Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH lí LUẬN CHỦ NGHĨA xã hội từ THỰC TIỄN CÁCH MẠNG THÁNG 10 NGA và sự vận DỤNG TRONG lựa CHỌN CON ĐƯỜNG đi lên CNXH ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.71 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là
một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế
độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và
trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội mà tiểu luận
đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong
thời đại ngày nay.
Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế
giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mặc nhiên coi như đã được
khẳng định. Nhưng từ sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở
nhiều nước, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã
hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh
luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thừa cơ dấn tới để xuyên
tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động,
nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan
rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chủ nghĩa xã hội là con
đường sai lầm, cần phải đi con đường khác. Có người phụ họa với các luận điệu
thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư
bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa MácLênin và con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy vì sao Việt Nam lựa chọn con đường
xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Tiểu luận “Lý luận chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn
cách mạng Tháng Mười Nga và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay” xin được luận
giải cơ sở lý luận, thực tiễn và mô hình xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây
dựng nhìn từ góc độ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

1


NỘI DUNG


1. Sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga đã đưa chủ nghĩa xã
hội từ lý luận trở thành hiện thực.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười nga năm 1917 thành công, nước
Nga bước vào giai đoạn cách mạng mới, vừa đấu tranh bảo vệ chính quyền cách
mạng còn non trẻ vừa phải phát triển kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng, đòi hỏi phải
phát triển lý luận cách mạng đáp ứng tình hình mới trong nước Nga và thế giới.
Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ này được thực hiện
trên nhiều vấn đề nhưng tập trung chủ yếu nhất là những vấn đề mà cách mạng
nước Nga và thế giới đang đặt ra và phải giải quyết.
1.1. Phát triển lý luận chuyên chính vô sản và dân chủ vô sản
VI.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội, xét
lại, bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, trong đó vấn đề chuyên chính vô sản là
vấn được VI.Lênin quan tâm đặc biệt. Ông cho rằng, chuyên chính vô sản là vấn
đề cốt lõi xuyên suốt toàn bộ học thuyết Mác, là “hòn đá thử vàng” với lập
trường của những người mácxít và còn nhấn mạnh rằng “chỉ người nào mở rộng
việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì
mới là người Mác-xít”
Thông qua các tác phẩm như: “Nhà nước và cách mạng” (1917); “cách
mạng vô sản và tên phản bội Kauxky” (1918) và nhiều tác phẩm khác, tư tưởng
về chuyên chính vô sản đã được phát triển hoàn thiện. Trong đó VI.Lênin chỉ ra
khái niệm về chuyên chính vô sản, người cho rằng: chuyên chính vô sản là “việc
tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để
trấn áp bọn áp bức”. Như vậy, trong khái niệm này, nội dung cốt lõi của chuyên
chính vô sản được thể hiện, đó là giai cấp công nhân phải tổ chức thành giai cấp
cầm quyền. Chính quyền đó phải thuộc về một giai cấp duy nhất, là giai cấp
công nhân. Tính chất của chuyên chính vô sản: là công cụ của cách mạng vô
sản, là sự thống trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. Khối công nông
dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản là chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai
hết và trực tiếp dựa vào vũ trang của quần chúng. Trong đó Đảng của giai cấp

