quản lý nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng bức thiết.
Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng
cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam và quá trình toàn cầu hoá. Năm 2006, nước
ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu một cột mốc
quan trọng vào quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của nước ta. Tăng cường hội nhập
với nền kinh tế thị trường toàn cầu, đặc biệt là các cam kết mở cửa dịch vụ tài chính
của Chính phủ, sẽ đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam khả năng tiếp cận với các
nguồn tín dụng quốc tế.
Đối với hệ thống quản lý nợ nước ngoài, điều này cũng có ý nghĩa việc ứng dụng
các phương pháp, kỹ thuật và kỹ năng phân tích nợ trong nền kinh tế thị trường để cập
nhật, giám sát và kiểm tra được việc vay và trả nợ nước ngoài trở nên hết sức bức
thiết. Đặc biệt do kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị
trường của nước ta chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong
quá trình hoàn thiện, nên nhu cầu nghiên cứu và xây dựng năng lực về mặt này càng
lớn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các
chuyên gia kinh tế, năm nay thế giới sẽ phải gánh lấy những hậu quả to lớn do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Việt Nam là một thành phần trong
2


“guồng máy” kinh tế toàn cầu, do đó sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cuộc khủng hoảng
này gây ra.
Khủng hoảng là một đề tài rộng lớn và có nhiều tác động đến nhiều nước, không
chỉ ở mặt kinh tế mà ở các mặt xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục… Có thể nói khủng
hoảng kinh tế là một mãng vấn đề được cấu thành bởi nhiều khía cạnh khác nhau. Và

khủng hoảng nợ là một trong nhiều bộ phần cấu thành nên khủng hoảng kinh tế.
Để đảm bảo không rơi vào khủng hoảng nợ như các Mỹ Latinh trong thập niên
những năm 80, đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp quản lý hiệu quả các nguồn
vốn vay nước ngoài. Chúng tôi nhận thấy rằng nợ nước ngoài có thể xem như là một
“con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát
triển kinh tế, nhưng nếu các nước sử dụng không hợp lý “nguồn vốn ngoại sinh” đó sẽ
gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế bền vững.
Do đó, một vấn đề bức thiết đặt ra lúc này là đòi hỏi Chính phủ phải có những
“bước đi” hợp lý, đặc biệt trong việc vay, quản lý và trả nợ nước ngoài để tránh “bước
nhầm những vết xe đã đổ” của các nước đi trước. Với tính cấp thiết của vấn đề nên
chúng tôi đã chọn đề tài “Nợ nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm
công trình nghiên cứu khoa học sinh viên của chính mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song chúng tôi cũng
không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được được sự góp
ý chân thành của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.


2.

ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hệ thống quản lý nợ
hiện hành và phân tích thực trạng quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam thông qua các chỉ
số kinh tế và chỉ số nợ nước ngoài trên giác độ vĩ mô.
Mục đích nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài tập trung vào công
tác quản lý nợ nước ngoài, các biến số và các chính sách có ảnh hưởng đến tính bền
vững của nợ nước ngoài giai đoạn 1995-2008.


3.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Thu nhập thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau.

Thống kê, tổng hợp những thông tin thu thập được.

Phân tích những thông tin thu thập được. Từ đó đưa ra những kết luận cụ thể
cho từng vấn đề ở mỗi thời kỳ.

Trong đó, phương pháp chính là thống kê: mô tả và phân
tích phù hợp mục tiêu nghiên cứu.


4.

KẾT CẤU CỦA ĐỀTÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.

Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài ở
Việt Nam.
Đồng thời sau mỗi chương chúng tôi đều rút ra kết luận để giúp cho người đọc có
thể nắm được những vấn đề chung nhất ở mỗi chương.

3


PHẦN MỞ ĐẦU


1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm qua nước ta liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đó
không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh, mà còn có sự tác động của yếu tố bên ngoài. Để đạt
được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện tiết kiệm trong nước còn hạn chế, các
nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều cách khác
nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến. Vay nợ nước ngoài bao gồm vay
nợ dưới hình thức vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có tính chất ưu đãi và
vay thương mại theo các điều kiện thị trường. Chính nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài
đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng chậm phát triển và chuyển sang phát triển
bền vững.
Nợ nước ngoài phải được sử dụng một cách có hiệu quả để đáp ứng các nhu cầu
đầu tư, đồng thời phải thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn trả nợ,
đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, cũng có không ít quốc gia không
những không cải thiện được một cách đáng kể tình hình kinh tế mà còn lâm vào tình
trạng nợ nần, khủng hoảng nợ và kinh tế suy thoái. Nguyên nhân của những thất bại
trong việc vay nợ nước ngoài cũng có rất nhiều, trong đó phải kể đến buông lỏng quản
lý nợ nước ngoài. Chính vì vậy chính sách quản lý nợ nước ngoài là một bộ phận thiết
yếu trong chính sách tài chính quốc gia.
Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1993 khi
nước ta chính thức thiết lập lại quan hệ hợp tác đa phương với các tổ chức tín dụng lớn
trên thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) và Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB). Song, cũng từ đó các cam kết hỗ trợ vốn ODA của các nước
công nghiệp phát triển và các tổ chức tín dụng quốc tế cho nước ta ngày càng tăng dần
về số lượng vay, số khoản vay, tính đa dạng của hình thức vay và trả nợ, vì thế việc
theo dõi và quản lý nợ nước ngoài cũng trở nên ngày càng bức thiết.

Tính cấp thiết của việc đổi mới quản lý nợ nước ngoài cũng xuất phát từ việc tăng
cường hội nhập của nền kinh tế Việt Nam và quá trình toàn cầu hoá. Năm 2006, nước
ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu một cột mốc
quan trọng vào quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng của nước ta. Tăng cường hội nhập
với nền kinh tế thị trường toàn cầu, đặc biệt là các cam kết mở cửa dịch vụ tài chính
của Chính phủ, sẽ đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam khả năng tiếp cận với các
nguồn tín dụng quốc tế.
Đối với hệ thống quản lý nợ nước ngoài, điều này cũng có ý nghĩa việc ứng dụng
các phương pháp, kỹ thuật và kỹ năng phân tích nợ trong nền kinh tế thị trường để cập
nhật, giám sát và kiểm tra được việc vay và trả nợ nước ngoài trở nên hết sức bức
thiết. Đặc biệt do kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị
trường của nước ta chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong
quá trình hoàn thiện, nên nhu cầu nghiên cứu và xây dựng năng lực về mặt này càng
lớn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các
chuyên gia kinh tế, năm nay thế giới sẽ phải gánh lấy những hậu quả to lớn do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Việt Nam là một thành phần trong
4


“guồng máy” kinh tế toàn cầu, do đó sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cuộc khủng hoảng
này gây ra.
Khủng hoảng là một đề tài rộng lớn và có nhiều tác động đến nhiều nước, không
chỉ ở mặt kinh tế mà ở các mặt xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục… Có thể nói khủng
hoảng kinh tế là một mãng vấn đề được cấu thành bởi nhiều khía cạnh khác nhau. Và
khủng hoảng nợ là một trong nhiều bộ phần cấu thành nên khủng hoảng kinh tế.
Để đảm bảo không rơi vào khủng hoảng nợ như các Mỹ Latinh trong thập niên
những năm 80, đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp quản lý hiệu quả các nguồn
vốn vay nước ngoài. Chúng tôi nhận thấy rằng nợ nước ngoài có thể xem như là một
“con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát

triển kinh tế, nhưng nếu các nước sử dụng không hợp lý “nguồn vốn ngoại sinh” đó sẽ
gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế bền vững.
Do đó, một vấn đề bức thiết đặt ra lúc này là đòi hỏi Chính phủ phải có những
“bước đi” hợp lý, đặc biệt trong việc vay, quản lý và trả nợ nước ngoài để tránh “bước
nhầm những vết xe đã đổ” của các nước đi trước. Với tính cấp thiết của vấn đề nên
chúng tôi đã chọn đề tài “Nợ nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm
công trình nghiên cứu khoa học sinh viên của chính mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song chúng tôi cũng
không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được được sự góp
ý chân thành của thầy cô và bạn đọc nhằm giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.


2.

ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hệ thống quản lý nợ
hiện hành và phân tích thực trạng quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam thông qua các chỉ
số kinh tế và chỉ số nợ nước ngoài trên giác độ vĩ mô.
Mục đích nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài tập trung vào công
tác quản lý nợ nước ngoài, các biến số và các chính sách có ảnh hưởng đến tính bền
vững của nợ nước ngoài giai đoạn 1995-2008.


3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Thu nhập thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau.


Thống kê, tổng hợp những thông tin thu thập được.

Phân tích những thông tin thu thập được. Từ đó đưa ra những kết luận cụ thể
cho từng vấn đề ở mỗi thời kỳ.

