HỆ QUẢ CỦA TOÀN CẦU HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, dưới tác động của các nhân tố thời
đại. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế khách quan với những hiện tượng sôi
động, phức tạp, tác động và diễn ra ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Những
năm gần đây toàn cầu hoá được bàn luận sôi nổi trên thế giới cũng như ở
nước ta, nó trở thành vấn đề trung tâm của lý luận và có ý nghĩa thực tiễn lớn
lao. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay, trong điều kiện chúng ta mở cửa, tham
gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO), nghiên cứu hệ quả của toàn cầu hoá và tác động ảnh hưởng của nó
đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của nước ta là một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, thông qua đó để chúng ta nhận thức và thực
hiện tốt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế, là một quá trình mà
các nền kinh tế của các quốc gia dân tộc trên thế giới liên kết với nhau, thâm
nhập vào nhau, tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau tạo thành một chỉnh
thể của nền kinh tế thế giới và được quy định bởi các định chế kinh tế quốc tế.
Quá trình đó chỉ hoạt động kinh tế của một nước đã vượt ra khỏi biên giới
quốc gia, từ đó làm cho hoạt động kinh tế và vận hành kinh tế có nội dung và
ý nghĩa quốc tế. Xét về thể chế kinh tế, đó là kinh tế mở cửa ra bên ngoài vừa
xuất khẩu vừa nhập khẩu, tức là thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa.
Toàn cầu hoá vừa là một khái niệm chỉ phạm vi, tức là kinh tế của tuyệt đại đa
số quốc gia được đưa vào trong phạm vi chung của thị trường thế giới, vừa là
một khái niệm về trình độ, chỉ những yếu tố kinh tế chủ yếu trên thế giới phải
2
có năng lực và điều kiện để bố trí trong phạm vi toàn cầu. Mặc dù việc xác
định một tiêu chuẩn lượng hoá cho toàn cầu hoá kinh tế là tương đối khó
khăn, nhưng nhận thức về góc độ định tính, chí ít phải có ba tiêu chí sau đây:
Một là thông tin hoá, hai là thị trường hoá, ba là xuyên quốc gia hoá, lưu động
tự do các yếu tố sản xuất. Không có ba tiêu chí trên, tức là không có thông tin
hoá toàn cầu được hình thành do kỹ thuật máy tính và Internet phát triển
nhanh chóng; không có tính bất khả kháng của quy luật thị trường làm cho
kinh tế toàn cầu thị trường hoá, không có sự lưu động xuyên quốc gia của các
yếu tố sản xuất như tư bản, kỹ thuật, sức lao động …, cũng như sự lưu động
xuyên quốc gia trong phạm vi toàn cầu của tiền vốn do sự phát triển của thị
trường tài chính và chứng khoán tạo ra, thì căn bản không thể nói gì đến toàn
cầu hoá kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa trở thành một xu thế khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất xã hội, bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
cho đến nay, nền kinh tế thế giới đã trải qua ba giai đoạn phát triển lớn, từ xã
hội hoá sản xuất phát triển đến quốc tế hoá sản xuất, ngày nay lại tiến thêm
một bước phát triển theo hướng toàn cầu hoá kinh tế. Thế kỷ trước, sau khi
hoàn thành cách mạng công nghiệp, đã từng bước thực hiện xã hội hoá sản
xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, xã hội hoá sản xuất lại tiến thêm một
bước phát triển theo hướng quốc tế hoá, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản
xuất, làm cho sản phẩm “nhãn hiệu đa quốc gia” ngày càng nhiều. Sự phát
triển nhanh chóng của quốc tế hoá sản xuất là do xuất hiện của rất nhiều
ngành công nghiệp mới yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao, một doanh nghiệp,
một quốc gia không thể chiếm ưu thế đồng đều trong mọi lĩnh vực kỹ thuật do
vậy phải tiến hành sản xuất hợp tác xuyên quốc gia để tập trung thế mạnh của
các doanh nghiệp, các quốc gia, nâng cao trình độ kỹ thuật và chất lượng sản
phẩm. Ngoài ra, hợp tác xuyên quốc gia cũng có lợi cho việc giải quyết nguồn
3
vốn khổng lồ và mở rộng thi trường tiêu thụ. Vì vậy mấy chục năm gần đây
các công ty xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng. Đến năm 1997 có hơn
53.000 công ty xuyên quốc gia toàn cầu, xuất khẩu hàng năm đạt hàng nghìn
tỷ USD, chiếm 1/3 kim ngạch xuất khẩu thi trường thế giới, hiện nay cùng với
sự phát triển của máy tính, kỹ thuật thông tin vệ tinh, mạng thông tin toàn
cầu, sự lưu động vốn quốc tế tăng nhanh, kinh tế thế giới không chỉ hạn chế
trong phân công quốc tế và hợp tác quốc tế các lĩnh vực sản xuất, mà các lĩnh
vực đều nhanh chóng tiến tới toàn cầu hoá. Toàn cầu hóa, sự phát triển của
cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức hội nhập kinh tế là những
quá trình đang nảy sinh và phát triển ở các nước tư bản phát triển và hiện
đang lan ra toàn cầu, lôi cuốn mọi quốc gia dân tộc trên thế giới, kể cả các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Toàn cầu hóa về kinh tế là sự điều chỉnh và
thích ứng với sản xuất tư bản chủ nghĩa, phù hợp với sự xã hội hóa cao độ
của lực lượng sản xuất xã hội, đang diễn ra trong lòng các nước. Toàn cầu
hóa, thực tế đang tạo ra cho các nước kém phát triển và đang phát triển cơ
hội mới để đi lên phía trước nhanh hơn. Với toàn cầu hóa kinh tế “khu
vực trung tâm” cần một sự phát triển nào đó của “ngoại vi”, trở thành thị
trường hàng hóa và dịch vụ, tiếp nhận đầu tư phù hợp với quy mô cơ cấu
và chất lượng của nền kinh tế ở trung tâm. Chính điều này cắt nghĩa vì sao
trong những thập niên gần đây việc lưu thông trao đổi hàng hóa dịch vụ,
chuyển giao công nghệ lại nhộn nhịp giữa các nước phát triển với các
nước đang phát triển. Bối cảnh phát triển của thế giới đương đại cho thấy
bất cứ quốc gia nào, không phân biệt trình độ phát triển, chỉ có thể phát
triển thuận lợi trong một môi trường mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá xuất hiện như là một xu thế tất yếu của phát triển kinh tế
mỗi quốc gia và các dân tộc trên thế giới.