vô sản là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo đó để đảm
2


bảo cho nền chuyên chính vô sản vững mạnh, hoàn thành được chức năng nhiệm
vụ của mình. VI.Lênin chỉ rằng: trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn
đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột.
Nếu không có Đảng lãnh đạo, thì giai cấp vô sản và nhân dân lao động không
thể lật đổ giai cấp tư sản, không thể giành được thắng lợi của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội
Mặt khác VI.Lênin cũng chỉ rõ nội dung của chuyên chính vô sản, nó bao
gồm hai mặt: chuyên chính và dân chủ. Đây là hai mặt đối lập gắn bó với nhau
cùng tồn tại chuyên chính để thực hiện, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ
xã hội xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử, nhưng không
phải dân chủ hoàn toàn mà phải thực hiện chuyên chính với thiểu số bọn bóc lột,
chống đối. Và sự chuyên chính này không thể nương nhẹ mà phải tiến hành cương
quyết, chừng nào còn những kẻ bóc lột, còn sự khác biệt giai cấp thì còn phải thực
hành chuyên chính.Theo VI.Lênin: “Thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô
sản một nền chuyên chính sẽ bẻ gẫy được sự phản kháng quyết liệt của các giai
cấp bóc lột bị gạt ra khỏi chính quyền”.
Tuy nhiên, trong chuyên chính vô sản cái bản chất nhất của nó chính là ở
mặt dân chủ, tất nhiên là dân chủ với nhân dân và sẽ tước bỏ dân chủ với bọn
bóc lột. Người khẳng định: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp
bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với
bọn chúng”. Thêm nữa VI.Lênin còn vạch rõ chuyên chính vô sản là một nhà
nước kiểu mới, “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ với những người vô sản
và nói chung với những người không có của) và chuyên chính kiểu mới chống
lại giai cấp tư sản”.
Nói về hình thức chuyên chính vô sản: Qua đúc kết kinh nghiệm lịch sử,

kinh nghiệm từ công xã Pari 1871 và cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất 1905,
VI.Lênin đã nêu lên tính muôn hình muôn vẻ của các hình thức chính trị của
chuyên chính vô sản. Người khẳng định rằng: sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra tính muôn hình, muôn vẻ của hình thức chính quyền
nhà nước của giai cấp vô sản, song thực chất chúng chỉ là một: đó là “chuyên
3


chính vô sản” của giai cấp công nhân. Sau khi lãnh đạo phong trào cách mạng
Nga thành công, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, nhà nước Xô viết
ra đời, VI.Lênin cho rằng, về hình thức của chuyên chính vô sản thì tiếp theo sau
công xã Pari là chính quyền Xô viết Nga, một thành quả từ cách mạng Tháng
Mười. Với thực tế ở một số nước, VI.Lênin còn chỉ ra một hình thức chuyên
chính vô sản mới là chính quyền dân chủ nhân dân. Chế độ này phản ánh tính
chất độc đáo của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm lịch sử dân tộc của
những nước đó.
Để chuyên chính vô sản tồn tại và phát triển VI.Lênin luận giải cơ sở của
nó: theo VI.Lênin đó là sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, với toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Cơ
sở khách quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất của các quyền lực cơ bản
về kinh tế, chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao
động. Và người chỉ rõ: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ
vững bền, không thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được”.
Đề cập về nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, theo VI.Lênin đó là phải thủ
tiêu mọi chế độ người bóc lột người, là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có một chế độ quản lý mới thực sự có
tính nhân dân và được xây dựng theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Khi phê
phán quan điểm của kẻ thù cho rằng chuyên chính vô sản là sự kích động bạo
lực của quần chúng chống chính quyền, VI.Lênin đã chỉ rõ, chuyên chính vô sản
không chỉ là bạo lực với bọn bóc lột, mà còn có chức năng chủ yếu là việc tổ

chức xây dựng thành công xã hội mới. Đây mới là thực chất của chuyên chính
vô sản.
Với sự phát triển của VI.Lênin về chuyên chính vô sản gắn liền với học
thuyết về đấu tranh giai cấp. Nếu như từ những năm 1852, C.Mác đã khẳng định
rằng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, thì đến khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính vô sản của mình, VI.Lênin tiếp tục khẳng định: cuộc đấu tranh giai cấp
chưa chấm dứt mà diễn ra dưới hình thức mới, nội dung mới và điều kiện mới.
Trong đó tất yếu phải tăng cường sức mạnh của nhà nước chuyên chính vô sản để
trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột tuy bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu
4