Trong đó, phương pháp chính là thống kê: mô tả và phân tích phù hợp
mục tiêu nghiên cứu.


4.

KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.

Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài ở
Việt Nam.
Đồng thời sau mỗi chương chúng tôi đều rút ra kết luận để giúp cho người đọc có
thể nắm được những vấn đề chung nhất ở mỗi chương.
5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIỆC QUẢN


NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT
NAM


1.1.

TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.1.1.

Định nghĩa về nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau. Do
đó để hiểu được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái
niệm cơ bản.

Nợ là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức hoặc
một cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các tài
sản tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay đồng ý cho người đi
vay một lượng tài sản nhất định.

Nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi
lại được và bị xoá sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.
Với hai khái niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước
ngoài? Vậy thì một câu hỏi đặt ra lúc này là tại sao chúng ta phải tìm hiểu khía cạnh
nợ xấu trong nợ nước ngoài. Bởi lẽ chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu nợ nước ngoài
dưới giác độ “nợ không an toàn”.
Lịch sử kinh tế thế giới là một minh chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm kịch nợ
không an toàn, đó là các cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế giới.
Hơn nữa, trong những năm vừa qua thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong
lĩnh vực kinh tế, năm 2009 là một năm đầy những khó khăn và thử thách cho kinh tế
thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó khủng hoảng nợ
là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế.
Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo Nghị

định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ) thì: “Nợ nước
ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ
dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt
Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ
nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả
các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không
bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).
Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm
công tác liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì khái niệm nợ nước ngoài được
hiểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công
nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh
toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương lai, do đối tương cư trú tại một
nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm này, khái niệm nợ nước ngoài
không tách rời khái niệm đối tượng cư trú.
Như vậy xét về bản chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ
nước ngoài của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước ngoài của quốc
tế rõ ràng hơn. Khái niệm nợ nước ngoài của quốc tế về cơ bản mang ý nghĩa thống kê
và nhất quán với Hệ thống thống kê tài khoản quốc gia (SNA). Để đảm bảo tính nhất
quán trong cách phân loại nợ nước ngoài, trong phần dưới đây chúng tôi sử dụng phần
định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài.
6


1.1.2.

Phân loại nợ nước ngoài
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công tác theo
dõi, đánh giá và quản lý nợ có hiệu quả.

Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh

và nợ tư nhân.
Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm
nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định là
các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp
đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ
đó.
Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực
công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do
khu vực tư nhân tự vay, tự trả.

Phân loại theo thời hạn vay: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian
đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối
tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả
được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn
trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột ngột có
thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã
gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản
thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả
năng tác động lớn đến nền tài chính quốc gia.

Phân loại theo loại hình vay: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay
thương mại
– Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

Theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), hỗ trợ
phát triển chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ)
hoặc đa phương (từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá
trị chuyển khoản là cho không.
Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức. Vay hỗ trợ phát triển chính
thức là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời
gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay
thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20
năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận
dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính
ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ
7


phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả
tăng lên đáng kể.
Vay thương mại
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả
về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính
quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại
thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ
phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào
khác.

Phân loại nợ theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa
phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa
phương như OPEC
1

và liên chính phủ. Trong khi đó, nợ song phương đến từ Chính
phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD
2
và các nước khác hoặc đến từ một
tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ
nhân đạo bằng hiện vật
1.1.3.

Phân loại các nước theo mức độ nợ nước ngoài
Nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
nghèo phải vay của nước ngoài để có tiền trang trải cho đầu tư phát triển đất nước và
một phần để tiêu dùng, ngoài ra còn một số trường hợp đặc biệt, như phải chi dùng cho
chiến tranh.
Các khoản nợ thường từ việc vay vốn từ bên ngoài, từ cán cân thương mại quốc
gia (trị giá xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ < trị giá nhập khẩu của hàng hoá và dịch
vụ). Theo quy luật thị trường, khi vay nợ thì phải có nghĩa vụ trả nợ, gồm nợ gốc và lãi
suất của khoản nợ gốc đó. Nếu không trả được nợ, sẽ đưa đất nước đến vỡ nợ và chẳng
có nước nào hoặc các tổ chức quốc tế thích tiếp tục cho vay, tiếp tục phát triển quan hệ
buôn bán, đầu tư vào các nước có tỷ lệ nợ cao (ngoài trừ trường hợp chính trị, hoặc sự
ràng buộc của các hiệp định song phương, đa phương đã ký kết trước đây).
Để đánh giá mức độ nợ của các quốc gia, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra một
số tiêu chuẩn để đánh giá nợ nước ngoài của các quốc gia đó:
Căn cứ vào GNI
3
bình quân đầu người, chia các nước ra thành một số nhóm:
Các nước có thu nhập thấp (dưới 761 USD/năm), các nước có thu nhập trung bình thấp
(từ 761 đến 3030 USD/năm), các nước có thu nhập trung bình cao (từ 3031 đến 9360
USD/năm), các nước có thu nhập cao (trên 9360 USD/năm). Các nước có thu nhập cao
thì khả năng trả nợ cao, hoặc không là nước đi vay mà còn là nước cho vay.
Căn cứ vào khả năng thanh toán, thì chia ra: Các nước có khả năng thanh toán

là đảm bảo việc trả nợ gốc khi đến hạn và trả nợ lãi đều đặn; các nước không có khả
năng thanh toán là các nước không trả được nợ gốc khi đến hạn, do đó phải thương
lượng lại cơ cấu nợ, tiến độ trả nợ và kèm theo một ân hạn trong thời gian đó. Thậm
chí có nhũng nước không có khả năng trả nợ, dẫn đến vỡ nợ và các nước chủ nợ không
có cách nào khác ngoài việc xoá nợ, như một số nước châu Phi đã được nhóm nước
G8
4
phải xoá nợ tới trên 30 tỷ USD.

1

Tổ chức các Quốc gia Xuất khẩu Dầu mỏ - Organization of Petroleum Exporting Countries.
2

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization for Economic Co-oporation and Development.
3

Tổng thu nhập quốc dân – Gross national income.
4

Nhóm tám nước, gồm: Hoa Kỳ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Italia, Canada và Nga.
8


Bảng 1.1: Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia (%)

Phân loại các
nước
Nợ/GNI
Nợ/Xuất


khẩu
(XK)

Chi phi
trả

nợ/XK

Chi phí trả
nợ/GNI
Lãi/XK
Nợ quá nhiều >50 >275 >30 >4 >20
Nợ vừa phải 30 - 50 165 - 275 18 - 30 4 12 - 20
Nợ ít <30 <165 <18 <4 <12
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Việc phân loại theo mức độ nợ này có chủ ý chỉ ra rằng các nước nếu rơi vào
các
nước nợ quá nhiều thì khả năng trả nợ là rất khó khăn, thậm chí trong đó các
nước
không có khả năng trả nợ. Liên Hợp Quốc đã lập danh sách các nước nghèo, nợ
nần
quá nhiều (HIPCs) trên toàn thế giới, bao gồm 24 nước, hầu hết ở châu Phi và một
số
nước ở khu vực Mỹ Latinh. Với không ít nước thuộc nhóm nợ vừa phải, nhưng
cũng
không có khả năng thanh toán, thì các nhà tài chính và ngân hàng của các nước
này
phải thay mặt Chính phủ để đi thương lượng nhằm kéo dài thời gian trả nợ, có thể
xin


giảm bớt lãi suất…
1.1.4.

Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài
Khác với nợ trong nước của các pháp nhân và thể nhân, nợ nước ngoài của Chính
phủ nói riêng hay nợ quốc gia nói chung luôn nhận được sự quan tâm, chú ý không chỉ
là những cơ quan, cá nhân trong nước mà còn có cả các cơ quan, tổ chức nước ngoài,
bởi lẽ nợ nước ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến nền tài chính quốc gia. Hơn nữa đây
là một trong nhiều chỉ tiêu được các vị lãnh đạo đặc biệt quan tâm trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới có nhiều biến động như hiện nay, do tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu.
Các chỉ số đánh giá nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ thống nhằm xác
định
mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an nình tài chính quốc gia. Cũng
cần

lưu ý là các nhóm chỉ tiêu đánh giá về nợ nước ngoài, trong đó nợ nước ngoài của
Chính phủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh hầu như
không đáng kể.
1.1.4.1.

Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài
Để đánh giá mức độ nợ của nước ngoài, các chỉ tiêu thường được các tổ chức
quốc tế thường dùng là:

Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài
Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ
nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu

xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả
nợ nước ngoài. Những khó khăn khi sử dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ
biến động từ năm này sang năm khác, ngoài ra cũng có những phương án khác để
nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất
khẩu.

Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia
Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc dân
được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài.
Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử
9


dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng
nợ có thể không được đánh giá đúng mức.

Tỷ lệ trả nợ
Tổng nợ phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ
nợ

(nợ gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng,
phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ của quốc gia đi vay.

Tỷ lệ trả lãi
Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ
lãi

hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải thanh
toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này

được trích từ thu nhập xuất khẩu. Quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và tương
lai họ sẽ trích thu nhập từ xuất khẩu càng nhiều, hạn chế khối lượng ngoại tệ dành cho
nhập khẩu. Đây là chỉ tiêu tốt nhất để đánh giá nợ vì không đề cập đến gánh nặng nợ
mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng vốn vay có
cao hơn chi phí lãi vay hay không.
1.1.4.2.

Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ.
Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ
song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:
Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong
thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn.
Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng
nhẹ.

Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích
hỗ

trợ, ít mưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phuơng trong tổng nợ phản
ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt.
1.1.5.

Vai trò của nợ nước ngoài
1.1.5.1.

Nợ nước ngoài đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư
Để thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn đầu tư của các
nước đang phát triển rất lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của quốc gia. Vay nước ngoài
là nguồn bổ sung phổ biến mà các nước đang “thiếu vốn” thường hay sử dụng. Nợ

nước ngoài cũng có thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế bằng việc đầu tư vào các
ngành mũi nhọn, tạo đà cho nền kinh tế phát triển.
Nguồn vốn vay nước ngoài là nguồn lực bổ sung để phát triển kinh tế khi mà sản
xuất trong nước chỉ đủ duy trì ở mức tiêu dùng thấp. Với việc đi vay nước ngoài, một
quốc gia có cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn tại thời điểm hiện tại mà không
giảm tiêu dùng trong nước. Như vậy, đối với các quốc gia đang phát triển, việc sử
dụng nguồn vốn vay nước ngoài về bản chất là vấn đề cân đối giữa tiêu dùng trong
hiện tại với tiêu dùng trong tương lai. Việc vay nợ nước ngoài chỉ có thể có hiệu lực
nếu như bản thân nó đảm bảo không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiêu dùng của thế hệ
tương lai.
1.1.5.2.

Nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao năng
lực quản lý
Bên cạnh việc dùng các nguồn lực tự có để nhập khẩu các máy móc, thiết bị kèm
theo chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước ngoài góp phần bổ
sung thêm nguồn vốn để nhập các máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến cùng
10


với kỹ năng quản lý nước ngoài. Các dự án đã góp phần hiện đại hoá nhiều ngành, lĩnh
vực, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển theo, tạo ra một lực lượng lao động
mới, lao động kỹ thuật cao và góp phần thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế. Cùng với
các dự án đầu tư là việc chuyển giao kỹ năng quản lý của các chuyên giá nước ngoài.
1.1.5.3.

Nợ nước ngoài ổn định tiêu dùng trong nước
Khi có những cơn sốc đột ngột giáng vào nền kinh tế, sản lượng bị thiếu hụt nặng
nề và tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn, những đợt thiên tai
liên tiếp dẫn đến ngành nông nghiệp bị mất mùa lớn, khủng hoảng tài chính làm ảnh

hưởng đến nền kinh tế của khu vực. Trong những trường hợp như vậy, bên cạnh các
khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ nước ngoài khẩn cấp đóng vai trò là biện
pháp ổn định tiêu dùng trong nước trong ngắn hạn, trong khi nền kinh tế được hồi
phục.
1.1.5.4.

Vay nợ nước ngoài bù đáp cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do điều kiện bất lợi tạm thời trong
thương mại quốc tế. Chẳng hạn khi giá hàng xuất khẩu các sản phẩm của một nước bị
giảm sút mạnh so với giá hàng nhập khẩu, nước đó cũng có thể sủ dụng biện pháp vay
nợ nước ngoài để duy trì tiêu dùng trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giải pháp này thường có
rủi ro cao, vì không có gì chắc chắn rằng các nước đi vay sẽ có thu nhập khá hơn khi
đến hạn phải trả nợ. Thêm vào đó, các khoản vay nợ để bù đắp cán cân thương mại
thường là ngắn hạn.
Các nước đang phát triển cũng sử dụng hình thức đi vay tín dụng thương mại ngắn
hạn để tham gia vào thương mại quốc tế bằng nguồn ngoại tệ ít ỏi của mình. Bằng
cách nhận tín dụng thương mại của đối tác, nước đi vay sẽ tránh được việc phải huy
động nguồn ngoại tệ dự trữ của mình để thanh toán cho các khoản nhập khẩu hàng
hoá, các chi phí xuất khẩu hoặc chi phí vận tải. Song, tín dụng thương mại ngắn hạn
thường có lãi suất cao tương ứng mà nước đi vay phải gánh chịu.
1.2.

KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI
1.2.1.

Định nghĩa về khủng hoảng nợ
Trong những năm qua, trên các bản tin cũng như các diễn đàn kinh tế, chúng ta
thường hay được nghe nhiều về cụm từ khủng hoảng tài chính, bởi lẽ khủng hoảng tài
chính là nguyên nhân chủ yếu gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, từ việc phá
sản của các ngân hàng lớn, nổi tiếng trên thế giới đến dự sụp đổ của các tổ chức tài

chính, các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, khủng hoảng nợ cũng tác động không nhỏ đến
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ảnh hưởng rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng nợ là nợ dưới chuẩn của các ngân
hàng và các tổ chức tài chính, chịu ảnh hưởng do tác động việc “đóng băng” thị trường
bất động sản. Theo Nghiên cứu sinh Hồ Quốc Tuấn, Đại học Manchester – Anh quốc,
thì các nước cần đặc biệt chú ý đến vần đề “bong bong ngân sách” trong cuộc khủng
hoảng kinh tế hiện nay. Bởi lẽ, các nước có thể dùng Ngân sách Nhà nước để kích
thích đầu tư, kích thích tiêu dùng giúp cho nước mình nhanh vượt qua khủng hoảng,
nhưng phải xem xét tính khả thi của các dự án đầu tư, không nên dàn trải quá nhiều mà
chỉ nên tập trung vào các dự án trọng điểm, góp phần thúc đẩy các vùng và khu vực
lân cận phát triển. Tính hiệu quả của các dự án cần đảm bảo ở yếu tố phục hồi kinh tế
nhanh, tránh để các nước sau khi vượt qua được cuộc khủng hoảng này, lại rơi vào
cuộc khủng hoảng khác, nghiêm trọng và “tàn phá” hơn nhiều.
11


Vậy khủng hoảng nợ là gì? Khủng hoảng nợ là tình trạng một quốc gia
phải đề nghị thương thảo lại về các thoả thuận vay nợ, hoãn trả lãi và vốn gốc, phải
nhận một khoản tài trợ chính thức từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Một nghiên cứu gần đây của IMF đã định nghĩa một quốc gia được xem là lâm
vào khủng hoảng nợ khi nó bị Standard & Poor
5
xếp vào hạng “không thể chi trả”
hoặc nhận được một khoản cho vay lớn, vượt quá 100% hạn mức ấn định trước từ
IMF. Như vậy, định nghĩa này bao gồm những trường hợp “gần khủng hoảng” tức là
không có khả năng chi trả nhưng nhờ IMF vẫn trả được nợ.
1.2.2.

Việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam
Việc quản lý nợ nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến

động như hiện nay là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm, chú ý. Việc quản lý không chỉ
dừng lại ở việc sử dùng, giám sát yếu tố nợ nước ngoài sao cho hợp lý, mà còn phải
dựa trên khiá cạnh đảm bảo tính ổn định của yếu tố nợ nước ngoài. Như phần trên
chúng tôi đã có trình bày, quản lý nợ để đảm bảo không rơi vào một cuộc khủng hoảng
nợ mới, trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng ban đầu.
1.2.2.1.