4
Toàn cầu hoá trở thành xu thế khách quan, nó như là một “dòng chảy”
của thời đại mà không một quốc gia nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ với dòng
chảy đó. Nó đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế chính trị - văn hóa - xã hội thế giới mà hệ quả rất phức tạp, có cả mặt tích cực
và cả mặt tiêu cực, mang lại những cơ hội lớn đồng thời đặt ra nhiều thách
thức mới cho các quốc gia dân tộc.
Mặt tích cực, Toàn cầu hoá đem lại những thành quả về mọi mặt cho
thế giới do sự tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, do sự phổ dụng,
truyền bá và chuyển giao các thành tựu của công nghệ tin học, công nghệ sinh
học trên quy mô toàn cầu. Nó nâng cao năng lực tư duy, phân tích và tổng
hợp thông tin, nâng cao trình độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh của
con người. Nó tạo điều kiện cơ hội cho tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá. Toàn cầu hoá thúc đẩy nhanh và mạnh sự phát triển và xã hội hoá các lực
lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Nếu so sánh hai khoảng
thời gian từ nữa đầu thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần, thì nữa cuối thế kỷ
XX, tăng 5,2 lần. Toàn cầu hoá góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới,
đặc biệt tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm chế tác (hiện chiếm 21,4%) và các
dịch vụ (hiện đã chiếm đến 72,4%) trong cơ cấu kinh tế thế giới. Như vậy,
toàn cầu hoá tạo thêm những tiền đề rất quý cho xã hội hiện đại của con
người. Xét từ góc độ này, ngay những khiếm khuyết và tiêu cực của toàn cầu
hoá hiện nay, đương nhiên là tai hại, song cũng góp phần đặt ra những vấn đề
lớn của tương lai, và thậm chí con người là nguồn lực chính, với mối quan
tâm đặc biệt đến môi trường xã hội và môi trường sinh thái, đã nổi bật lên từ
thập niên 80, chính là do tiến trình của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những
nguồn lực quan trọng và rất cần thiết cho các nước đang phát triển, thu hút
các nguồn vốn đến các tri thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, xã
5
hội; cả cơ hội mở rộng thị trường và cơ hội hợp tác, canh tranh, cả về chiến
lược dài hạn và về tổ chức tiến hành cả ở tầm vĩ mô của quốc gia và ở tầm vi
mô của từng cá nhân, từng doanh nghiệp, tạo điều kiện cơ hội tiếp nhận các
công nghệ mới có hiệu quả để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Toàn cầu hoá, một mặt gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về cạnh tranh, đòi hỏi
phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu
quả của mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, chỉ rõ vị trí hàng đầu của yếu tố
chất lượng, yếu tố thời gian, yếu tố nâng cao giá trị gia tăng để có sức cạnh
tranh và hiệu quả. Mặt khác, toàn cầu hoá mở ra những địa bàn và cách thức
hoạt động mới, những thị trường mới, những đối tác mới cho từng nước, nhất
là các nước đang phát triển. Có thể nói đó là thời cơ của lịch sử.
Toàn cầu hoá thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các quốc gia dân tộc,
mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác trên các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa
các quốc gia, châu lục ngày càng phát triển, góp phần vào việc nâng cao trình
độ dân trí và tự khẳng định vai trò xã hội của các quốc gia dân tộc.
Toàn cầu hoá tạo ra các hình thức tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hoá, giáo dục của quốc tế và khu vực, và hình thành luật pháp quốc tế để giải
quyết những vấn đề chung toàn cầu như về dân số, môi trường, lương thực, y
tế, sức khoẻ, an ninh và an toàn xã hội.
Mặt tiêu cực, toàn cầu hoá làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào
sâu hố ngăn cách giàu, nghèo trong phạm vi từng nước và giữa các nước với
nhau, gây bất mãn sâu sắc trong đông đảo nhân dân lao động, đem lại nhiều
tai hoạ cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác. Toàn cầu hoá
hiện nay “phân phối” thành quả rất bất công, người giàu, nước giàu được lợi,
người nghèo, nước nghèo bị thiệt, từng mảng dân cư thế giới như bị loại ra
ngoài tiến trình toàn cầu hoá. Trong những thập niên vừa qua, toàn cầu hoá
trên thực tế là một quá trình hai chiều: vừa hội nhập vừa phân hoá, diễn ra
6
không đồng đều ở nhiều cấp độ, bởi vậy, nó không chỉ là nhân tố tạo ra hoà
bình, ổn định và phát triển, mà còn là một nguyên nhân của xung đột, rối loạn
và tình trạng kém phát triển. Quá trình toàn cầu hoá chưa mang lại lợi ích
công bằng cho mọi quốc gia, trong khi đem đến phúc lợi cho con người thì
ngược lại cũng tăng thêm đau khổ cho con người, mà tiếc rằng số người chịu
thiệt thòi trong toàn cầu là hơn 4 tỷ, chiếm trên 2/3 dân số thế giới. Chẳng
phải ngẫu nhiên mà trong những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều cuộc biểu tình
của những người lao động phản đối toàn cầu hoá đã nổ ra liên tiếp ở Hoa Kỳ,
Ôxtrâylia, Anh, Pháp, Hàn Quốc và Đài Loan.