diệt hẳn; để tiến hành cải tạo xã hội cũ, làm sạch môi trường xã hội và để tổ chức
được một kiểu sản xuất xã hội mới, tăng nhanh năng xuất lao động tạo cơ sở
chiến thắng hoàn toàn xã hội tư bản chủ nghĩa.
Đến đây, chúng ta thấy sự trung thành và kế thừa sáng tạo, tư tưởng về
chuyên chính vô sản của C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng đó tiếp tục được
VI.Lênin bảo vệ và phát triển một cách toàn diện, từ tính chất, chức năng, nhiệm
vụ, hình thức và cả những yêu cầu cần thiết để duy trì và tăng cường nền chuyên
chính vô sản của giai cấp công nhân trong giai đoạn giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cầm quyền, tiến hành xây dựng một xã hội mới. VI.Lênin còn chỉ
rõ là, sự lãnh đạo của Đảng là điều cốt yếu trong nền chuyên chính vô sản.
Không có sự lãnh đạo của Đảng thì không giữ vững được bản chất của nền
chuyên chính vô sản, không thực hiện được thắng lợi của sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
Công lao của VI.Lênin không chỉ ở việc phát triển tư tưởng về chuyên chính vô
sản của C.Mác - Ph.Ăngghen lên đến hoàn thiện, mà người đã lãnh đạo giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Nga thực hiện thành công cách mạng Tháng Mười, thiết
lập nên một nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, vạch ra cho Đảng cộng sản và

phong trào cách mạng các nước nhìn thấy con đường, bước đi để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở từng nước.
1.2. Về cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã khái quát về mặt lý luận và thực tiễn công cuộc cải tạo và xây dựng
kinh tế, kinh nghiệm của quần chúng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xây dựng đời sống mới. Những khái quát đó đã được Lênin nêu lên thành những
luận điểm khoa học trong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, bao
gồm nhiều nội dung quan trọng từ chính sách phát triển kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, đến những nguyên tắc quản lý kinh tế trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Điểm mấu chốt trong chính sách kinh tế của Lênin nêu lên trong thời kỳ
này trước hết là vấn đề tư liệu sản xuất. Lênin cho rằng: cần phải xã hội hóa
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Tiến hành xã hội hóa tư liệu sản xuất
bằng cách tước đoạt triệt để tư liệu sản xuất của các giai cấp bóc lột như nhà
5


máy, xí nghiệp, ruộng đất…Người chủ trương tiến hành xã hội hóa tư liệu sản
xuất bằng những biện pháp và phương pháp khác nhau, nhằm xây dựng chủ
nghĩa xã hội một cách hòa bình.
Mặt khác, trong các biện pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Lênin chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế. Sử dụng các
chuyên gia tư sản trong phát triển một số ngành kinh tế của đất nước. Tô nhượng,
một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, cũng được Lênin chú trọng sử dụng.
Trong chính sách kinh tế, chủ trương phát triển cả kinh tế nông nghiệp và
công nghiệp; sự phối hợp, hỗ trợ nhau sẽ tạo điều kiện cho cả hai cùng phát triển.
Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền sản xuất nông nghiệp: xã hội hóa
tư liệu sản xuất chủ yếu, đưa nông dân vào làm ăn trong các nông trang tập thể.
Người chỉ rõ: giai cấp công nhân cần tham gia tích cực giúp đỡ nông dân trong
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
Theo Lênin, muốn có một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển cả về công

nghiệp và nông nghiệp, điều trước tiên phải làm là điện khí hóa; Lênin nhấn
mạnh: “chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn
quốc”. Từ cuối những năm 1920, tư tưởng điện khí hóa của Lênin bắt đầu được
thực hiện và từng bước thu được thắng lợi quan trọng.
Trong kế hoạch xây dựng kinh tế, Lênin chú trọng đến việc cần phải áp dụng
triệt để những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Bên cạnh
đó vấn đề tổ chức, quản lý lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra
năng suất lao động cao của chủ nghĩa xã hội. Lênin chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản khi đưa ra một kiểu tổ chức sản xuất xã hội có
năng xuất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin, cả trong thời kỳ
“chính sách kinh tế mới” là sự thống nhất và phát triển những tư tưởng về xây dựng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội được Người vạch ra từ mùa xuân năm 1918. những tư
tưởng ấy góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn những tư tưởng lý luận của chủ
nghĩa xã hội khoa học trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực.
1.3. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
6