Khái niệm về quản lý nợ nước ngoài
Việc quản lý nợ nước ngoài theo cách hiểu chung nhất của Việt Nam là “việc
quản lý nợ nước ngoài hàm chứa trong nó hệ thống điều hành vĩ mô sao cho vốn nước
ngoài được sử dụng có hiệu quả và không gia tăng đến mức vượt quá khả năng thanh
toán để không làm tích luỹ nợ. Hay nói cách khác, quản lý nợ nước ngoài là bảo đảm
một cơ cấu vốn vay thích hợp với các yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thực hiện
phân bổ vốn một cách hợp lý và kiểm soát nợ và sự vận hành vốn vay”.
Theo cách hiểu chung của cộng đồng tài chính quốc tế “quản lý nợ nước ngoài là
một phần của công tác quản lý nền kinh tế vĩ mô. Nó bao gồm việc hoạch định, triển
khai, duy trì và từ bỏ các khoản nợ nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho tăng
trưởng kinh tế, giám sát tình trạng đói nghèo và tiếp tục duy trì sự phát triển mà không
tạo ra những khó khăn trong thanh toán”.
Như vậy, quản lý nợ nước ngoài không tách rời khỏi quản lý chính sách vĩ mô,
với quản lý Ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc tế và cán cân thanh toán. Quản lý nợ
nước ngoài hiệu quả đòi hỏi cả chính sách tốt và thể chế lành mạnh nhằm điều hành và
phối hợp các hoạt động vay mượn. Quản lý nợ nước ngoài không đơn thuần là vay và
trả mà là vay và trả sao cho đảm bảo nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn
định trong phát triển kinh tế và tương xứng với khả năng thanh toán của nền kinh tế.
1.2.2.2. Nội dung quản lý nợ nước ngoài
Quản lý nợ nước ngoài cần được tiến hành một cách đồng bộ, trên cơ sở phối
hợp các nhóm chiến lược vay và trả nợ nước ngoài trong ngắn hạn, trung và dài. Nội
dung quản lý nợ nước ngoài cần phải được nghiên cứu cẩn thận, trên cơ sở xem xét
các khung giải pháp chuẩn đã được Chính phủ ban hành trong những năm qua.


Xây dựng chiến lược và kế hoạch vay trả nợ nước ngoài
Một trong những công cụ quản lý nợ nước ngoài là chiến lược và kế hoạch vay trả
nợ. Chiến lược vay trả nợ được lập trong dài hạn, trong khi kế hoạch vay trả nợ được
lập trong trung hạn.
Chiến lược vay trả nợ nước ngoài là văn kiện đưa ra mục tiêu, định hướng, các
giải pháp, chính sách đối với quản lý nợ nước ngoài của quốc gia, được xây dựng


5

Một trong những công ty đánh giá tín nhiệm nổi tiếng trên thế giới.
12


trong chiến lược tổng thể về huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và 10 năm của đất nước.
Chương trình quản lý nợ trung hạn là văn kiện cụ thể hoá nội dung chiến lược nợ
dài hạn cho giai đoạn từ 3 hoặc 5 năm, được cập nhật từng năm, phù hợp với khuôn
khổ chính sách kinh tế, tài chính và với mục tiêu ngân sách trung hạn và hàng năm của
Chính phủ.

Ban hành khung chể thế, xây dựng cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý nợ nước
ngoài
Một trong những nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý nợ nước ngoài là xây dựng
được một khuôn khổ pháp lý và thể chế cho quản lý nợ nước ngoài, trong đó có sự
phân định rõ ràng giữa trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan chức năng được ủy
quyền thay mặt Chính phủ trong việc vay, trả nợ, phát hành bảo lãnh và thực hiện các
giao dịch tài chính như cho vay lại.
Khung pháp lý về quản lý nợ nước ngoài: sự phân định giữa trách nhiệm và quyền

hạn trên cần được luật hoá bằng các văn bản luật, như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật
Quản lý nợ hoặc Luật Quản lý nợ nước ngoài và các quy chế cụ thể. Hệ thống các văn
bản pháp luật nhất thiết phải nhất quán và đồng bộ cho việc thực hiện.
Khung thể chế: bao gồm một hệ thống các quy định riêng cho việc vay nợ của
Chính phủ, của Ngân hàng Trung ương và của tư nhân. Khung thể chế vay nợ nước
ngoài của một nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình vay mượn và sử dụng có
hiệu quả vốn vay.
Tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài là một nội dung quan trọng trong quản lý
nợ nước ngoài. Trước hết là các cơ quan lập pháp chịu trách nhiệm thông qua Luật về
nợ vay và hạn mức trần vay nợ hàng năm, tiếp theo là các cơ quan hành pháp chịu
trách nhiệm triển khái các nội dung quản lý nợ.

Đánh giá tính bền vững của nợ nước ngoài
Đối với tất cả các nước đang phát triển ngày nay, việc đi vay nước ngoài để đầu tư
cho phát triển đất nước đã trở thành tất yếu. Song, đi vay đến mức độ nào để tránh
được những tiêu cực - mặt trái của nợ nước ngoài – không chỉ cho thế hệ hiện tại, mà
còn phải đảm bảo không ảnh hưởng đến thế hệ mai sau? Câu hỏi này cần được trả lời
trên cơ sở những quan điểm có tính lý luận chung về phát triển.
Tính bền vững của việc vay nợ nước ngoài đề cập đến mức độ nợ nước ngoài của
một quốc gia trong mối quan hệ với tình hình phát triển chung của đất nước. Một định
nghĩa của Cơ quan Phát triển Quốc tế (thuộc Ngân hàng Thế giới) và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) phát biểu như sau: “Tính bền vững của việc vay nợ nước ngoài là khái
niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc gia tại đó nước vay nợ có đủ khả năng
đáp ứng các nghĩa vụ nợ - cả vốn gốc lẫn lãi - một cách đầy đủ, không phải nhờ đến
biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại nợ nào, cũng như không bị tích tụ tình trạng các
khoản nợ chậm trả, đồng thời vẫn cho phép nền kinh tế đạt được một tỷ lệ tăng trưởng
chấp nhận được”.
Định nghĩa tính bền vững về nợ nói trên mang ý nghĩa đưa ra một khuôn khổ có
tính chất nguyên tắc để hiểu được quản lý nợ nước ngoài phải bao hàm những khiá
cạnh gì và trên cơ sở đó xây dựng phương pháp, hệ thống quản lý nợ nước ngoài có

hiệu quả. Tổng hợp các chính sách vay nợ và chính sách vĩ mô đảm bảo việc duy trì
tính bền vững của nợ nước ngoài được gọi là chính sách nợ bền vững.
13


1.2.2.3.

Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ vay, chi phỉ sử dụng vốn
Việc vay nợ nước ngoài có tầm quan trọng nhất định đến sự phát triển của các
quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên một yếu tố có tính quyết định đến việc sử dụng nợ
có hiệu quả hay không chính là chi phí sử dụng nợ.
Chi phí sử dụng nợ là giá mà một quốc gia phải trả cho việc sử dụng vốn vay. Giá
phải trả này ngoài tiền lãi phải trả định kỳ, quốc gia còn phải tra chi phí môi giới, chi
phí phát hành nợ (chi phí phát hành trái phiếu), hoặc những chi phí vô hình là những
ràng buộc của quốc gia cho vay (nợ ưu đãi). Nếu quản lý nguồn vốn này không hiệu
quả, một phần không nhỏ sẽ bị mất đi cho tham nhũng, lãng phí…
Chi phí sử dung nợ có thể gia tăng do những biến động của kinh tế thế giới cũng
như sự thiếu linh hoạt của cơ quan điều hành vĩ mô trong chính sách tài chính - tiền tệ,
bởi vì xét về nợ vay, thời gian là yếu tố quan trọng dẫn đến gia tăng rủi ro của khoản
vay đó, trong suốt khoản thời gian đi vay có thể xảy ra những biến cố có lợi hoặc bất
lợi đến các khoản vay đó, nhất là nợ vay nước ngoài. Những yếu tố đó là rủi ro về tỷ
giá hối đoái, lãi suất thị trường, lạm phát và những rủi ro quốc gia khác.

Tỷ giá hối đoái
Trong mô hình tiết kiệm đầu tư, tỷ giá hối đoái giữ vai trò quan trọng trong việc
giải thích các biến động trong tài khoản vãng lai. Nếu người ta dự đoán được rằng có
sự sụt giá thực sự của đồng nội tệ thì các hộ gia đình có thể rủ nhau đi mua hàng nhập
khẩu có thể dự trữ được lâu, điều này làm cho mức tiết kiệm có thể giảm đi. Còn nếu
đồng nội tệ tăng giá tạm thời có thể đánh giá sai lệch về tỷ suất sinh lợi thực của nhà
đầu tư.

Tỷ giá hối đoái thực tế còn quyết định cả mức dự trữ vốn mong muốn bằng cách
tác động vào chi phí điều chỉnh, việc định tỷ giá quá cao không phù hợp với tỷ lệ lãi
suất, có ý nghĩa như một trợ cấp đầu tư. Do đó, nếu có sự giảm giá thực tế so với dự
tính có thể làm mức đầu tư tăng lên và ngược lại.
Đối với nợ nước ngoài, các khoản đi vay thường được tính bằng ngoại tệ. Đối với
các quốc gia vay nợ, thường là các nước chậm phát triển, có đồng tiền yếu, vì thế tại
thời điểm đi vay, mức giá của đồng nội tệ thường cao hơn tại thời điểm trả nợ. Điều
này gây nên một mức lãi suất thực cao hơn nhiều so với lãi suất danh nghĩa. Việc đầu
tư trong nước bằng nội tệ sau khi chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho tỷ suất sinh lời
giảm đi nhiều. Vì vậy các quốc gia cần phải có một chính sách quản lý tỷ giá rất linh
hoạt và cân nhắc kỹ lưỡng khi vay dài hạn với lãi suất cao. Thực hiện mua bán quyền
chọn để bảo hiểm tỷ giá cũng là một giải pháp. Tuy nhiên nghiệp vụ mua bán quyền
chọn chỉ thực hiện được trong ngắn hạn, do đó chỉ phủ hợp cho khoản vay thương mại
cho xuất nhập khẩu.

Lãi suất thị trường thế giới
Lãi suất của các khoản vay được xác định trên lãi suất của thị trường thế giới như
LIBOR
6
, SIBOR
7
… Đối với các khoản vay có lãi suất cố định, sự thay đổi của lãi
suất thị trường sẽ làm thay đổi lãi suất của khoản đi vay, do đó người đi vay sẽ gặp
lúng túng trong phương án trả nợ của mình. Thông thường nợ vay quốc tế là những
hợp đồng vay với lãi suất thả nỗi, lãi suất vay bằng đồng đôla của các nước đang phát
triển gắn chặt với lãi suất LIBOR.


6


London Interbank Offerring Rate – Lãi suất cho vay liên ngân hàng ở London.
7

Singapore Interbank Offerring Rate – Lãi suất cho vay liên ngân hàng ở Singapore.
14



Lạm phát
Lạm phát là vấn đề khó khăn luôn gặp phải tại các quốc gia đang phát triển. Mức
lạm phát này thường cao hơn lạm phát của các nước chủ nợ là các quốc gia đã phát
triển. Theo thuyết ngang giá lãi suất, lạm phát trong nước cao hơn so với lạm phát
nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên để bù lại khoản chênh lệch đó và như phân
tích ở phần tỷ giá hối đoái, điều này có thể làm gia tăng mức nợ vay thực tế.

Rủi ro quốc gia
Rủi ró quốc gia là những biến cố có thể xảy ra đối với các quốc gia như thể chế
chính trị, chiến tranh, tình hình an ninh xã hội… Điều này được lượng hoá thông qua
hệ số tín nhiệm của các quốc gia này. Hiện any hầu hết các quốc gia đều thành lập cho
mình một tổ chức để xếp hạng rủi ro doanh nghiệp và rủi ro quốc gia.
1.3.

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT

NAM

1.3.1.


Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ nước ngoài
1.3.1.1. Khủng hoảng nợ ở khu vực châu Mỹ Latinh
Có thể nói khủng hoảng ở các nước châu Mỹ Latinh bắt nguồn từ sự “say sưa
trong chiến thắng” của các nước ở khu vực này. Trước cuộc khủng hoảng, các nước
châu Mỹ Latinh liên tục có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm liên tiếp,
hơn hẳn các nước ở khu vực châu Á và châu Phi. Thời kỳ 1950 - 1970, nhiều nước Mỹ
Latinh như Brazil, Mexico, Argentina… đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao liên tục,
và các nước này được đánh giá là các nước công nghiệp mới – NICs. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982 và kéo dài trong những năm sau đó đã khiến
cho các nước này không thể tiếp tục trở thành các nước NICs. Hơn nữa, trong thập kỷ
sau đó nền kinh tế của các nước này đã rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái.
Khủng hoảng nợ nước ngoài ở châu Mỹ Latinh chủ yếu xuất phát từ khu vực tư
nhân. Là những nền kinh tế tăng trưởng nhanh, các nước Mỹ Latinh là điểm đến mong
đợi của dòng vốn nước ngoài vào thời điểm đó. Các biện pháp cải cách nền tài chính
theo hướng tự do hoá cũng là yếu tố khuyến khích các công ty tư nhân trong nước vay
nợ. Giữa thập kỷ 1970, nhiều nước Mỹ Latinh bao gồm Chile, Argentina, Uruguay bắt
đầu cải cách nền kinh tế theo hướng tự do hoá thương mại, tự do hoá thị trường tài
chính trong nước và chu chuyển vốn. Việc kiểm soát ngoại tệ, kiểm soát chu chuyển
vốn và các hạn chế khác được bãi bỏ. Kết quả việc tự hoá chu chuyển vốn là các nhà
đầu tư trong nước có được khả năng tiếp cận vốn vay nước ngoài một cách không hạn
chế.
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1982, nợ nước ngoài của các nước Mỹ Latinh tăng
với tốc độ 20,4%/năm. Tổng nợ của các nước này tăng từ 75 tỷ đôla năm 1975 lên
thành 314 tỷ đôla năm 1983, tương đương với 50% GDP của cả khu vực. Tổng nợ phải
thanh toán còn tăng nhanh hơn, đạt mức 66 tỷ đôla vào năm 1982, trong khi mức này
chỉ có 12 tỷ vào năm 1975.
Khủng hoảng nợ ở các nước châu Mỹ Latinh chủ yếu liên quan đến chính sách
quản lý nợ của tư nhân với các ngân hàng thương mại nước ngoài, song nó xuất phát
từ những mất cân đối về thương mại và tài khoá tích tụ trong nhiều năm trước đó và có
sự tham gia tích cực của Chính phủ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô.

Năm 1982, khủng hoảng nợ bùng nổ, bắt đầu bằng việc Mexico tuyên bố không
thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Trong khoảng từ năm 1976 đến năm 1981, doanh
thu từ xuất khẩu dầu mỏ hàng năm của Mexico tăng từ 600 triệu đôla lên 14 tỷ đôla.
15


Tuy nhiên, cùng lúc đó nhập khẩu tăng 30%/năm, tạo nên lượng thâm hụt cán cân
thanh toán 12,5 tỷ đôla vào năm 1981. Để tài trợ cho thâm hụt này, cả khu vực công
lẫn khu vực tư nhân ở Mexico đều đi vay nợ nước ngoài, phần lớn là vay ngắn hạn.
Tình trạng nợ càng trở nên trầm trọng khi các nước Mỹ Latinh lại bị “chảy máu
vốn”, khi dòng vốn chảy ra nước ngoài của các nước này lên đến 151 tỷ đôla trong giai
đoạn 1973 - 1985, bằng 40% tổng nợ của các nước này. Như vậy, một thực tế nghịch
lý xảy ra khi các nước không sử dụng lượng vốn nước ngoài để đầu tư phát triển trong
nước và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân trong nước mình. Chính sự vô lý
này đã khiến các nước châu Mỹ Latinh rơi vào tình trạng “rối loạn” hơn, do không thể
tạo được một “lượng cân bằng”, đủ bù đắp cho lượng vốn vay nước ngoài, làm cho
tình trang thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng hơn.
Dòng vốn chảy ra nước ngoài đã khiến tỷ giá hối đoái giảm ở một số nước trong
khu vực, do đó làm tăng lãi suất lãi suất thực ở các nước này. Các ngân hàng bắt đầu
đòi nợ. Số lãi nợ không trả được lại được các ngân hàng cộng vào vốn gốc. Cứ như
vậy, lượng lãi phải thanh toán của các nước Mỹ Latinh tăng vọt. Vào năm 1984, lãi nợ
phải trả bằng 5% GNP của toàn khu vực.
Khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latinh để lại những bài học đắt giá về sử dụng
nguồn vốn vay nước ngoài, trong đó có nguồn vốn ODA. Khủng hoảng là đỉnh cao của
những mất cân đối tích tụ trong nhiều năm, do chính sách kinh tế dựa quá nhiều vào
nguồn vốn vay nước ngoài và buông lỏng quản lý nguồn vốn này. Trên thực tế, tăng
trưởng kinh tế ở các nước Mỹ Latinh giai đoạn 1960 - 1970 được tài trợ bằng cách đi
vay, một nửa là vay ODA. Đồng thời, quá nhiều vốn vay đã được sử dụng để bù đắp
cho các khoản tiêu dùng và đầu tư kém hiệu quả của Chính phủ và khối kinh tế công
cộng. Các Chính phủ cũng thiếu sự quan tâm cần thiết đối với sự ổn định kinh tế vĩ

mô, đặc biệt là đối với lạm phát và quản lý nợ.
1.3.1.2. Khủng hoảng tài chính và yếu tố nước ngoài ở khu vực châu Á
năm

1997-1998
Cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực châu Á năm 1997-1998 được diễn ra dưới
tác động của nhiều yếu tố khác nhau, cả những nguyên nhân từ nội tại bên trong của
nền kinh tế, đến cả dưới tác động của những yếu tố “ngoại sinh” – dòng vốn nước
ngoài. Cuộc khủng hoảng nổ ra như một hệ quả tất yếu của những năm tháng “ngủ
quên trong chiến thắng” của các nước, đặc biệt lá Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc – ba
nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuốc khủng hoảng.
Thái Lan “ngòi nổ” đầu tiên đã bộc phát vào ngày 2/7/1997, đã kéo theo các
dòng

“dung nham” khác buông trào mạnh mẽ. Yếu tố nợ nước ngoài nổi lên như một hệ quả
tất yếu của những chính sách sai lầm của Chính phủ các nước. Để thu hút mạnh mẽ
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Chính phủ các nước đã không chú trọng
đến việc kiểm soát chặt chẽ yếu tố tư bản nước ngoài. Thật đáng buồn là nếu các nước
chỉ chú trọng đến “lượng”, mà bỏ quên yếu tố “chất”. Nhưng điều đó đã thực sự xảy ra
ở các nước Đông Á vào thời điểm đó. Khủng hoảng nợ nói riêng, hay khủng hoảng
kinh tế - tài chính nói chung diễn ra như một hậu quả tất nhiên.
Nguồn vốn FDI chỉ thực sự phát huy tác dụng nếu được Chính phủ các nước đầu
tư hợp lý vào các dự án phát triển kinh tế, hạ tầng xã hội, tạo ra nhiều việc làm mới
cho người dân trong quốc gia đó. Cộng thêm chính sách thông thoáng, thể chế chính
trị vững mạnh và nhất quán là một trong những yếu tố giúp nguồn vốn FDI phát huy
hết “sức mạnh” của mình. Nhưng vào thời điểm đó, yếu tố chính trị lại là một nguyên
16


nhân khiến cho nguồn vốn ODA “đảo chiều”, quay ngược về chính quốc. Thái Lan là

“yếu tố dẫn đầu”, đã gây ra tác động “tâm lý lan truyền” sang các nước khác. Cộng
thêm nạn quan liêu, tham nhũng… đã đẩy các nhà đầu tư nước ngoài “ra xa”.
Bên cạnh đó, một vần đề làm cho yếu tố nợ nước ngoài ở các nước châu Á trở nên
trầm trọng thêm là vấn đề tỷ giá hối đoái. Theo Giáo sư Paul A. Samuelson, “bàn tay
vô hình” là một chính sách thích hợp cho mọi nền kinh tế, nhất là các nước có khuynh
hướng theo tư bản tài chính. Thị trường là một “công cụ” giúp điều chỉnh các chính
sách vĩ mô một cách hợp lý nhất. Và trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động,
Nhà nước chỉ được xem như một “thực thể” quản lý xã hội, hơn là tham gia điều chỉnh
nền kinh tế tài chính của quốc gia mình.
Vấn đề tỷ giá hối đoái ở các nước châu Á vào thời điểm 1997 - 1998 đã “thực
hiện đầy đủ sứ mạng” của mình khi quá tôn sùng vào lý thuyết “bàn tay vô hình”.
Chính việc để cho tỷ giá tự động điều chỉnh theo thị trường, không có sự can thiệp của
Chính phủ, đã đẩy tỷ giá hối đoái là “món mòi ngon” cho các nhà đầu cơ - đặc biệt là
các nhà đầu cơ chuyên nghiệp, mang tầm cỡ quốc tế. Chính các nhà đầu cơ này đã
thao túng thị trường tài chính của các nước trong một thời gian dài, làm cho thị trường
hối đối của các nước mất cân bằng giữa cung và cầu. Khi Chính phủ kịp nhận ra và
điều chỉnh bằng cả chính sách và lượng – ý đề cập đến lượng ngoại tệ Chính phủ “tung
ra” để điều tiết thị trường – thì mọi chuyện đã quá trễ. Tỷ giá liên tục leo thang, khiến
cho Chính phủ các nước không thể kìm giữ được, buộc phải phá giá đồng tiền quốc gia
mình.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ cần được Chính phủ thực hiện đồng bộ
trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Chính việc để cho hai chính sách này lệch pha
trong thời gian dài đã đẩy tình hình nợ của các nước thêm trầm trọng. Sự chênh lệch
giữa lãi suất quốc gia của các nước và lãi suất quốc tế đã đưa các nước vào vòng xoáy
“lãi suất”. Yếu tố lãi suất có sự chênh lệch lớn cũng là một nguyên nhân khiến các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường của các nước, bên cạnh các yếu tố khác như
tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực dồi dào với chi phí rẻ. Khi lãi suất không còn
là “mãnh đất màu mỡ” cho các nhà đầu tư và cả nhà đầu cơ thực hiện chênh lệch lãi
suất, thì theo quy luật thị trường họ sẽ rút vốn ra khỏi các nước, không chỉ một phần,
mà thậm chí là toàn bộ.

1.3.2.

Bài học kinh nghiệm cho việc Việt Nam trong việc vay và quản lý nợ
quốc tế
Việc phân bổ và sử dụng vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả nhất, đặt ra
những yêu cầu cấp bách, mang tính chiến lược cho các nhà quản lý cấp cao, đặc biệt là
Chính phủ. Việc quản lý các nguồn lực “ngoại sinh” không chỉ dừng lại ở việc vay và
trả nợ nước ngoài đúng hạn, đầy đủ mà còn phải đảm bảo yêu cầu bền vững cho thế hệ
mai sau. Việc sử dụng nợ nước ngoài cho quá trình xây dựng và phát tirển đất nước
đối với yếu tố nước ngoài là một việc quan trọng, đặc biệt là đối với các quốc gia đang
phát triển, thiếu hụt một lượng lớn vốn còn thiếu cho quá trình củng cố, phát huy sức
mạnh tổng thể của nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm
từ việc quản lý nợ nước ngoài của các nước ở khu vực Mỹ Latinh và các nước trong
khu vực - điển hình là cuộc khủng hoảng xảy ra vào năm 1997-1998 – là một việc làm
cần thiết và đúng đắn.
17



Về việc sử dụng vốn vay nước ngoài
Bài học đầu tiên có thể rút ra từ bài học kinh nghiệm trong cuộc khủng hoảng nợ
của các nước Mỹ Latinh và các nước Đông Á, đó là không nên hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế dựa quá nhiều vào nợ vay nước ngoài. Mức nợ nước ngoài cao
thường kèm theo các rủi ro về tài chính, đặc biệt nếu không quản lý chặt chẽ có thể
ảnh hưởng đến cả chính trị, mà Chính phủ các nước đang phát triển không thể kìm chế
được.
Một điều chúng ta phải nhìn nhận một cách thực tế là tầm quan trọng của việc tích
luỹ trong nước của các nước đang phát triển và luồng vốn này càng phát huy tác dụng
khi vốn đề vốn nước ngoài càng trở nên “khan hiếm”. Hiện tại luồng vốn nước ngoài
đổ vào nhóm nước đang phát triển chủ yếu xuất phát từ các nước phát triển, các cường

quốc tư bản như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật… nhưng hiện nay các nước này cũng đang chịu
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu nên lượng vốn nước ngoài
đổ vào các nước có phần hạn chế.
Bên cạnh đó, vần đề quản lý nợ nước ngoài được đặt ra như một vấn đề cấp thiết
trong “cơn lốc” khủng hoảng hiện nay. Nợ nước ngoài dường như luôn ẩn chứa trong
nó là một “con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước phát triển kinh tế, khắc phục tình
trạng thiếu “tư bản”, nhưng đồng thồi cũng đặt ra yêu cầu cấp bách của việc quản lý
nợ nước ngoài, bởi lẽ khác với yếu tố “nội sinh”, “ngoại sinh” luôn hàm chứa nhiều
“tính hệ lụy bất tương xứng” - giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư.

Phối hợp thực hiện các chính sách vĩ mô đảm bảo cho chính sách nợ bền
vững
Việc hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô như chính sách tài khoá, chính
sách tiền tệ để tạo sự ổn định kinh tế vĩ mô là một việc làm vô cùng quan trọng để đảm
bảo chính sách nợ bền vững.
Duy trì tỷ giá hối đoái ở mức cạnh tranh cũng là một vấn đề căn bản để khuyến
khích xuất khẩu, giảm lệ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu.
Bài học về chính sách phát triển cộng đồng giữa khối công cộng và khối tư nhân
cũng là một vấn đề đáng được tranh luận. Doanh nghiệp nhà nước dường như là một
yếu tố chủ đạo cho phát triển kinh tế ở các nước theo khuynh hướng tả khuynh. Nhưng
một thực tế đã chỉ ra rằng không phải doanh nghiệp nhà nước nào cũng thành công
trong việc kinh doanh, việc bảo tồn nguồn vốn ban đầu đã là một yêu cầu dường như
quá sức với các doanh nghiệp nhà nước, chứ đừng nói chi là làm tăng nguồn vốn đó.
Yếu tố tư nhân nổi lên như một cú cánh cho sự phát triển của các nước, góp phần tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần làm giảm đáng kể các tệ nạn xã hội,
tạo nên một màu sắc riêng có trong sự hài hoà của nhiều gam màu khác, “gam màu
nóng” của kinh tế nhà nước.
Bài học rút ra từ nguyên nhân của cuộc khủng hoảng cho thấy vai trò của Chính
phủ trong việc điều hành kinh tế vĩ mô trong việc định hướng phát tirển kinh tế vĩ mô,
không chỉ trong ngắn hạn, mà còn trong trung và dài hạn. Những sai lầm trong việc

quản lý nợ nước ngoài sẽ dẫn đến những hậu quả to lớn cho nền kinh tế.

Đảm bảo hệ thống thông tin được đầy đủ và thông suốt.
Theo kinh nghiệm rút ra rừ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á trong năm 1997-
1998 thì vai trò lãnh đạo trên cơ sở đầy đủ thông tin của Chính phủ trong việc định
hướng phát triển là vô cùng quan trọng. Những kinh nghiệm phát triển thành công
nhất, đặc biệt ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đều dựa trên vai trò lãnh đạo kiên
18


quyết của Chính phủ dựa trên cơ sở đầy đủ thông tin. Lãnh đạo các nước này được
cung cấp đầy đủ những thông tin đáng tin cậy về những thách thức sắp nảy sinh, việc
này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng phát triển, nắm bắt cơ hội, thậm chí
ngăn chặn được khủng hoảng. Lãnh đạo ở nhóm nước công nghiệp mới phát triển rất
linh hoạt trong việc khắc phục những quyết định sai lầm và khuyết điểm trong quá khứ
để hạn chế đến mức tối thiểu các tổn thất. Những nước thành công nhất là những nước
lãnh đạo tham khảo ý kiến một cách kỹ càng của khu vực tư nhân. Một thực tế ở các
nước thành công nhất là trong khi quyền lãnh đạo chung thuộc về Chính phủ thì việc
quản lý và phát triển kinh tế thuộc về tư nhân.
Kinh nghiệm khủng hoảng của các nước cũng cho thấy một nước có thể rơi vào
khủng hoảng nếu như các quyết định của Chính phủ lại được xây dựng trên cở sở thiếu
thông tin.




KẾT LUẬN CHƯƠNG
1



Chương 1 đã tổng kết những vấn đề khái quát về vấn đề nợ nước ngoài. Nợ nước
ngoài là một bộ phận quan trọng có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế của yếu tố
nợ. Chúng ta nhận thấy rằng nợ nước ngoài là một “chất xúc tác” quan trọng đối với
các nhất, nhất là các nước đang phát triển. Yếu tố nợ nước ngoài hoà chung trong tổng
thể sự phát triển kinh tế của các nước. Để đảm bảo yếu tố nợ nước ngoài phát huy tác
dụng, Chính phủ các nước cần có các chính sách vay và quản lý nợ một cách thích
hợp.
Phải nhìn nhận thực tế là nợ nước ngoài nếu được quản lý tốt sẽ góp phần kích
thích nền kinh tế của các nước phát triển hơn. Nhưng nếu không được quản lý tốt hoặc
buông lỏng quản lý thì nợ nước ngoài sẽ sinh ra những tác động tiêu cực, ảnh hưởng
đến yếu tố bền vững của nền kinh tế, thậm chí có thể gây ra khủng hoảng nợ. Khủng
hoảng nợ nằm trong khủng hoảng kinh tế, nhưng bản thân khủng hoảng nợ có những
dấu hiệu riêng, tầm ảnh hưởng riêng đến nền kinh tế của các nước.
Thực tế lịch sử kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước Mỹ Latinh và cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính ở châu Á năm 1997-1998, là một bài học “thương đau”
cho sự buông lỏng quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ các nước. Không phải không
có những nước sử dụng tốt nợ nước ngoài - ví dụ như Trung Quốc, Malaysia. Đây là
những nước có chính sách quản lý nợ nước ngoài hợp lý, đặc biệt là rất mạnh tay với
nạn tham nhũng, nên đã hạn chế thấp nhất những tiêu cực có thể xảy ra.
Quản lý nợ nói riêng hay quản lý vĩ mô nền kinh tế là những đòi hỏi khách
quan

của Chính phủ các nước. Vấn đề quản lý nổi lên như một yêu cầu cấp bách trong thời
điểm hiện nay - thời điểm của “cơn bão” khủng hoảng kinh tế tài chính – đang hoành
hành trên thế giới. Quản lý chỉ thực sự phát huy tác dụng khi công tác dự báo tốt đi
kèm đó là tầm nhìn chiến lược trong dài hạn của các nhà đạo cấp cao.
19


Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC QUẢN LÝ NỢ NƯỚC

NGOÀI


VIỆT

NAM

2.1.

TÌNH HÌNH VAY NỢ VAY NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
2.1.1.

Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là các
quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ cần phải huy
động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho quá trình
xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba nguồn chủ
yếu sau đây:


Nợ ODA
8
(Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi
trong khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA)


Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.


Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới

được Chính phủ áp dụng)

NỢ ODA
Quan hệ hợp tác phát triển giữa Chính phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính thế
giới và Chính phủ các nước được xây dựng và phát triển từ rất sớm. Việt Nam nhận
được nhiều khoản hỗ trợ phục vụ cho quá trình ổn định và phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện các mục tiêu mà Quốc hội đã đặt ra trong các giai đoạn khác nhau. Trong các
khoản hỗ trợ đó, nợ ODA là khoản nợ vay nước ngoài chủ yếu của Chính phủ trong
suốt một thời gian dài.
Trong tổng số vốn ODA cam kết mà chúng ta nhận được giai đoạn 1993 - 2007,
khoảng 15 – 20% là viện trợ không hoàn lại, còn phần lớn là vốn cho vay ưu đãi đối
với Chính phủ. Nguồn vốn ODA huy động được sử dụng để bổ sung cho đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội, chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn xã hội, bằng 28% tổng vốn
đầu tư từ Ngân sách Nhà nước (NSNN), bằng 50,5% vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước.
Trong số 51 nhà tài trợ thường xuyên cho Việt Nam, có 28 nhà tài trợ song
phương và 23 nhà tài trợ đa phương, có 3 nhà tài trợ cung cấp chủ yếu là Nhật Bản,
Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng 80%
tổng giá trị ODA đã ký kết.
Mức cam kết ODA hàng năm điều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Điều này thể
hiện sự tin tưởng, ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với quá trình xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đó vừa là thuận lợi nhưng cũng đầy thử
thách cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, đặc biệt là Chính phủ, đòi hỏi các vị
lãnh đạo phải có một kế hoạch đúng đắn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Yêu cấp đối với việc sử dụng nguồn vốn ODA là phải phát huy hiệu quả không chỉ
trong ngắn hạn mà còn phải hữu hiệu trong trung và dài hạn, nghĩa là thế hệ mai sau
phải được hưởng những thành quả do nguồn vốn ODA này mang lại. Điều đó càng
làm cho nguồn vốn ODA càng có giá trị cho các nước đang phát triển – các nước cần
một lượng lớn vốn nhưng thiếu đi nguồn lực này, do việc “tích tụ tư bản” trong nước
còn thấp.





8
Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính thức.
20


Hình 2.1: Tình hình ODA cam kết, ký kết và giải
ngân




Nguồn vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã
hội. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA là giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông (28,06%), năng lượng và công nghiệp (21,78%), nông nghiệp và phát triển nông
thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo (15,66%). Nhờ tập trung vốn ODA quy mô lớn nên
hầu hết các lĩnh vực đều có bước phát triển nhất định, hàng loạt các dự án được thực
hiện, hỗ trợ đáng kể cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, tổng nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội tương đương 140 tỷ USD. Trong đó, dự kiến vay nước ngoài chiếm
khoản 35%, riêng vốn vay từ nguồn vốn ODA dự kiến đạt trên 19 tỷ USD vốn cam
kết. Dự báo tổng giá trị ODA ký kết các tháng cuối năm 2008 ước đạt 1,342 tỷ USD,
trong đó vốn vay đạt khoảng 1,19 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại đạt khoảng 152
triệu USD, cao hơn mức 3,157 tỷ USD của năm 2007.
Đối với nước tiếp nhận viện trợ, ODA được xem như một nguồn lực thực sự
nếu


nó được kết hợp hiệu quả với các nguồn lực trong nước khác để đạt được mục tiêu
quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Đối với các nhà tài trợ, ODA sẽ trở thành nguồn
vốn viện trợ thật sự nếu nó được chuyển giao cho nước tiếp nhận để gián tiếp hay trực
tiếp tạo ra các điều kiện cho phát triển. Từ những tác động của nguồn vốn này trong
thời gian qua, có thể khẳng định ODA ở Việt Nam đã trở thành một nguồn vốn thực sự
và hiệu quả trong tiến trình đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công
trong thu hút và sử dụng vốn ODA, còn tồn tại nhiều vấn đề mà Việt Nam cần phải
giải quyết để sử dụng nguốn vốn này có hiệu quả hơn trong tương lai.
21


Hình 2.2: Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực (Thời kỳ 1993 – 2008)




VAY THƯƠNG MẠI

Chính phủ vay nợ nước ngoài về cho vay lại
Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
trong thời gian qua Chính phủ đã sử dụng một phần vốn ODA vay nợ nước ngoài để
cho vay lại đối với các dự án, các chương trình đầu tư có khả năng hoàn vốn của các
Bộ, các địa phương. Tỷ lệ cho vay lại chiếm khoảng 45% tổng số vốn vay ODA của
Chính phủ.
Bên cạnh vốn vay ODA, Chính phủ còn cho vay lại bằng khoản vay thương mại
đối với các doanh nghiệp nhằm thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế.
Cho vay lại của Chính phủ được thực hiện chủ yếu thông qua 2 công cụ, Quỹ Hỗ
trợ Phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) và các ngân hàng thương mại.
Một số dự án được thực hiện nhờ hoạt động cho vay lại của Chính phủ là dự án phát
triển ngành công nghiệp đóng tàu của Vinashin (750 triệu USD), dự án nâng cao hiệu

suất ngành điện (hơn 30 triệu USD), dự án tài trợ nông thôn (93,7 triệu USD), điện
Phú Mỹ (71,6 triệu USD) v.v…

Bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh
nghiệp và tổ chức tín dụng
Bảo lãnh Chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi vay
nước ngoài được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp phát triển
hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi nguồn lực có giới hạn. Các doanh nghiệp vay
nợ có bảo lãnh gồm các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) và các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn
trong các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, hàng không và dệt.
Tính đến hết năm 2006, tổng số vay nước ngoài của các doanh nghiệp được Chính phủ
22


bảo lãnh là 3,5 tỷ USD, trong đó giải ngân được 2,13 tỷ USD, dư nợ bảo lãnh khoảng
1,425 tỷ USD.
Các khoản vay nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh đều được thực hiện đúng quy
trình và sử dụng đúng mục đích. Trong cơ cấu nợ vay có bảo lãnh, nợ ngắn hạn chiếm
tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 4,8%), chủ yếu là nợ trung và dài hạn. Nhìn chung nợ có bảo
lãnh đáp ứng được yêu cầu cho quá trình phát triển trung và dài hạn. Cho đến thời
điểm hiện nay, hầu như các dự án vay nợ nước ngoài có bảo lãnh đều trong quá trình
xây dựng hoặc mới đưa vào sử dụng nên chưa phát sinh nợ quá hạn.

Vay và trả nợ nước ngoài của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Bên cạnh khoản vay trực tiếp của chính quyền trung ương, các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương khi muốn gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển cũng tiến hành hoạt
động vay nợ dưới hai hình thức, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay
nước ngoài. Trên thực tế, vốn vay nước ngoài của các địa phương chủ yếu là vốn ODA
trực tiếp cho các dự án đầu tư tại các khu vực và phần thụ hưởng gián tiếp từ các dự án

của các cơ quan trung ương thực hiện trên địa bàn.
Nhìn hình 2.3, ta thấy vốn vay của chính quyền địa phương chủ yếu là ở khu vực
đồng bằng Bắc bộ (34,4%). Điều này cũng phù hợp với quy hoạch phát triển vùng,
miền trên địa bàn cả nước vì khu vực này có tiềm năng kinh tế rất lớn nhưng chưa
được khai thác hiệu quả.
Hình 2.3: Vốn vay nước ngoài của các vùng,
miền


















PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ
Sau một giai đoạn chuẩn bị, ngày 27/10/2005, Chính phủ đã chính thức phát hành
trái phiếu trên thị trường chứng khoán New York với tổng số vốn huy động được là
750 triệu USD, lãi suất 7,125%/năm, thời hạn 10 năm. Đợt phát hành trái phiếu chính
phủ (TPCP) lần đầu tiên ra thị trường vốn quốc tế đã giúp Việt Nam đa dạng hoá

nguồn huy động vốn, thiết lập một “thang chuẩn” để giúp cho các doanh nghiệp và địa
phương huy động vốn sau này.
Trái phiếu quốc tế của Chính phủ đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của các nhà
đầu tư nước ngoài trên khắp thế giới. Trong so 255 nhà đầu tư mua trái phiếu có 51%
là các quỹ đầu tư tài chính, ngân hàng là 25%, các công ty bảo hiểm là 17% và 7% là
các tổ chức đầu tư khác. Số trái phiếu này được phát hành rộng rãi ở châu Á (nắm giữa
38%), châu Âu (32%) và châu Mỹ (30%).
Toàn bộ số tiền huy động được giao cho Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt
Nam (Vinashin - nay là Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam) sử dụng để đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh.
23


Việc phát hành trái phiếu quốc tế có thể thực hiện qua 3 hình thức: Chính phủ Việt
Nam phát hành về cho vay lại, Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái
phiếu doanh nghiệp, doanh nghiệp tự trực tiếp phát hành mà Chính phủ không phải
bảo lãnh. Tuy nhiên, các tập đoàn lớn của Việt Nam được kỳ vọng vẫn chưa hội đủ
điều kiện để phát hành trái phiếu quốc tế. Theo sự chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng, Bộ
Tài chính vào thành 9/2007 với thời hạn là 15, 20 năm, Chính phủ Việt Nam đã phát
hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế và cũng là lần thứ hai Chính phủ
vay tiền để các doanh nghiệp nhà nước vay lại. Để có thể đảm bảo uy tín của Việt Nam
trên thị trường vốn quốc tế, cho dù là trái phiếu do Chính phủ phát hành hay do các
doanh nghiệp Việt Nam tự phát hành, nhất thiết không vì một sự thất tín nào trong
khâu trả nợ của bất kỳ tổ chức phát hành nào mà làm cho các nhà đầu tư quốc tế quay
lưng lại với trái phiếu quốc tế của Việt Nam.
Nhìn chung, nợ nước ngoài của Chính phủ gia tăng qua các năm, phần nào đáp
ứng nhu cầu hỗ trợ vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Điều này được
lý giải một phần cho những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và chính sách
thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Bên cạnh đó, hoạt động trả nợ duy trì
đều đặn, đảm bảo uy tín trong quá trình thanh toán cũng góp phần vào việc gia tăng số

lượng nợ nước ngoài.
Trong cơ cấu nợ nước ngoài, chủ yếu là nợ trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu đầu tư dài hạn vào cơ sở hạ tầng. Các khoản nợ do Chính phủ bảo lãnh cũng chiếm
tỷ trọng không đáng kể trong tổng số nợ nước ngoài của Chính phủ (trung bình nợ
Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 7%).
2.1.2.

Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
Với nền tảng của một nước nông nghiệp, lạc hậu tiến lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), xuất phát điểm trong nước còn thấp, mất cân đối giữa tiết kiệm - đầu
tư. Việt Nam với xuất điểm của một nước nghèo nàn, thiếu nhiều về tư bản cũng như
yếu tố trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu nhưng Việt Nam luôn phải đối mặt với
những vấn đề tham nhũng, thâm hụt tài khoản vãng lai, cán cân thanh toán. Do đó,
chúng ta phải tìm các nguồn tài trợ từ bên ngoài để bù đắp cho vấn đề thâm hụt và phát
triển kinh tế đất nước.
Năm 1991 là một năm đầy biến động cho tình hình chính trị thế giới. Với việc sụp
đổ hệ thống XHCN ở Liên Xô và kéo theo là các nước Đông Âu cũng lần lượt tuyên
bố xây dựng đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Và với việc Liên Xô
sụp đổ - một trong những chủ nợ lớn nhất của Việt Nam – đã có những tác động to lớn
đến tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam. Do đó, khi phân tích tình hình vay nợ nước
ngoài của Việt Nam, chúng tôi sẽ lấy mốc năm 1991 làm nền tảng cho việc phân tích
tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm qua.

Tình hình vay nợ của Việt Nam trước năm 1991
Trước năm 1991, khi Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA) chưa tan rã, thì nợ Việt
Nam là rất lớn do được hưởng nhiều ưu đãi của tổ chức này, chủ yếu vay từ Liên Xô
và các nước Đông Âu với lãi suất ưu đãi. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB), riêng năm 1991, nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức 23 tỷ USD, đây là mức nợ
đáng báo động trong tình trạng nền kinh tế quốc gia còn nghèo, mức thu nhập nội địa
còn thấp.

Các khoản vay nợ này chủ yếu là vay từ các nước XHCN. Việc vay và trả nợ đều
do Nhà nước quản lý và được tiến hành ở trạng thái hàng đổi hàng, với giá cả cố định

×