Toàn cầu hoá hiện nay không hài hoà, không đồng bộ, các lĩnh vực
toàn cầu hoá so le, chênh lệch nhiều cả về chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt
tai hại là hai sự khập khiễng, mất cân đối lớn: một là, toàn cầu hoá không đi
đôi với sự quan tâm đúng mức về xã hội và con người, khiến cho phần thua
thiệt về xã hội và con người nặng nề; hai là, toàn cầu hoá kinh tế không đi đôi
với một cơ cấu và cơ chế quản lý toàn cầu tương xứng và có hiệu quả, khiến
cho toàn cầu hoá có vẻ như một con tàu không người lái. Toàn cầu hoá chỉ
thiên về thị trường mà xem nhẹ Nhà nước và nhất là xem nhẹ xã hội, như thế
nó vì lợi nhuận thị trường hơn là vì lợi ích con người.
Toàn cầu hoá làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người
kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội, môi trường, đến an
toàn chính trị, từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc
gia và an toàn của hệ thống kinh tế, tài chính, tiền tệ toàn cầu. Trong thế bất
an như vậy, những bất trắc và nguy cơ khó lường trước được, khủng hoảng có
thể đột ngột nổ ra, với những tác hại dây chuyền khốc liệt.
Toàn cầu hoá thu hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các
quốc gia, làm thu hẹp chủ quyền quốc gia. Thậm chí an ninh quốc gia một
nước có thể bị tổn thương nếu chính sách nhà nước đó sai lầm, có thể gây nên
7
tranh chấp, xung đột. Toàn cầu hoá đặt các nước đang phát triển trước những
thách thức, do thực trạng thế và lực của các nước này yếu hơn hẳn các nước
phát triển.
Toàn cầu hoá là một “cuộc chơi” đầy lý thú vừa là lời mời gọi, hứa hẹn
nhiều cái mới mẻ, nhiều thời cơ, cơ hội lớn, đối với các nước, nhằm phát triển
kinh tế, nhưng cũng đang chứa những thách thức, thậm chí là cái bẫy lớn đối
với nhiều nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển cũng như các nước
chậm phát triển, còn mang nặng tính tự túc, tự cấp, còn xa lạ với những khái
niệm kinh tế thị trường hay cạnh tranh. Đối với các nước, các công ty, doanh
nghiệp, một mặt có thể có được không gian phát triển rộng lớn trong toàn cầu
để thực hiện sự bố trí tối ưu tài nguyên; nhưng mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế
cũng đẩy họ vào một môi trường cạnh tranh phạm vi rộng hơn, đối thủ mạnh
hơn. Quy luật cạnh tranh là kẻ mạnh thắng, điều này có thể dẫn đến những
quốc gia, công ty, doanh nghiệp có ưu thế mạnh thu được nhiều lợi ích hơn,
còn những quốc gia, công ty, doanh nghiệp yếu thế thì được lợi ích ít hơn
thậm chí còn bị thiệt. Xét về tổng thể, toàn cầu hoá có thể sẽ làm nảy sinh ra
những bất công mới, như địa vị của các nước, lợi ích các nước, sự lệ thuộc…
bởi vậy người ta lo rằng, toàn cầu hoá sẽ mang đến khoảng cách chênh lệch
về phát triển kinh tế giữa các nước rộng hơn, dẫn đến sự phân hoá hai cực
càng nghiêm trọng hơn, nhất là đối với các nước có nền kinh tế thấp họ có thể
khó có cơ hội giành phần thắng. Một số quốc gia, bộ phận nhân dân có thể trở
thành nạn nhân của toàn cầu hoá. Tất nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thế
giới là một quá trình động, đa tầng, đa dạng, cơ hội và cạnh tranh cùng tồn tại
và tiến hành trong một kết cấu tổ hợp đa nguyên, bởi thế, đối với phần lớn
người tham gia có thể tìm thấy cơ hội và ưu thế, thực hiện lợi ích tương đối
của mình. Toàn cầu hoá là một cuộc chơi sòng phẳng nhưng không được từ
chối, từ chối nó là chấp nhận thua, là tự bóp chết nền kinh tế của chính quốc
8
gia dân tộc mình, từ bỏ cuộc chơi đó cũng có nghĩa là đẩy lùi sự phát triển về
mọi mặt của quốc gia. Song khi nhảy vào đấu trường tham gia cuộc chơi cũng
là một thách thức lớn, bởi vậy chủ động tham gia cuộc chơi, làm tốt công tác
chuẩn bị tham gia cuộc chơi đó ở thế chủ động trên chính khả năng của mình
là một yêu cầu quan trọng, tiên quyết đối với mỗi quốc gia.
Như vậy, có thể nói toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của thời đại,
đồng thời là một sân chơi, trong đó cùng với các yếu tố thế và lực, ai thông
minh, sáng suốt thì được nhiều hơn mất, ai dại khờ, sơ hở thì mất nhiều hơn
được, có thể được, mất rất lớn, nhưng hầu như không thể được hết hoặc mất
hết, chỉ có một tình huống mất hết đó là co mình lại, đóng cửa, cự tuyệt toàn
cầu hoá, khước từ hội nhập.
Nhận định đánh giá về xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế. Đại hội
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một
xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt
tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh”1. Đại hội X của
Đảng tiếp tục khẳng định: “toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang
được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn
ngày càng mở rộng”2.
Từ xu hướng khách quan của toàn cầu hoá, đòi hỏi chúng ta phải mỡ
cửa, hội nhập kinh tế là một vấn đề có tính chiến lược nhằm phát triển kinh tế
đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng IX nhấn
mạnh: tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ...để thực
hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc
lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lơi. Đại hội X của Đảng nhận định thêm:
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
1
2
Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG. H. 2001. Tr13.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG. H, 2006. tr 183.