Phát triển lý luận thời kỳ quá độ của C.Mác - Ph.Ănghen, trong tác phẩm
“Nhà nước và cách mạng”, Lênin cho rằng: trong hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa bao gồm thời kỳ quá độ, giai đoạn thấp - chủ nghĩa xã hội và giai
đoạn phát triển cao là chủ nghĩa cộng sản.
Đặc biệt, Lênin còn chỉ rõ trong tiến trình phát triển của lịch sử, nhân loại
có thể bỏ qua một vài hình thái kinh tế xã hội để xây dựng một hình thái kinh tế
- xã hội mới phù hợp với những điều kiện lịch sử cho phép. Trong thời đại ngày
nay, theo Lênin, vấn đề bỏ qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển là vấn đề hợp quy luật phát triển
của lịch sử.
Mặt khác, Lênin nhấn mạnh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cuộc

đấu tranh giai cấp vẫn tiếp diễn. tính chất của cuộc đấu tranh ấy không kém phần
gay go, quyết liệt, phức tạp. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra trong điều kiện mới, dưới
hình thức mới, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.4. Về vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917
thắng lợi, Lênin đã đặt vấn đề cần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trung thành
với lý luận của C.Mác, Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội tồn tại bên cạnh chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, nên thành quả cách mạng của giai cấp công
nhân, chỉ có thể được giữ vững khi nó biết tự bảo vệ. Lênin nhấn mạnh: kể từ
ngày 25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là những người chủ bảo vệ Tổ quốc, nhưng
cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là một đơn vị
trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, theo quan điểm của Lênin chính là bảo vệ
thành quả cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở từng quốc gia dân tộc. Nó là một bộ phận trong công cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân thế giới.
Lênin cũng đề cập đến nội dung và lực lượng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Những nội dung bao gồm cả bảo vệ độc lập dân tộc, những thành tựu
kinh tế và chế độ xã hội chủ nghĩa. Lực lượng bảo vệ đó là quần chúng được vũ
7


trang dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản mà nòng cốt là Quân đội - Hồng quân
công nông.
Những luận điểm trên của Lênin đã góp phần to lớn bảo vệ và phát triển
những lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn đấu tranh của phong
trào cộng sản - công nhân quốc tế trong điều kiện lịch sử mới.
2. Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đáp ứng yêu cầu
phát triển cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân; soi sáng con

đường cách mạng, thúc đẩy sự phát triển cách mạng trong giai đoạn mới.
Sau cách mạng tháng mười Nga năm 1917, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa xã hội hiện thực từ một nước đã
phát triển trở thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã có những đóng góp to
lớn trong thủ tiêu chủ nghĩa phát xít, giữ gìn hòa bình thế giới. Cho đến những
năm 70 - 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của chủ nghĩa xã hội có dấu hiệu
chững lại, các nước xã hội chủ nghĩa bắt tay vào công cuộc cải tổ, cải cách, đổi
mới nhằm đưa chủ nghĩa xã hội hiện thực thoát khỏi khủng hoảng. nhưng do sai
lầm chủ quan của các Đảng cộng sản, sự phản bội của những người đứng đầu,
cùng với sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa
bình” mô hình chủ nghĩa xã hội “cứng nhắc”, thiếu sức sống sụp đổ, hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa tan rã vào những năm 90 của thế kỷ XX. Các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản kiên trì lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học, tiến hành cải cách, đổi mới trên nền tảng, nguyên tắc của
chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước mình đã
thu được thành công bước đầu. Thành công đó vừa cổ vũ, vừa đáp ứng được kỳ
vọng của phong trào cộng sản - công nhân quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa
bình, tiến bộ trên thế giới trên con đường vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thông qua công cuộc cải cách, đổi mới Đảng cộng sản trung Quốc và Đảng
cộng sản Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng phát triển lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học trong giai đoạn lịch sử mới.
3. Phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Đảng cộng sản việt Nam.
8


Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn,
đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế
quốc, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền của đất nước, vì tự do, hạnh
phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với
lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa
ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có
thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống
tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu
cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930,
trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương:
“Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh
đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Vào những
năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ
một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội
chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ
XI (tháng 01-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam
một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta,
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
9


Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang đặt ra hàng
loạt vấn đề cơ bản cấp bách đòi hỏi lý luận phải trả lời. Không phải mọi điều đã

được trả lời rõ ràng vì lý do là sự nghiệp đổi mới của chúng ta cần có thời gian
để thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, tìm tòi phát triển lý luận. Đảng ta phải tự trả
lời cho vấn đề thế nào là một chế độ xã hội đã được đổi mới. Đó cũng là một
vấn đề chung cho cả phong trào cách mạng thế giới và chúng ta phải trả lời vấn
đề về con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự phát triển đúng quy luật
chung và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như:
đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn
trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân,
không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ;
đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp
quyền với nhà nước tư sản…
Cho đến nay, Đảng đã nhận thức rằng: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về chủ
nghĩa xã hội. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con
10



người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tức là "tất cả do con người". Ðồng thời,
mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó
không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Mô hình chủ nghĩa xã hội thời
kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung
những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng
kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến
và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình
chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát
triển của chủ nghĩa xã hội với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía
trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn
và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua
mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Việc "bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong khi bỏ qua
những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học-công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Hay nói cách khác, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản
11



chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị
không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những
thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ
nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan
điểm phát triển, có chọn lọc.
Mặt khác, Trong phương pháp, phương thức, trong hình thức tổ chức, thời
kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái cũ, cái mới, cái đúng,
cái sai. Về thực tiễn, chúng ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
từ năm 1954 cho đến nay đã trải qua mấy chục năm. Thực tiễn cho thấy để
chuyển một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mà thực chất có thể nói là một xã
hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội thật sự là một quá trình lâu dài, gian khổ,
phức tạp, đòi hỏi những bước đi quá độ, những hình thức tổ chức trung gian, lúc
tiến, lúc lùi, có những lúc khó khăn, có những lúc khủng hoảng. Nhận thức lý
luận cũng thế, thực tiễn diễn ra cũng thế, cho nên cần thiết phải nghiên cứu sâu
hơn về thời kỳ quá độ. Trong tư tưởng, trong chỉ đạo thực tiễn cũng cần thiết phải
nhận thức thời kỳ quá độ để chúng ta cố gắng, quyết tâm khắc phục cho được
nguyên nhân sâu xa dẫn đến sai lầm. Chủ quan, nóng vội, muốn đốt cháy giai
đoạn, duy ý chí, chính là do không nhận thức đầy đủ tính chất lâu dài, phức tạp
của thời kỳ quá độ, muốn có ngay một sớm, một chiều chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta cũng cần tỉnh táo để không mắc bẫy luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch, rằng “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo,
nói thì hay lắm, dân chủ, bình đẳng hơn triệu lần chủ nghĩa tư bản, nhưng thực
tế không có”. Chúng ta đang phấn đấu đến cái tốt đẹp, phấn đấu đến một nền
dân chủ đích thực, bình đẳng đích thực gấp triệu lần chế độ tư bản. Đây là điều
chúng ta phải làm, quyết làm, song, trước mắt, khi đất nước còn nhiều khó khăn
về kinh tế, xã hội, khi cái cũ, cái mới còn đan xen, tác động lẫn nhau, trong thời
kỳ quá độ, chúng ta buộc phải chấp nhận còn có bóc lột, còn có bất công, còn có
tiêu cực. Sẽ đẩy lùi, khắc phục từng bước để xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cũng


12


cần hiểu để có thể bình tĩnh hơn, tránh ngộ nhận ta đã có chủ nghĩa xã hội rồi,
hoang mang không tự giải thích được nghịch lý đang tồn tại, dẫn đến bi quan.
3.3. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đảng chủ tương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo, là thành quả lý luận quan trọng qua
hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của cơ chế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên
cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa (vì mục đích của ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội), và
cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì ta còn đang trong thời
kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước
pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố
và phát triển; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh
tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững

chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo
động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
13


khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt
quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình
độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy
sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội;
mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế;
khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc
những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu
có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3.4. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đảng ta xác định phát triển văn
hóa đồng bộ, tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội cũng là một
định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền
văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn;
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân

loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm
mỹ ngày càng cao. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển;
phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là
14


quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là
tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào
lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến
bộ, văn minh.
3.5. Về xã hội:
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn,
dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã
hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó
cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng
xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi
ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách pháp luật và hoạt động của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng
Việt Nam.
3.6. Về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một
nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam

Đảng chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia
quản lý xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà
15


nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về
thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp
quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi
pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực
chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân. Đồng thời, Đảng xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn
kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
3.7. Về vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Cùng với việc xác định Đảng ta là đảng cầm
quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới rất quan trọng về nhận thức
của Đảng trong 25 năm qua. Nó vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân
của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta
theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt
Nam, và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt như vậy
hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, trượt sang quan

điểm “đảng toàn dân” mà chính là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của
Đảng một cách sâu sắc hơn, nhuần nhuyễn hơn. Nó đòi hỏi Đảng ta chẳng
những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng
của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân phấn đấu vì lợi ích của
cả giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, Đảng ta luôn luôn kiên
định, kiên trì, đồng thời yêu cầu phải vận dụng sáng tạo, có bổ sung, phát triển
cho phù hợp với thực tiễn, góp phần làm phong phú và ngày càng hoàn thiện

16


hơn. Đảng cũng đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc giá trị to lớn và nội dung toàn
diện của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội IX, Đảng ta đã tổng kết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta”.
Để phát triển và nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng nhiệm vụ trong tình
hình mới, Đảng đã bổ sung, phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý luận về vai
trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà
nước pháp quyền, mở cửa hội nhập quốc tế; làm rõ hơn trách nhiệm của đảng
cầm quyền trong việc nghiên cứu, tìm tòi mô hình và con đường, bước đi xây
dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Đã nhận thức sâu sắc
hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới, coi xây

dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp
cách mạng. Từ đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ
nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng; tăng cường
công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống sự suy thoái,
biến chất, tham nhũng, hư hỏng.
Công tác cán bộ và rèn luyện đội ngũ cán bộ luôn được Đảng chú trọng.
Trong đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI là một sự đột phá lớn trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay. Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra: “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa
vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Đồng thời, Đảng
17


cũng xác định mục tiêu trong thời gian tới: Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt,
khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm
xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch,
vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Chủ trương: Đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và hệ thống
chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới đồng bộ công
tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới phương thức lãnh
đạo và lề lối công tác; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng. Đặc biệt đề phòng nguy cơ sai lầm về đường lối và thoái hóa, quan

liêu, xa rời quần chúng.
Song song với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chúng ta phải luôn
luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng chống âm mưu chống phá của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ngày đêm rắp tâm phá hoại những thành
quả của chúng ta đã dành được với nhiều âm mưu thủ đoạn. Trong đó, chúng sử
dụng chiến lược “Diễn biến hoà bình” như một liều thuốc độc ngấm dần vào cơ
thể xã hội chủ nghĩa hòng bóp chết nó khi còn đang từng bước trưởng thành.
“Diễn biến hoà bình” đã và đang được các thế lực thù địch coi là chiến lược
tối ưu để thủ tiêu chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Chủ nghĩa đế quốc
đứng đầu là Mỹ đã và đang sử dụng mọi lực lượng, phương tiện để thực hiện
âm mưu “diễn biến hoà bình” chống chủ nghĩa xã hội nói chung và chống Việt
Nam nói riêng. Trong đó chúng hết sức chú ý phát hiện, khai thác các nhân tố,
điều kiện thuận lợi để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với Việt
Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch mang nặng bản
chất phản cách mạng, chống cộng sâu sắc. "diễn biến hoà bình" là con đường
mới, con đường “êm ấm” giúp cho chủ nghĩa tư bản thực hiện âm mưu tiêu diệt
chủ nghĩa cộng sản, mà lực lượng tiên phong của nó là Đảng cộng sản đang nắm
chính quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng không muốn khoanh tay nhìn
18


một lực lượng tiến bộ, đại diện cho đại đa số nhân dân lao động xây dựng một xã
hội tiến bộ hơn, đe doạ sự tồn vong của chính chúng. Tiêu diệt cộng sản là mục
tiêu không thay đổi của chúng kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc.
"Diễn biến hoà bình" là phương thức mới giúp chúng thực hiện mục tiêu đó.
Đối với Việt Nam, trong những năm qua, chiến lược "Diễn biến hoà bình"
đã có những thay đổi quan trọng, nó không còn theo nguyên nghĩa - chỉ là những
tác động về tư tưởng, lý luận như phê phán mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ,
phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin… (thời kỳ từ giữa những năm 80 đến đầu những