9
quốc tế trên các lĩnh vực khác”3. Tuy nhiên do hệ quả của quá trình toàn cầu
hoá tác động, vì vậy quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của nước
ta, bên cạnh những thời cơ, chúng ta cũng gặp không ích khó khăn, đòi hỏi
Đảng và Nhà nước phải có những đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn
mới thúc đẩy nhanh được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đất nước.
Những hệ quả tác động của toàn cầu hoá đến quá trình hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực ở nước ta đó là:
Về cơ hội và thuận lợi, toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội mới cho Việt
Nam chủ động hội nhập và phát triển.
Quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế xâm nhập đến
tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, nó đặt ra nhiều thách thức, song cũng
tạo những cơ hội mới cho các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
Thuận lợi trước hết đó là tạo cơ hội cho ta đẩy mạnh quá trình mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế, thâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay
vấn đề thị trường xuất nhập khẩu là một trong những vấn đề sống còn của bất
cứ nền kinh tế nào. Đổi mới hội nhập là quá trình đột phá chiếm lĩnh thị
trường thế giới. Trước xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế nước ta đã và đang
khai thác thị trường quốc tế rộng lớn, đa dạng, nếu trước thời kỳ đổi mới
(1986 ), kim ngạch xuất khẩu nước ta có năm chỉ đạt 500 triệu USD, thì ngày
nay là trên 30 tỷ USD, trong đó có hơn 16 tỷ USD xuất khẩu. Thực hiện đầy
đủ những cam kết của AFTA từ năm 2006 hàng hoá của Việt Nam có điều
kiện xâm nhập tự do vào tất cả thị trường của các nước ASEAN. Chúng ta gia
nhập WTO, đây là điều kiện thuận lợi tạo cho chúng ta hưởng quy chế MFN
trong quan hệ thương mại với 151 thành viên của WTO, và hàng hoá Việt
Nam sẽ có mặt tại các thị trường rộng lớn ở tất cả các châu lục.
3
ĐCSVN Sđd. tr 112.
10
Toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta có cơ hội hút được
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chúng ta cần có vốn đầu tư lớn khoảng trên 300 tỷ USD, trong khi đó khả
năng huy động vốn trong nước khoảng hơn 200 tỷ USD, còn lại là phải huy
động vốn nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp, hoặc vay vốn ODA và
vốn vay thương mại. Trong 5 năm (2001 - 2006) để có tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm 7,5%, nhu cầu tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần khoảng hơn
6 tỷ đô la/năm, chiếm trên 30% GDP. Vốn trong nước khoảng 60 - 65%, vốn
nước ngoài 35 - 40%. Theo thống kê, tính đến hết năm 2001, nước ta nhận
được khoản cam kết ODA gần 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được gần 10 tỷ;
về vốn FDI, cho đến nay đã có trên 3600 dự án với tổng số vốn đăng ký là 42
tỷ USD, thực hiện được khoảng 22 tỷ, làm cho thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài ở nước ta tăng lên chiếm tỷ trọng khoảng 13% GDP và có tốc
độ tăng trưởng 20%/ năm. Hiện nay việc tranh thủ các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tuy có nhiều khó khăn, song nước ta có nhiều tiềm năng rất lớn. Vì hiện
nay lượng vốn của các nước và các công ty đa quốc gia đầu tư ra nước ngoài
hàng năm lên tới 800 tỷ USD, trong đó đầu tư vào các nước đang phát triển
chiếm 1/3, vì vậy chúng ta cần tranh thủ những cơ hội đó để thu hút vốn đầu
tư, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh đó, toàn cầu hoá, và sự hội nhập kinh tế thế giới cho chúng ta
cơ hội tiếp nhận và đổi mới trang thiết bị, nhất là khoa học công nghệ hiện
đại. Là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận công nghệ
tiên tiến của các nước phát triển, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tham gia vào nền kinh
tế toàn cầu, nước ta có cơ hội được hưởng những thành quả tiến bộ của khoa
học và công nghệ mới, đó là một cơ hội cho những nước chậm phát triển như
nước ta. Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
11
đang diễn ra nhanh chóng, thông qua nhiều hình thức và nhiều kênh thông tin
khác nhau; phổ biến nhất là chuyển giao công nghệ, nhờ đó các nước đang
phát triển, nhất là nước ta có thể thực hiện và rút ngắn quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đòi hỏi
phải có tiền đề về khoa học - công nghệ của quốc tế. Trước đây tiền đề quốc
tế chủ yếu, quan trong nhất là sự giúp đỡ về kinh tế, kỹ thuật của các nước xã
hội chủ nghĩa tiên tiến, ngày nay tiền đề quốc tế quan trọng nhất chính là cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Sử dụng tiền đề đó, thực
chất là chủ động tiếp cận những thành quả kinh tế, khoa học công nghệ của
nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại thông qua con đường hợp
tác, giao lưu kinh tế quốc tế, thông qua dòng chảy mạnh mẽ của xu hướng
toàn cầu hoá. Nếu không tận dụng được những cơ hội thuận lợi do cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại mang lại, thì chúng ta không có được những
điều kiện về kinh tế - kỹ thuật, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì vậy đòi hỏi
chúng ta phải có chiến lược hội nhập đúng đắn. Biết nắm bắt, tận dụng tốt
khoa học - công nghệ hiện đại chúng ta sẽ phát triển nhanh, bền vững kinh tế xã hội, đẩy nhanh được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những thành tựu sau hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh: Do áp dụng tốt
khoa học - công nghệ tiên tiến chúng ta đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc
biệt lĩnh vực kinh tế tăng trưởng khá năng động, chính trị an ninh được giữ
vững, đời sống nhân dân được cải thiện, đất nước đã thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội, thế và lực của ta ngày càng được nâng cao.