năm 90 thế kỷ XX). Cho đến nay, chiến lược đó đã chuyển sang kết hợp "Diễn
biến hoà bình" về tác động về tư tưởng, lý luận với tiến công về chính trị - công
kích trực tiếp vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; thân thế, sự
nghiệp của các lãnh tụ; chế độ xã hội chủ nghĩa, thể chế quốc gia - trong đó có
Điều 4 Hiến pháp 1992 về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ
thống pháp luật Quốc gia; xuyên tạc, lên án sự nghiệp cách mạng của dân tộc
trên một nửa thế kỷ qua, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy
hy sinh gian khổ của cả dân tộc. Không dừng lại ở các hoạt động tư tưởng, chính
trị, “bất bạo động”, các phần tử thù địch người Việt được sự trợ giúp của
phương Tây còn đẩy tới hoạt động kích động tâm lý dân tộc hẹp hòi, tư tưởng
cực đoan trong tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và tập
hợp lực lượng chống đối, gây bạo loạn cục bộ, đồng thời chuẩn bị cho các hoạt
động rộng lớn hơn nhằm lật đổ vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam,
xóa bỏ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đấu tranh chống "Diễn biến hoà bình" hiện nay chúng ta phải đẩy
mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế vì mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên lĩnh vực
chính trị đó là việc “bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện
để mọi người được phát triển toàn diện”; “đẩy mạnh cải cách lập pháp, tư
pháp… tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; kiên quyết
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, “hoàn thiện thể chế, luật
19


pháp; thực hiện dân chủ công khai, minh bạch”. Trên lĩnh vực quốc tế phải “tăng
cường hợp tác quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế… thực hiện có trách nhiệm các cam kết
quốc tế”. Trên lĩnh vực kinh tế xã hội, đó là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển hài hòa giữa các vùng miền, phát triển
toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội

trong từng chính sách phát triển…
Các thế lực thù địch luôn xác định, bằng mọi giá phải thay đổi thể chế
chính trị của Việt Nam. Vì vậy, một số thế lực của phương Tây chủ trương dùng
tài trợ, cố vấn, chuyên gia tác động gián tiếp, trực tiếp đến các chương trình
chiến lược của Việt Nam, thông qua các định chế quốc tế, thông qua lực lượng
“dân chủ”, “cải cách” ở nước ta để tác động “chuyển hóa”, làm chệch đường lối,
chính sách, pháp luật Việt Nam. Theo đó, họ cho rằng, vấn đề quan trọng hàng
đầu để “chuyển hóa” chế độ chính trị ở Việt Nam là “làm triệt tiêu các giá trị
làm nên chế độ cộng sản”. Với mục tiêu này, một số chiến lược gia của phương
Tây tăng cường đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Việt Nam, thực hiện “ba bước
tiến” trên lộ trình phát triển toàn diện với Việt Nam:
Thứ nhất, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta vào nền kinh
tế khu vực và thế giới, từ đó đẩy mạnh nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam, làm cho nền kinh tế nước ta chệch hướng xã hội chủ nghĩa, làm suy
yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, hình thành “xã hội dân sự” ở Việt Nam, tạo môi trường và cơ hội
để cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện công khai, gây rối loạn xã hội Việt
Nam, làm cho Đảng, Nhà nước ta không kiểm soát được tình hình, buộc Đảng,
Nhà nước ta phải chấp nhận “dân chủ” hoặc tan vỡ do đột biến chính trị - xã hội.
Thứ ba, thực hiện “dân chủ hóa” chính quyền, từng bước cô lập, tách các
tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, nhằm gây áp lực đối với Đảng ta.
Nhìn chung, “lộ trình” trên đã được một số thế lực ở phương Tây thực hiện ở
“bước hai”, và họ khẳng định rằng, chỉ có đi vào Việt Nam, làm ăn với Việt
20