Hiện nay chúng ta tham gia vào thị trường khu vực và thế giới với tư cách là
một thành viên bình đẳng, có môi trương đầu tư thuận lợi, nhiều mặt hàng
xuất khẩu chủ lực có lợi thế trên trường quốc tế, chúng ta có nhiều tiềm năng
về tài nguyên, du lịch, về con người, về vị trí địa chính trị, và môi trường hoà
bình ổn định. Đây là cơ sở để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
12
Nam, tạo tiền đề cho chúng ta tiếp cận tốt khoa học - công nghệ hiện đại, để
phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Hơn nữa, quá trình mở cửa giao lưu cũng tạo điều kiện cho chúng ta
phát huy được nội lực. Nước ta hiện nay với dân số khoảng hơn 86 triệu
người, chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, với những đức tính thông minh,
cần cù, sáng tạo; nhưng nếu đứng ngoài toàn cầu hoá thì việc sử dụng nguồn
nhân lực đó sẽ rất lãng phí và không hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để khai thác, sử dụng tốt nguồn nhân lực của đất nước. Thông qua hội
nhập kinh tế quốc tế, quá trình phân công lao động mới và xã hội hoá lao
động sẽ diễn ra nhanh chóng, chắc chắn chất lượng nguồn nhân lực nước ta sẽ
được nâng cao.
Mặt khác, quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển, tạo
cơ hội cho sự chuyển đổi từ lao động giản đơn sang lao động kỹ thuật máy
móc ở nước ta diễn ra nhanh chóng. Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các
nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận vào các thị
trường một cách bình đẳng, và họ được làm quen với môi trường cạnh tranh
khắc nghiệt của cả thị trường trong và ngoài nước, vì vậy bắt buộc phải đổi
mới cách tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị, tiếp thu những
phương pháp quản lý tiên tiến, mới không ngừng nâng cao được sức cạnh
tranh của mình, tiến hành hội nhập kinh tế thế giới và khu vực có hiệu quả.
Về khó khăn và thách thức, toàn cầu hoá đem lại cho chúng ta nhiều cơ
hội, song bên cạnh đó hệ quả của nó cũng để lại cho chúng ta không ít những
khó khăn, thách thức. Những thách thức đó vừa mang tính thời đại, vừa mang
tính đa dạng phức tạp. Có những thách thức mang tính nhất thời, song phần
lớn là những thách thức lâu dài; có những thách thức đã lộ diện, có thể dự
đoán được, nhưng cũng có những thách thức còn tiềm ẩn mà hậu quả của nó
để lại khó lường, vì vậy trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
13
chúng ta cần nhận thức đầy đủ những thách thức cơ bản để có đường lối chiến
lược, sách lược sát đúng. Những thách thức cơ bản đó là:
Về kinh tế, có thể thấy rằng những thách thức về kinh tế từ môi trường
toàn cầu hoá đem lại cho nước ta hiện nay, là những thách thức lớn và phức
tạp. Có những khó khăn thử thách đơn thuần về kinh tế như cạnh tranh trên
trường quốc tế, nhưng cũng có những thách thức kinh tế gắn chặt với chính
trị, như tạo khó khăn, gây sức ép chính trị đối với nước ta. Nếu không vượt
qua được những thách thức từ bên ngoài về kinh tế, thì không thể xoá bỏ được
nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Những năm qua, mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội, quan trọng đáng khích lệ, nhưng về cơ bản nước ta vẫn là nước đang
phát triển, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ điểm xuất phát thấp,
GDP bình quân đầu người được xếp vào loại thấp trên thế giới. Hội nhập kinh
tế thế giới trong môi trường cạnh tranh khóc liệt, đây là thách thức lớn đặt ra
cho chúng ta cần giải quyết. Mặt khác, nước ta không những là nước đang
phát triển, mà còn là nước xã hội chủ nghĩa, do đó thách thức về kinh tế từ tác
động của toàn cầu hoá lại càng phức tạp hơn. Hiện nay trên bình diện chung,
khoảng cách về trình độ phát triển của Việt Nam so với các nước có nền kinh
tế công nghiệp phát triển mới (NICS ) là khoảng 30 năm, với Thái Lan
khoảng 20 năm, với Trung Quốc khoảng 10 năm, mặc dù hơn 20 năm qua
chúng ta đã nổ lực rất lớn, có nhiều bước phát triển vượt bậc, song khoảng
cách chênh lệch về trình độ phát triển vẫn chưa được cải thiện nhiều, thậm chí
có một số mặt, một số lĩnh vực khoảng cách chênh lệch có xu hướng ngày
càng lớn hơn.
Nguy cơ tụt hậu về kinh tế biểu hiện rõ rệt, khi sức cạnh tranh của Việt
Nam còn yếu, năm 2000 Việt Nam đứng thứ 53/59, và năm 2001 đứng thứ
62/69 những nước có hoạt động ngoại thương khá. Máy móc, trang thiết bị
14
khoa học, công nghệ thuộc tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nước
ta còn ở trình độ thấp hơn các nước trung bình của thế giới từ 1 đến 3 thế hệ,
nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm; chính vì
năng suất lao động thấp, giá thành cao, nên việc tiếp cận, chiếm lĩnh thị
trường khu vực và thế giới của sản phẩm Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn,
nhiều mặt hàng phải chịu thua thiệt, không những trên thị trường quốc tế mà
còn phải chịu lép vế ngay ở thị trường trong nước. Việc gia nhập WTO là một
thuận lợi lớn, nhưng đồng thời là một thách thức đối với chúng ta. Gia nhập
WTO chúng ta phải chia sẽ thị trường trong nước với các đối tác nước ngoài,
kể cả các lĩnh vực mà lâu nay các nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh, chúng ta
phải giảm thuế nhập khẩu, sản xuất trong nước phải đương đầu với việc
không được nhà nước bảo trợ như trước đây. Các doanh nghiệp, trong đó có
cả doanh nghiệp nhà nước quản lý, dễ rơi vào tình trạng bị phá sản do hiểu
biết không đầy đủ về hội nhập kinh tế quốc tế.
Cách mạng khoa học, công nghệ cùng với sự phát triển của kinh tế trí
thức tạo thời cơ và vận hội cho nước ta đi tắt đón đầu, để tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường rút ngắn. Nhưng những vấn
đề đặt ra cho việc đi tắt đón đầu không hề đơn giản; trước hết là vấn đề yêu
cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực, trong khi đó đối với nước ta, lao
động giản đơn là cơ bản, kỹ thuật tay nghề còn thấp, mức lương cơ bản chưa
cao, tính ổn định nghề nghiệp còn nhiều phức tạp ... đó là những nhược điểm
cơ bản mà chúng ta chưa thể nhanh chống khắc phục được. Bên cạnh đó để
rút ngắn tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần thu
hút vốn và đầu tư nước ngoài; nhưng sự cạnh tranh giữa các nước, đặc biệt là
các nước Châu Á và Đông Nam Á, thì sự cạnh tranh về vốn, thu hút đầu tư
ngày càng trở nên gay gắt hơn. Vấn đề vay vốn, công nghệ và sử dụng vốn có
hiệu quả cũng là một thách thức lớn đối với chúng ta. Thể hiện, hiệu quả sử
15
dụng nguồn vốn vay cho các dự án còn thấp và chưa được chú ý đúng mức;
hiệu quả kinh tế của dự án chưa cao, đầu tư vào dự án không đúng mục đích,
bên cạnh đó vốn đầu tư còn bị thất thoát bởi tệ quan liêu, tham nhũng.
Mặt khác do tác động của toàn cầu hoá, sự phân hoá giàu nghèo giữa
các tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền ngày càng gia tăng, đó là những
vấn đề nan giải do mặt trái của quá trình toàn cầu hoá đem lại. Mặc dù bản
chất của chế độ ta khác với các nước tư bản; Đảng và nhà nước ta đã có
những chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, thực hiện chính sách xoá đói
giảm nghèo đạt hiệu quả cao, song chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn
được mặt trái của toàn cầu hoá, trong đó vấn đề thất nghiệp gia tăng, sự
phân hoá giàu nghèo kéo theo những vấn đề xã hội phức tạp khác. Khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá, đối với các vấn đề xã hội và bảo
vệ môi trường để bảo đảm vừa tăng trưởng nhanh, vừa ổn định bền vững là
một thách thức lớn đối với nước ta.
Hơn nữa, việc giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội
nhập kinh tế thế giới, dưới sự tác động của toàn cầu hoá là một thách thức lớn
đối với nước ta. Xương sống của quá trình toàn cầu hoá hiện nay là do hơn
60.000 công ty xuyên quốc gia, với hơn 500.000 chi nhánh ở khắp nơi trên
thế giới hợp thành; các công ty này có tham vọng cùng nhau thống trị nền
kinh tế thế giới, trong khi đó một nền kinh tế nhỏ bé như nước ta rất khó có
thể đương đầu với các chính sách xâm nhập bành trướng của các công ty này,
đặt ra vấn đề bảo đảm nền kinh tế độc lập tự chủ là một thách thức lớn.
Thực tế ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp bị mất thị trường trong nước
đã xảy ra; nhiều doanh nghiệp liên doanh vì nhiều lý do đã chuyển thành
công ty 100% vốn nước ngoài, nếu tình trạng này còn tiếp tục sẽ làm gia
tăng nguy cơ mất độc lập về kinh tế. Việc giữ vững nền kinh tế độc lập tự
chủ còn gặp nhiều khó khăn bởi còn nhiều yếu tố khác, như sức cạnh tranh
16
yếu, phụ thuộc vào vốn nước ngoài, khoa học kỹ thuật, công nghệ và chịu
sức ép trong ký kết các cam kết quốc tế. Do vậy chúng ta cần nhận thức
rằng, việc đảm bảo nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá,
là một việc làm hết sức khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tối đa nổ
lực chủ quan mới giành được thắng lợi.
Về chính trị, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực tạo ra
những thách thức mới đối với sự ổn định chính trị của đất nước, với vai trò
lãnh đạo của Đảng, chính quyền nhà nước và đối với an ninh quốc gia. Đồng
thời cũng là thách thức lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Những năm 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, lợi dụng cơ hội
đó, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức chống phá các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm, đây là thách thức
chính trị lớn nhất đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Những tác động đó còn ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực của nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Mặt khác
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, vì lợi ích của sự nghiệp xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ động hội nhập, chấp
nhận luật chơi của toàn cầu hoá, trong đó tác động mặt trái của nó không chỉ
về kinh tế mà cả về chính trị, tư tưởng, điều này chúng ta cần phải nhận thức
đúng. Quá trình toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của thời đại, song hiện
nay cơ bản là do chủ nghĩa tư bản chi phối, vì vậy toàn cầu hoá không đem lại
mọi cơ hội và lợi ích cho các nước như nhau, trái lại các nước phải chịu sức
ép, những điều kiện mà chủ nghĩa tư bản áp đặt: ví du như lợi dụng vấn đề
viện trợ kinh tế, vay vốn ODA, vấn đề đầu tư ... để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước, thông qua các hoạt động kinh tế để thực hiện mục đích chính
17
trị, can thiệp vào chủ quyền quốc gia các dân tộc. Đối với nước ta, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có cũng
cố được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, ngược lại, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc. Những
thách thức đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng chính là những
thách thức đe doạ nền độc lập dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế, đứng đầu là đế quốc
Mỹ đang ra sức chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, lợi dụng chiêu bài
nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo ...để thực hiện chiến lược xoá bỏ tất cả các
chế độ chính trị không phục tùng sự thống trị của chúng. Quá trình toàn cầu hoá,
Mỹ và phương tây không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”, đặc
biệt chiến lược ấy còn nguy hiểm hơn nhiều khi gắn liền với kinh tế, vì vậy
chúng ta phải thấy được những toan tính của chủ nghĩa đế quốc sử dụng các biện
pháp kinh tế để thực hiện âm mưu xâm phạm độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc.