Nam thì mới có điều kiện, môi trường, cơ hội để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Đây là một trong những âm mưu, thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc, chúng ta
không thể xem thường.
Trước sự chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc, chúng ta bằng mọi

giá phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì thực tiễn cho thấy, ổn định
chính trị - xã hội là nguồn gốc, là cơ sở của mọi thắng lợi của đất nước ta trong
những năm qua. Thành tựu đặc biệt này, có sức lay động nhận thức, cổ vũ tinh
thần, khích lệ đồng bào, chiến sĩ cả nước, là nét đẹp bình yên trong bạn bè quốc
tế. Chúng ta tự hào về lịch sử giữ nước, khi phải đương đầu với chiến tranh quân
sự hay phi quân sự thì bao giờ cũng có những thế hệ người Việt Nam đủ ý chí,
bản lĩnh và trí tuệ tạo ra thế và lực mới để đánh thắng kẻ thù. Sẵn sàng đánh
thắng âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống, đó
không chỉ là niềm tin lớn mà còn là khả năng hiện thực của thế hệ người Việt
Nam trong tình hình hiện nay.
Một điều hết sức quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của
mỗi Đảng Cộng sản và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa là phải luôn luôn kiên
định và đứng vững trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao
động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin là những
giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực
hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng
cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung
một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới
nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa xã hội luôn luôn được tiếp thêm sinh
lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với
cuộc sống, góp phần cổ vũ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phấn đấu vì
mục tiêu: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
21


Quân đội ta ngày nay đã trở thành một quân đội của một nhà nước xã hội
chủ nghĩa, đang cùng toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng ra sức xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để làm tròn hai nhiệm vụ

chiến lược có ý nghĩa lịch sử trọng đại đó, quân đội ta phải được nâng cao hơn
nữa bản chất giai cấp công nhân của mình. Ngày nay muốn nâng cao bản chất
giai cấp công nhân thì phải nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của cán
bộ, chiến sỹ quân đội ta một cách toàn diện và sâu sắc, nâng cao trình độ giác
ngộ về chủ nghĩa Mác - Leenin, thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ
nghĩa, bồi dưỡng những phẩm chất toàn diện của con người mới xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
KẾT LUẬN
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xét đến cùng, chịu sự quy định của đời sống vật
chất xã hội, của tồn tại xã hội, trước hết là sự phát triển kinh tế - xã hội, của cơ
cấu xã hội - giai cấp của các quan hệ chính trị và trình độ dân trí của xã hội
trong một thời đại, một giai đoạn lịch sử nhất định. Chủ nghĩa xã hội khoa học
vốn mang trong mình bản chất cách mạng, khoa học và tính nhân văn cao cả là
hệ tư tưởng, vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình: lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa; xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Trong quá trình đó, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế luôn đòi hỏi phải
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đáp ứng với mỗi
giai đoạn lịch sử, đó là nhu cầu tự thân của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cách mạng lâu dài,
gian khổ, cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là
cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự
giác, liên tục, hướng đích lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Những khó khăn gian
22


khổ càng tăng lên sau khi sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, so sánh
lực lượng cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi thế giới thay đổi tạm thời bất

lợi cho ta. Nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có những điều kiện
thuận lợi mới, cả hoàn cảnh quốc tế cũng như điều kiện trong nước. Tiền đề cơ bản
của thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nằm ở chính
đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta, đường lối đổi mới vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, một đường lối đủ sức động viên và tổ chức toàn bộ sức mạnh của
dân tộc, tạo ra một nội lực đủ sức để tranh thủ được mọi khả năng của thời đại, sử
dụng được toàn bộ ngoại lực chi viện cho cách mạng Việt Nam. Đây thực sự là một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai đoạn thứ hai của cách mạng Việt Nam, cuộc
cách mạng chứa đựng trong lòng nó ba cuộc giải phóng có liên quan với nhau và
làm điều kiện cho nhau: giải phóng dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia; giải
phóng chế độ người bóc lột người; giải phóng con người để con người vươn lên địa
vị làm chủ của mình.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33 tr.42.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33 tr.42.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33 tr.109.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33 tr.43.
5. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33 tr.49.
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011).
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội IX, X, XI.
8. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Bài nói chuyện tại Cu Ba.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI).
10. Giáo sư Trần Xuân Trường: Về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam lý luận và thực tiễn. Nxb. QĐND, 2008.


24



×