Những diễn biến của tình hình thế giới trở nên đặc biệt phức tạp kể từ
sau sự kiện 11/9/2001. Lợi dụng chiêu bài chống khủng bố, Mỹ ra sức can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước, bất chấp cả luật pháp quốc tế, vì vậy
chúng ta phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, lợi dung kinh tế để thực hiện mục tiêu chính trị.
Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang trong giai đoạn hình thành, hệ
thống luật pháp của ta chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, còn thiếu nhiều bộ
luật liên quan đến lĩnh vực kinh tế đối ngoại, những luật lệ hiện hành có
mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Đội ngũ cán bộ còn yếu cả về năng
lực chuyên môn, kỹ năng hoạt động lẫn trình độ ngoại ngữ, nhìn chung yếu
18
cả chất lượng và thiếu cả số lượng. Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp
chưa sẵn sàng bước vào hội nhập.
Về văn hoá: Đây cũng là một trong những thách thức rất đáng kể. Thực
tế cho thấy bất cứ các công ty xuyên quốc gia nào muốn đầu tư vào nước
khác, thì trước tiên họ phải tìm hiểu về văn hoá, phong tục tập quán, ngôn
ngữ, lịch sử địa lý, tín ngưỡng tôn giáo ... ở các quốc gia mà họ đầu tư vào
sản xuất. Quá trình toàn cầu hoá kéo theo sự lan tràn lối sống văn hoá phương
tây, là một thách thức lớn đối với nền văn hoá nước ta. Cùng với toàn cầu hoá
và sự hội nhập kinh tế thế giới, là toàn cầu hoá về văn hoá, ngôn ngữ, lối sống
và quan niệm giá trị, là đòn tấn công mạnh mẽ của văn hoá phương tây đối
với các dân tộc, các nước đang phát triển, chậm phát triển. Sự rối loạn văn
hoá tinh thần và sự rạn nứt quan niệm giá trị toàn cầu, nổ ra cùng một lúc với
hàng loạt các hiện tượng tội phạm xã hội, kết hợp với sự tràn lan của các tà
giáo và bằng nhóm tội phạm… trở thành những thách thức đe doạ sự ổn định
an ninh, chính trị, xã hội ở nước ta hiện nay. Mặt khác, quá trình hội nhập
kinh tế thế giới, các luồng văn hoá bên ngoài cũng có điều kiện thâm nhập
vào nước ta làm cho văn hoá dân tộc, văn hoá truyền thống bị xói mòn,
nghiêm trọng nhất là văn hoá chính trị bị suy giảm, ý thức hệ bị lủng đoạn,
điều đó sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Thực tế cho thấy, các nước phương tây, lấy toàn cầu
hoá làm công cụ, ra sức truyền bá những quan niệm về giá tri, văn hoá, tư
tưởng của họ, thực hiện chính sách “thực dân văn hoá”, can thiệp vào công
việc chính trị, ngoại giao, làm suy yếu ý chí dân tộc, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc, biến họ thành nước lệ thuộc. Theo cách đó, họ hy vọng sẽ giành
được thắng lợi triệt để, và lâu dài hơn, so với dùng sức mạnh quân sự. Sự du
nhập ý thức hệ tư sản, đã trở thành một trong những biện pháp cơ bản để một
số nước lớn phương tây, thực hiện diễn biến hoà bình đối với các nước khác,
19
thậm chí trở thành mối hiểm hoạ gây nên những biến động ở các nước. Trào
lưu toàn cầu hoá tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phương tây sử dụng hệ
thống truyền thông hiện đại, nhằm thực hiện tuyên truyền đa nguyên về chính
trị, tư nhân hoá về kinh tế, phi chính trị hoá Quân đội, phân trị hoá lãnh thổ và
phương tây hoá lối sống. Đó là những thách thức về văn hoá mà chúng ta phải
nắm bắt cơ hội, nhận rõ những thách thức, để vượt qua thử thách, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về xã hội: Đây cũng là một thách thức hết sức nghiêm trọng đối với tất
cả các nước, cũng như nước ta hiện nay. Cùng với toàn cầu hoá, các tệ nạn xã
hội ngày càng gia tăng, như đại dịch HIV - AIDS, nạn tham nhũng, nạn buôn
lậu, nạn tà giáo, sự di dân bất hợp pháp, sự gia tăng tội phạm có tổ chức, nạn
khủng bố ...đó thực sự là những thách thức đối với nền văn minh thế giới,
cũng như là vấn đề xã hội còn nhấc nhối ở nước ta, trong quá trình hội nhập
kinh tế thế giới và khu vực hiện nay.
Về môi trường sinh thái: Đây là thách thức đối với tất cả các quốc gia, các
khu vực, và cả thế giới. Hiện nay thách thức này là một trong những vấn đề toàn
cầu bức bách nhất; nếu không có biện pháp hữu hiệu của cộng đồng quốc tế, sẽ
đe doạ đến mạng sống của con người, và sự tồn tại của hành tinh chúng ta.
Như vậy, có thể nói rằng, hệ quả của toàn cầu hoá, đang đặt ra hàng loạt
vấn đề hết sức khó khăn cho tất cả các nước đang phát triển, cũng như nước ta
hiện nay trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Đó chính là những vấn đề toàn
cầu mà nhân loại đang và sẽ đối mặt. Nhận thức đầy đủ các vấn đề này, và tìm ra
lối thoát, vượt qua thử thách là một đòi hỏi cấp thiết của cách mạng nước ta hiện
nay. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nêu cao tinh thần cách mạng
tiến công, vượt qua thử thách, thực hiện tốt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát huy tốt những cơ hội, thuận lợi, hạn chế
thấp nhất những tác động tiêu cực của hệ quả toàn cầu hoá, quá trình hội nhập
20
kinh tế thế giới và khu vực chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản
sau:
Một là, Giải pháp về kinh tế, cần xây dựng chiến lược đồng bộ phát
triển nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập, định hướng rõ ngành, lĩnh vực nào
được ưu tiên, dựa trên cơ sở lợi thế so sánh để phát triển, từ đó xây dựng hệ
thống thuế quan hợp lý, phù hợp với qui định của các thông lệ quốc tế như
quy định của WTO, WB, IMF… Xây dựng một hệ thống chính sách khuyên
khích và hổ trợ doanh nghiệp, đặc biệt không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách và nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp Nhà nước. Khuyến khích các thành phần khác nhau phát triển
trong môi trường luật pháp bình đẳng, có biện pháp bảo vệ quyền lợi của các
doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Xây dựng và phát triển các mô
hình doanh nghiệp mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Điều chỉnh các quy định về quyền kinh doanh xuất khẩu theo hướng có lợi
cho mọi thành phần kinh tế tham gia, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh
nghiệp làm hàng xuất khẩu, tiến hành cải cách thủ tục hải quan theo thông lệ
chung. Cần nghiên cứu và sớm phân loại dịch vụ thương mại, có quy định cụ
thể về lộ trình mở cửa thị trường thương mại mậu dịch ở tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông …Xoá bỏ dần sự
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh trong nước và tăng khả năng cạnh tranh của ta trong việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến
và nông phẩm, hải sản, các ngành có lợi thế cạnh tranh trong khu vực và thế
giới. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp và các chính sách huy động
vốn, phát huy các nguồn vốn bên trong, coi đó là nền tảng để thu hút các nguồn
vốn bên ngoài. Giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng hợp tác
quốc tế. Điều chỉnh hệ thống pháp lý và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nhanh chống
21
hoàn chỉnh hệ thống pháp lý trong lĩnh vực kinh tế. Khẩn trương đào tạo đội ngũ
cán bộ đáp ứng những yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập hiện nay.
Hai là, giải pháp về chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế và toàn xã hội trong quá
trình hội nhập. Hoàn thiện hành lang pháp lý theo chuẩn quốc tế. Mở rộng
dân chủ, đi đôi với giữ vững kỹ cương phép nước, xây dựng hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa trong sạch vững mạnh, đảm bảo môi trường hoà bình, ổn
định thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Nhà
nước có đủ phẩm chất năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới, nâng cao chế độ trách nhiệm, đấu tranh chống bệnh quan liêu,
loại bỏ những phần tử tham nhũng, thoái hoá, biến chất ra khỏi bộ máy của
Đảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành. Không ngừng tăng cường, củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đồng thời thường xuyên đấu tranh không khoan nhượng đối với các hành
động của các thế lực thù địch, nhằm lợi dụng hội nhập kinh tế để thực hiện
mục đích chính trị, các hành động can thiệp vào công việc nội bộ, gây áp lực
buộc ta phải lệ thuộc, hoạt động “diễn biến hoà bình”, tuyên truyền đa nguyên
đa đảng, phi chính trị hoá quân đội, hành động can thiệp hoặc đe doạ can
thiệp quân sự… Thực hiện tốt quan điểm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
đối ngoại của Đảng, nhằm tạo vị thế của ta ngày càng cao trên trường quốc tế,
đảm bảo độc lập tự chủ, hoà bình ổn định để phát triển đất nước.
Ba là, giải pháp về văn hoá, xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế nước ta
phải gắn với độc lập tự chủ về chính trị quốc gia dân tộc. Trước âm mưu thủ
đoạn của kẻ thù ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với
“bạo loạn lật đổ” và sẵn sàng can thiệp bằng quân sự. Để bảo đảm sự toàn vẹn
về chủ quyền lãnh thổ tạo môi trường hòa bình ổn định cho phát triển kinh tế,
chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhưng cũng phải chủ động đấu
22
tranh với những hiện tượng phản văn hoá, những khuynh hướng sùng ngoại,
lai căng, mất gốc; khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi
thường các giá trị nhân văn; kiên quyết đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư
sản; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, trên cơ sở giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đi đôi với thực hiện tốt các chính sách văn hoá, phải tổ chức và thực
hiện tốt các chính sách xã hội. Tiến hành tốt công tác xoá đói giảm nghèo,
thực hiện tốt các chính sách xã hội như giáo dục, y tế, dân số kế hoạch hoá
gia đình, bảo hiểm, quan tâm đôi với người có công với cách mạng…. Kiên
quyết đấu tranh xoá bỏ các tệ nạn xã hội, tệ quan liêu tham nhũng, nạn
buôn lậu, nạn tà giáo, sự di dân bất hợp pháp, sự gia tăng tội phạm có tổ
chức. Đồng thời làm tốt công tác bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tài
nguyên khoáng sản quốc gia.
Như vậy, thực hiện tốt những nội dung biện pháp trên, là cơ sở để
Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chính sách chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, cũng như khắc phục những hệ quả
tiêu cực do những tác động của toàn cầu hoá đem lại. Nhận thức sự ảnh
hưởng do tác động của toàn cầu hoá, quân đội nhân dân Việt Nam với tư
cách là một thành viên trong hệ thống chính trị, thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình tất yếu cũng bị ảnh hưởng tác động của toàn cầu hoá
như yêu cầu phải đổi mới vũ khí trang thiết bị, xây dựng cơ cấu tổ chức
biên chế, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn...