Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

nghiên cứu sự phát triển của ngành nông nghiệp việt nam từ sau đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.02 KB, 61 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




LÊ THỊ NHUNG





NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





LÊ THỊ NHUNG





NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY






Chuyên ngành: Địa lí kinh tế - xã hội

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Đỗ Thúy Mùi


SƠN LA, NĂM 2014




LỜI CẢM ƠN




Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến cô giáo hướng
dẫn khóa luận TS. Đỗ Thúy Mùi đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu trường Đại học Tây
Bắc, phòng Quản lí khoa học, phòng Đào tạo, Thư viện trường Đại học Tây Bắc,
các thầy cô trong khoa Sử - Địa, cùng các phòng chức năng đã giúp đỡ em.
Khóa luận hoàn thành sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được sự giúp đỡ, đóng góp của các thầy cô cùng các độc giả để khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2014
TÁC GIẢ

Lê Thị Nhung
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài 2
2.1. Mục tiêu 2
2.2. Nhiệm vụ 2
2.3. Giới hạn của khóa luận 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
4.1. Phương pháp thu thập tài liệu 4
4.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê 4
4.3. Phương pháp so sánh 5

4.4. Phương pháp biểu đồ, bản đồ 5
5. Đóng góp của khóa luận 5
6. Cấu trúc của khóa luận 5
CHƢƠNG 1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 6
1.1.Vị trí địa lí 6
1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 6
1.2.1. Địa hình 7
1.2.2. Tài nguyên đất 8
1.2.3. Khí hậu 10
1.2.4. Nguồn nước 13
1.2.5. Sinh vật 14
1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 15
1.3.1. Dân cư và nguồn lao động 16
1.3.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ nông nghiệp 17
1.3.3. Đường lối, chính sách 19
1.3.4. Khoa học công nghệ 20
1.3.5. Nguồn vốn và thị trường tiêu thụ 21
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP
TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 23
2.1. Khái quát chung 23
2.2. Thực trạng phát triển của ngành trồng trọt từ sau đổi mới đến nay 27
2.2.1. Ngành trồng cây lương thực và cây thực phẩm 28
2.2.2. Ngành trồng cây công nghiệp 34
2.3. Thực trạng phát triển ngành chăn nuôi từ sau đổi mới đến nay 40
2.3.1. Chăn nuôi đại gia súc 42
2.3.2. Chăn nuôi tiểu gia súc 44
2.3.3. Chăn nuôi gia cầm 46
2.4. Những thành tựu của sản suất nông nghiệp trong 25 năm đổi mới 47
2.5. Những hạn chế 49

KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

DANH MỤC VIẾT TẮT


STT
Chữ viết tắt
Đọc là
1
FAO (Food and Agriculture Organization)
Tổ chức lương thực và nông nghiệp.


DANH BẢNG BIỂU
STT
Số bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 1.1
Hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam năm 2010
9
2
Bảng 1.2
Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
giai đoạn 1995 – 2010
16
3
Bảng 2.1

Tổng sản phẩm trong nước của nông lâm ngư nghiệp
và tỉ trọng của nó so với GDP của cả nước
24
4
Bảng 2.2
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp
giai đoạn 1995 – 2010
25
5
Bảng 2.3
Giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng
trọt giai đoạn 1995- 2010
27
6
Bảng 2.4
Diện tích các loại cây trồng phân theo nhóm cây
giai đoạn 1995 – 2010
28
7
Bảng 2.5
Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
cây lương thực giai đoạn 1995 - 2010
29
8
Bảng 2.6
Diện tích và sản lượng cây lương thực năm 2010
30
9
Bảng 2.7
Diện tích, năng suất, sản lượng lúa cả năm

giai đoạn 1995 – 2010
31
10
Bảng 2.8
Diện tích và sản lượng cây màu lương thực
giai đoạn 1990 – 2009
32
11
Bảng 2.9
Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng của cây công
nghiệp giai đoạn 1995 – 2010
34
12
Bảng 2.10
Sản lượng một số cây công nghiệp
giai đoạn 1995 – 2010
36
13
Bảng 2.11
Cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi phân theo
nhóm vật nuôi và các loại sản phẩm
41
14
Bảng 2.12
Số lượng đàn gia súc, gia cầm
giai đoạn 1995 – 2010
42
15
Bảng 2.13
Số lượng và cơ cấu đàn trâu phân theo vùng

năm 2010
43
16
Bảng 2.14
Số lượng và cơ cấu đàn bò phân theo vùng năm 2010
44
17
Bảng 2.15
Số lượng và cơ cấu đàn lợn phân theo vùng năm 2010
45

DANH MỤC HÌNH
STT
Số hình
Tên hình
Trang
1
Hình 2.1
Biểu đồ thể hiện giá trị GDP trong nông nghiệp giai
đoạn 2003 - 2009
23


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản của xã hội, cung cấp nhiều loại sản
phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường tiêu thụ rộng lớn của nền kinh
tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích lũy ban đầu để phát triển kinh tế.
Sản xuất nông nghiệp không ngừng cung cấp lương thực, thực phẩm cho

con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất
ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại
cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong chiến
lược phát triển của xã hội loài người, không ngành nào có thể thay thế được.
Việt Nam là nước có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Hiện
nay, có 70% dân số, 57% lao động sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn.
Bước vào thời kì đổi mới, nhờ có những chính sách phù hợp và sự tiến bộ trong
sản xuất, nền nông nghiệp nước ta phát triển không ngừng. Sau giải phóng miền
Nam, nước ta lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Nhưng trong
khoảng từ năm 1989 đến nay, ngành nông nghiệp Việt Nam không chỉ đáp ứng
đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn có nhiều mặt hàng xuất khẩu đem lại
giá trị kinh tế lớn. Việt Nam còn là một trong ba nước đứng đầu thế giới về xuất
khẩu gạo. Ngoài ra, nước ta còn xuất khẩu nhiều loại nông phẩm nhiệt đới như
cao su, hồ tiêu, cà phê, điều… Ngành nông nghiệp phát triển góp phần ổn định
nền kinh tế của đất nước, khẳng định được vị thế của Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp nước ta cũng gặp không ít những khó
khăn và thách thức như bão lũ, mất mùa, sâu bệnh, hạn hán. Sản xuất nông
nghiệp đã và đang có dấu hiệu gây tác động tiêu cực đến môi trường như mất đa
dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường… đe dọa
đến tính bền vững của tăng trưởng. Chi phí sản xuất ngày càng cao làm giảm
khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Mặc dù
vậy, nhờ những chính sách đổi mới của Nhà nước như Khoán 10, 100 ngành

2
nông nghiệp nước ta đã có những bước tiến mới trong sản xuất, đạt được những
thành tựu nhất định trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với mong muốn hiểu biết thêm về sự phát triển của ngành nông nghiệp
Việt Nam từ sau đổi mới đến nay, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: ‘‘Nghiên cứu

sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam từ sau đổi mới đến nay” làm
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu những điều kiện thuận lợi và khó khăn của ngành
nông nghiệp Việt Nam, đề tài đánh giá thực trạng phát triển của ngành nông
nghiệp từ sau đổi mới đến nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên khóa luận có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của ngành
nông nghiệp Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam từ sau
đổi mới đến nay.
2.3. Giới hạn của khóa luận
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thuận lợi và khó khăn, đáng giá
thực trạng phát triển ngành nông nghiệpViệt Nam theo nghĩa hẹp (chỉ bao gồm
trồng trọt và chăn nuôi).
Về không gian: Đề tài nghiên cứu toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt
Nam từ sau năm 1986 đến năm 2012.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nông nghiệp là ngành cổ xưa của nhân loại, bởi thế ngành nông nghiệp và
địa lí ngành nông nghiệp đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Mỗi tác
giả lại quan tâm nghiên cứu đến các vấn đề nội dung khác nhau. Có nhiều tác
giả quan tâm đến vai trò đặc điểm các nhân tố ảnh hưởng đến ngành nông
nghiệp; có những tác giả nghiên cứu lý thuyết cung cầu trong nông nghiệp; có

3
tác giả nghiên cứu, đánh giá về sự phát triển nông nghiệp trên thế giới của từng
quốc gia, từng địa phương. Nhiều tác giả lại nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ

nông nghiệp. Trong những năm gần đây, một số tác giả lại quan tâm nghiên cứu
đến những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến ngành nông nghiệp. Có thể nói,
các công trình nghiên cứu về ngành nông nghiệp ngày càng phong phú và toàn
diện hơn. Một số công trình tiêu biểu như:
- Địa lí kinh tế - xã hội địa cương của PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ chủ
biên, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, năm 2005 đã đề cập đến các vấn đề lý luận
chung về ngành nông nghiệp như: vai trò, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng đến
ngành nông nghiệp. Tác giả cũng đã phân tích rõ sự phát triển và phân bố ngành
nông nghiệp trên thế giới.
- Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam của GS.TS. Đỗ Thị Minh Đức chủ biên,
Địa lí các vùng kinh tế của PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ chủ biên, Địa lí kinh tế
xã hội Việt Nam, Địa lí các tỉnh và thành phố Việt Nam của GS.TS. Lê Thông
cũng đã đề cập đến sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam, của các tỉnh
thành trên cả nước. Những vấn đề mà tác giả đề cập giúp cho tác giả có cái nhìn
khái quát về sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
- Giáo trình Kinh tế nông nghiệp của tác giả Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình
Thắng và Kinh tế nông nghiệp của Phạm Đình Vân, Đỗ Thị Kim Chung cũng đã
đề cập đến những vấn đề lý luận chung về ngành nông nghiệp như đặc điểm, các
nguồn lực phát triển nông nghiệp, lý thuyết cung cầu trong nông nghiệp. Trong
các giáo trình này, các tác giả cũng đã đề cập đến những vấn đề có tính thời sự
như vấn đề phát triển bền vững.
- Kinh tế học nông nghiệp bền vững của tác giả Đặng Phi Hổ, NXB
Phương Đông, năm 2008 đã đưa ra phương hướng tiếp cận mới trong đánh giá
phát triển sản xuất nông nghiệp theo phương pháp định lượng trên nền tảng lí
thuyết kinh tế học.
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của tác giả Đặng Văn Phan, NXB Giáo
dục Việt Nam, năm 2008, đã đề cập đến các vấn đề lí luận và thực tiễn của tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp như: khái niệm, các nhân tố ảnh hưởng và các hình

4

thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói chung. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích
thực trạng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khác mang tính thực tiễn cao,
góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho ngành nông nghiệp. Các công trình
không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với người
dân trong việc canh tác và sản xuất nông nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp truyền thống được sử
dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội nói
riêng, khoa học không thể phát triển được nếu thiếu tính kế thừa, thiếu sự tích
lũy những thành tựu của quá khứ.
Phương pháp này được sử dụng ngay sau khi đã xác định được hướng
nghiên cứu của đề tài. Đây là phương pháp rất cần thiết trong việc tiếp cận vấn
đề nghiên cứu. Việc tổng quan tài liệu thu thập được giúp tác giả tiếp cận với
những kết quả nghiên cứu đã có, cập nhật những vấn đề mới trong và ngoài
nước. Các tài liệu được thu thập và hệ thống hóa theo đề cương và nội dung
ghiên cứu của đề tài đã được xác định trước, khi đó sẽ tránh những thiếu sót cho
bước tổng hợp về sau. Nguồn tài liệu của khóa luận gồm các bản đồ được thu
thập từ các nguồn khác nhau, các dữ liệu thống kê về điều kiện tự nhiên, về kinh
tế - xã hội, các số liệu. Các dữ liệu trên được chuẩn hóa, xử lí, phân tích và được
sử dụng làm cơ sở để thực hiện đánh giá thực trạng phát triển của ngành nông
nghiệp Việt Nam.
4.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê
Từ nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu, đề tài để phân
tích được những điều kiện thuận lợi và khó khăn của ngành nông nghiệp Việt
Nam và những kết quả đạt được của ngành nông nghiệp Việt Nam từ sau đổi mới
đến nay, sử dụng phương pháp phân tích số liệu thống kê sẽ giúp chúng ta thấy rõ
được sự thay đổi của ngành nông nghiệp Việt Nam từ sau đổi mới đến nay.


5
4.3. Phương pháp so sánh
Trong khi nghiên cứu sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam từ
sau đổi mới đến nay, tác giả đều phân tích, so sánh sự thay đổi của ngành nông
nghiệp Việt Nam, qua các năm nền nông nghiệp Việt Nam có sự thay đổi như
thế nào. Trên cơ sở những so sánh đối chiếu đó để có những kết luận chính xác
và có những nhận định về sự chuyển biến của ngành nông nghiệp Việt Nam từ
sau đổi mới đến nay.
4.4. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương pháp rất đặc trưng cho các nghiên cứu địa lý nói chung và
địa lý vùng nói riêng trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp từ sau đổi
mới đến nay. Trên cơ sở các số liệu và kết quả nghiên cứu thể hiện trên biểu đồ
như: biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp giai đoạn 2003 –
2009 nhằm mục đích thể hiện rõ hơn thực trạng phát triển của ngành nông
nghiệp qua các năm có sự thay đổi khác nhau giữa các năm.
5. Đóng góp của khóa luận
Đề tài hoàn thành có một số đóng góp sau đây:
Đề tài đã tổng quan được những điều kiện thuận lợi và khó khăn đối với
sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Đề tài đã đưa ra những kết quả đạt được của ngành nông nghiệp Việt Nam
từ sau đổi mới đến nay.
Đề tài là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, giáo viên ngành
địa lí và những ai quan tâm đến sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo đề tài gồm có hai chương:
Chương 1: Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của ngành
nông nghiệp Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam từ sau
đổi mới đến nay.


6
CHƢƠNG 1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Vị trí địa lí
Việt Nam nằm ở rìa phía Đông của bán đảo Đông Dương, có đường bờ
biển kéo dài, nên khí hậu mang tính chất nhiệt đới, ẩm, gió mùa. Điều đó tạo
điều kiện cho nước ta phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, với cơ cấu cây trồng
phong phú, đa dạng và có khả năng thâm canh, tăng vụ cao.
Nước ta nằm ở gần Trung tâm Đông Nam Á, là ranh giới tiếp giáp giữa
các lục địa và đại dương, vì vậy nước ta là nơi gặp gỡ của nhiều loại động thực
vật từ phía Bắc xuống, từ Tây sang, phía Nam lên [5]. Điều này cho nước ta có
hệ sinh thái động thực vật phong phú – là nguồn gen quý giá để lai tạo giống cây
trồng, vật nuôi.
Nước ta nằm trên đường hàng hải, hàng không quốc tế, thuận lợi để giao
lưu buôn bán các mặt hàng nông sản với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Tuy nhiên, vị trí gần biển, hàng năm nước ta có từ 9 – 10 cơn bão đổ bộ
vào đất liền, gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp. Nước ta là một trong
năm nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, trong nhiều năm qua
thiên tai xảy ra liên miên gây tổn thất rất lớn đặc biệt là đối với ngành nông
nghiệp. Các tỉnh thuộc vùng Duyên hải miền Trung, đặc biệt từ Nghệ An đến
Bình Định là vùng hội tụ nhiều yếu tố tự nhiên không thuận lợi, thời tiết khắc
nghiệt, có nhiều bão lớn, thường gây ra thiệt hại rất lớn cho sản xuất.
1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Các nhân tố tự nhiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố nông
nghiệp. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong
những điều kiện tự nhiên nhất định. Các điều kiện tự nhiên quan trọng hàng đầu
là đất, nước và khí hậu. Chúng sẽ quyết định khả năng nuôi trồng các loại cây,
con cụ thể trên từng lãnh thổ, khả năng áp dụng các quy trình sản xuất nông

nghiệp, đồng thời có ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng, vật nuôi. Từ những

7
đặc điểm đó có thể thấy sự phát triển và phân bố của ngành này phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
1.2.1. Địa hình
Việt Nam có dạng địa hình khá phức tạp, 3/4 diện tích là đồi núi, 1/4 diện
tích là đồng bằng. Điều này ảnh hưởng đến quy mô sản xuất và phân bố ngành
nông nghiệp của nước ta.
Miền núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ thuận lợi trồng các loại cây công
nghiệp, cây thực phẩm, chăn nuôi đại gia súc. Ở Đồng bằng thuận lợi trồng các
cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi tiểu gia súc
và gia cầm.
Ở miền núi và cao nguyên nước ta có diện tích rộng lớn, có nhiều cao
nguyên tương đối bằng phẳng, có thể hình thành các vùng chuyên canh cây công
nghiệp với quy mô lớn. Nhiều cao nguyên rộng lớn như cao nguyên Mộc Châu
(Sơn La), cao nguyên Đức Trọng (Lâm Đồng), có thể phát triển các vùng
chuyên canh cây công nghiệp, chăn nuôi bò sữa với quy mô lớn.
Ở vùng đồng bằng, tuy diện tích không rộng (chỉ chiếm 1/4 diện tích lãnh
thổ) nhưng lại tập trung thành hai vùng đồng bằng rộng lớn, đó là Đồng bằng
sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đất đai màu mỡ, hai vùng đồng bằng
này đã trở thành vựa lúa lớn nhất của cả nước, giúp cho nước ta giải quyết được
nạn đói lương thực kéo dài, đưa đất nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới.
Dạng địa hình đồng bằng thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa với sản phẩm đa dạng, đặc biệt là cây lương thực thực phẩm nhiệt đới đáp
ứng đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, còn dễ dàng phát triển các
vùng chuyên canh kết hợp với các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng quyết
định đến sự phân bố và phát triển của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh

đó cũng gây không ít những khó khăn đối với sự phát triển của ngành nông
nghiệp nước ta.

8
Đồi núi và cao nguyên chiếm 3/4 diện tích. Tuy nhiên, địa hình rất hiểm
trở, khó đi lại, quá trình xói mòn diễn ra mãnh liệt rất khó cho việc thực hiện cơ
giới hóa trong sản xuất. Hơn nữa tại các đồi núi dốc, còn xảy ra các hiện tượng
đất lở, đất trượt, lũ quét, sương giá… gây thiệt hại lớn cho ngành trồng cây
lương thực thực phẩm.
Ở đồng bằng chiếm 1/4 diện tích nhưng cũng gặp không ít những khó
khăn đó là cảnh đồi trọc, đất xấu bị mương xói tàn phá trên các đồi núi thấp
trong lòng đồng bằng và ven đồng bằng, là sự bạc màu của đất phù sa, là cảnh
bờ biển bị xói lở do sự khai phá quá sớm, là sự nhiễm mặn, nhiễm phèn khi đào
kênh không khoa học làm cho hiệu quả và năng suất cây trồng thấp. Các đồng
bằng ven biển thường chịu nhiều thiên tai gây khó khăn rất lớn cho sản xuất
nông nghiệp.
1.2.2. Tài nguyên đất
Đất là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu không
thể thay thế được trong nông nghiệp và là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến quy
mô, cơ cấu và phân bố nông nghiệp, nhất là đối với ngành trồng trọt.
Đất đai không chỉ là môi trường sống, mà còn là nơi cung cấp các chất
dinh dưỡng cho cây trồng (các chất khoáng trong đất như N, P, K, Ca, Mg… và
các nhân tố vi lượng). Quỹ đất nước ta khoảng 33 triệu ha với nhiều loại đất
khác nhau, trong đó có hai loại đất chính là đất feralit ở miền núi và đất phù sa ở
đồng bằng. Phần lớn diện tích đồi núi của nước ta là đất feralit có diện tích 16
triệu ha với lượng khoáng nguyên thấp, cấu trúc bền vững, hàm lượng mùn
không cao, chua và có màu đỏ hoặc đỏ vàng của ôxít sắt. Vì vậy, rất thích hợp
trồng các loại cây công nghiệp.
Ngoài đất feralit còn có một số loại đất khác. Đất xám phù sa cổ ở rìa
đồng bằng sông Hồng và tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Bộ, có khả năng

phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả. Đất đen (macgalit) phát triển trên đá
bazơ thường gặp ở các thung lũng đá vôi phân bố nhiều ở vùng miền núi phía
Bắc. Tuy diện tích không nhiều nhưng loại đất này rất thích hợp với cây công
nghiệp có giá trị (quế, chè, thuốc lá…).

9
Đất bazan được tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên, một phần ở Đông Nam
Bộ và một phần ở Phủ Quỳ (Nghệ An) đến Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lệ
(Quảng Trị). Riêng ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có khoảng 2 triệu ha. Đây
là loại đất rất thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp đặc biệt là cao su, cà phê
trên quy mô lớn. Đất cát, cát pha ven biển thuận lợi trồng được các loại hoa
màu, các cây công nghiệp như lạc, thuốc lá…
Ở các châu thổ và dọc theo các thung lũng, đất phù sa chiếm ưu thế. Hai
đồng bằng rộng lớn đồng thời cũng là hai vựa lúa lớn nhất của nước ta có nhiều
diện tích phù sa. Loại đất này có khoảng trên 3 triệu ha, chiếm 9,5% diện tích cả
nước. Đây là loại đất tốt, hàm lượng dinh dưỡng cao, có độ PH trung tính, rất
thích hợp cho việc trồng lúa nước [8].
Ngoài đất phù sa, ở đồng bằng còn tồn tại các loại đất khác (đất mặn, đất
chua ven biển, đất cát, đất glây hóa trong các ô trũng, đất lầy thụt, than bùn),
nhưng giá trị đối với sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế.
Bảng 1.1. Hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam năm 2010

Tổng số
Diện tích (nghìn ha)
Cơ cấu (%)
33.095,7
100,0
1. Đất nông – lâm – ngư nghiệp
26.226,4
79,2

- Đất sản xuất nông nghiệp
10.126,1
30,6
- Đất lâm nghiệp
15.336,5
46,4
- Đất nuôi trồng thủy sản
689,8
2,1
- Đất nông nghiệp khác
44,0
0,1
2. Đất phi nông nghiệp
3.705,0
11,2
3. Đất chưa sử dụng
3.164,3
9,6
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2011)
Đất sản xuất nông nghiệp của nước ta có hơn 10,1 triệu ha, chiếm 30,6%
diện tích cả nước, trong đó đất trồng cây hàng năm có hơn 6,4 triệu ha, chiếm
3,4% đất sản xuất nông nghiệp [10].
Phần lớn đất trồng cây hàng năm có thể luân canh, xen canh với lúa như
lúa – đay, lúa – thuốc lá. Phần đất nông nghiệp còn lại chủ yếu trồng cây lâu

10
năm và tập trung nhiều nhất ở Tây Nguyên (khoảng 52% đất nông nghiệp),
Đông Nam Bộ (50%) trên các vùng đất bazan, đất xám. Đất bazan mới sử dụng
vào việc trồng cây cao su và cà phê chừng vài chục vạn ha và trên đất xám cũng
tương tự như vậy [8].

Bên cạnh những mặt thuận lợi tài nguyên đất cũng đem lại không ít khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Vốn đất thuận lợi cho việc trồng lúa đã khai thác hết, khả năng mở rộng
diện tích là rất khó. Diện tích có thể mở rộng chủ yếu là đất dốc, thiếu nước, một
phần bị xói mòn và thoái hóa. Diện tích đất tương đối bằng phẳng có thể trồng
lúa không nhiều, mà hầu hết đất chưa sử dụng là đất mặn, đất phèn, đất ngập
úng đòi hỏi phải đầu tư lớn. Nước ta có 406.000 ha đất bị xói mòn trơ sỏi đá,
800.000 ha đất xám bạc màu trên đá macma axit và đá cát, cùng với 1,2 triệu ha
đất xám bạc màu trên phù sa cổ.
Trong quá trình công nghiệp hóa việc chuyển đổi một phần đất nông
nghiệp, nhất là đất đang trồng lúa vào các mục đích khác (công nghiệp, giao
thông, đô thị,…) ngày càng nhiều ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Các
vùng kinh tế phát triển như Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, dự báo,
trong vòng 15 năm tới, số đất nông nghiệp có thể bị mất đi hàng năm là 2,8 vạn
ha, trong đó có 1 vạn ha đất lúa. Hơn nữa, do Việt Nam là một trong năm nước
bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu, trong đó mực nước biển trung
bình trong vòng 50 năm qua đã dâng 20cm, làm diện tích canh tác bị thu hẹp.
Độ phì của đất nông nghiệp cũng tiếp tục giảm, thí dụ như đối với đất lúa ở
Đồng bằng sông Hồng, việc bón phân mới chỉ bù đắp được khoảng 30% lượng
dinh dưỡng lấy đi từ đất. Chưa kể đến kĩ thuật canh tác thiên về hóa chất và năng
lượng hóa thạch đã làm ô nhiễm, sơ cứng đất, dẫn đến nguy cơ “sa mạc hóa”.
1.2.3. Khí hậu
Nước ta nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, khí hậu nước ta cơ
bản là nhiệt đới. Do địa hình kéo dài theo nhiều vĩ độ ở rìa phía Đông Nam lục
địa châu Á nên chế độ nhiệt có sự khác nhau giữa các vùng. Từ đèo Hải Vân trở
ra chịu ảnh hưởng của khối không khí lạnh cực đới phía Bắc tràn xuống nên

11
hàng năm có một mùa đông lạnh và một mùa hè nóng. Từ đèo Hải Vân trở vào
nóng quanh năm với một mùa mưa và một mùa khô.

Tính chất nhiệt đới làm cho tổng bức xạ mặt trời rất lớn, chế độ mưa
phong phú, trung bình năm đạt 1.500 – 2.000mm. Khí hậu nước ta còn có sự phân
hóa đa dạng theo chiều Bắc - Nam, theo mùa và theo độ cao [5]. Miền Bắc có khí
hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với mùa đông lạnh. Ở vùng núi cao vào mùa này rét
đậm và có sương giá. Miền Nam có khí hậu nhiệt đới điển hình với mùa khô và
mùa mưa rõ rệt. Miền Trung là nơi giao thoa khí hậu giữa hai miền Nam Bắc.
Đặc điểm của khí hậu đã xác định nền nông nghiệp nước ta là nền nông
nghiệp nhiệt đới. Tác động của khí hậu đối với nông nghiệp là cung cấp lượng
bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho cây trồng sinh
trưởng, phát triển quanh năm và năng suất cao. Khí hậu có ảnh hưởng rất lớn tới
việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh tăng
vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Độ ẩm không khí cao, lượng mưa dồi dào cho phép cây trồng có sức tái
sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cây
ngắn ngày có thể tăng thêm từ 1 đến 2 vụ trong năm. Đối với cây dài ngày, có
thể khai thác được nhiều lần trong năm.
Trên bình diện cả nước, các đặc trưng về khí hậu tạo điều kiện bố trí được
một tập đoàn cây trồng, vật nuôi bao gồm cả nhiệt đới và ôn đới, phù hợp với hệ
sinh thái theo hướng phát triển bền vững. Ở vùng núi cao trên 1.500m, khí hậu
quanh năm mát mẻ cho phép có thể hình thành tập đoàn cây trồng, vật nuôi có
nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Lượng tích ôn đới thuận lợi cho việc tạo ra nhiều
vụ trong năm. Riêng ở miền Bắc mùa đông lạnh là tiền đề để phát triển cây vụ
đông [10].
Ở mỗi vùng, khí hậu có tác động khác nhau đến sản xuất nông nghiệp.
Trải dài 15 độ vĩ Bắc trong vòng đai nội chí tuyến, nhưng lại hẹp ngang, lượng
phân bố bức xạ và nhiệt - ẩm về thời gian lẫn không gian có sự khác biệt. Phía
Bắc đèo Hải Vân, tính chất chí tuyến được tăng cường thêm bởi các khối khí
lạnh – khô về mùa đông qua lại mỗi năm khoảng 20 đợt. Biên độ nhiệt trung

12

bình năm chênh lệch tới 11
0
C, còn giữa cực trị nhiệt độ tối cao và tối thấp lên
đến 40
0
C. Sự nhiễu loạn về thời tiết đã tạo ra ở nửa phần phía Bắc nước ta một
hệ sinh thái cực đoan giữa hai mùa nóng lạnh. Vì thế, ở đây thích hợp hơn cả là
các giống cây hàng năm và ngày ngắn [8].
Phía Nam đèo Hải Vân từ Đà Nẵng trở vào có nền sinh thái ổn định hơn
về thời tiết, nhịp độ mùa cũng như nền nhiệt ẩm. Điều đó cho phép nền nông
nghiệp có tính chất ổn định hơn. Sự phân hóa cây trồng đơn thuần chỉ là phân
theo loại đất, từ cây hàng năm đến cây lâu năm. Tuy nhiên, sự khác biệt về thời
tiết của sườn Tây (Tây Bắc với phía Bắc và Tây Nguyên ở phía Nam) trên diện
tích khoảng 26% lãnh thổ lại có ý nghĩa đáng kể trong việc điều khiển thời vụ
cây ngắn ngày và cây dài ngày.
Tính chất mùa cùng với sự phân hóa của các chế độ khí hậu, thời tiết theo
không gian từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây và theo độ cao, có thể phát triển
những vùng chuyên canh hàng hóa cây trồng, vật nuôi có quy mô lớn như: vùng
lúa Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long; vùng chè, cà phê, cây ăn
quả, chăn nuôi đại gia súc ở các tỉnh Trung du miền núi Bắc Bộ; vùng cao su, cà
phê ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên… Đặc biệt, nước ta có những vùng khí hậu
đặc thù có thể phát triển rau, hoa, quả ôn đới quanh năm với chất lượng cao như
Sa Pa, Đà Lạt. Điều này mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, cũng như việc cung
cấp thực phẩm cho con người, nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến diễn
ra điều đặn hơn giữa các tháng trong năm.
Bên cạnh những mặt thuận lợi đáng kể, khí hậu nhiệt đới gió mùa cũng
gây ra nhiều trở ngại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp. Tính chất biến động và
sự phân hóa về khí hậu cũng gây ra mặt trái của nó. Điều này dẫn đến các tai
biến thiên tai như bão, lũ, hạn hán, sương muối, rét đậm, rét hại… mà trong
những năm gần đây, cường độ có chiều hướng gia tăng. Một số thiên tai trong

những vài năm qua đáng lưu ý nhất và cũng gây thiệt hại nhiều nhất cho sản
xuất, đời sống nói chung và nông nghiệp nói riêng là cơn bão Linda cuối năm
1997 ở Nam Bộ, hạn hán trầm trọng và hai trận lũ lụt lịch sử liên tiếp trong hai
tháng cuối năm 1999 trên diện rộng thuộc nhiều tỉnh từ Quảng Bình trở vào, gây

13
ra những tổn thất ghê gớm mà phải vài năm mới có thể khắc phục hết được hậu
quả của nó. Những năm gần đây bão ngày càng xuất hiện nhiều hơn và đường đi
cũng rất bất thường. Năm 2012 nước ta có 10 cơn bão và 2 áp thấp nhiệt đới trên
biển Đông, trong đó có 4 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta và bão có xu
hướng dịch chuyển dần về phía Nam và mùa bão kết thúc muộn hơn. Hạn hán
cũng xảy ra sớm và diễn ra rất khốc liệt, năm 2012 hạn hán xảy ra ở khắp các
tỉnh Tây Nguyên làm cho nhiều nơi cây trồng bị mất trắng, sản lượng và năng
suất giảm mạnh. Ngoài ra còn nhiều hiện tượng bất thường khác như mưa đá,
xâm nhập mặn Các hiện tượng thời tiết trên gây ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển kinh tế của nước ta đặc biệt là ngành nông nghiệp vốn là ngành phụ thuộc
rất lớn vào tự nhiên.
Đặc biệt tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu đến nước ta làm cho
nhiệt độ hàng năm đang tăng lên (theo kịch bản biến đổi khí hậu Việt Nam năm
2009, trong vòng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng 0,7
0
C), các thiên
tai hiện tượng cực đoan xảy ra thường xuyên hơn, khó dự đoán hơn. Điều này
làm tăng thêm tính chất bấp bênh vốn có của nền nông nghiệp nhiệt đới và đòi
hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu và đầu tư thích đáng để giảm thiểu rủi ro.
1.2.4. Nguồn nước
Nước rất quan trọng đối với sự phát triển và phân bố, có ảnh hưởng lớn
đến năng suất cây trồng, chất lượng cây lương thực thực phẩm, như ông cha ta
đã khẳng định: „„nhất nước, nhì phân‟‟.
Nằm trong vùng nhiệt đới, Việt Nam có nguồn nước mặt phong phú. Do

các hệ thống sông lớn nước ta bắt nguồn từ lãnh thổ của các nước láng giềng
nên khối lượng nước của nước ta lớn hơn lượng nước mưa. Nước ta có 2360 con
sông dài từ 10km trở lên, trong đó có 106 dòng sông chính và có 2254 phụ lưu.
Phân phối trên diện tích thì trên 1km
2
trung bình có gần 1km sông suối, đi trên
mặt đất cứ 600 – 1000m lại gặp một dòng nước chảy qua, thậm chí ở nhiều nơi
mật độ sông dày thì chỉ khoảng 300 – 500m, còn đi dọc bờ biển thì 20km lại có
một cửa sông [5]. Ngoài ra, lượng mưa hàng năm tương đối lớn càng tạo điều
kiện cho sự phong phú của nguồn nước mặt.

14
Các vùng nông nghiệp trù phú gắn liền với hệ thống các sông lớn. Lưu
vực sông Hồng – Thái Bình bao trùm toàn bộ không gian nông nghiệp Bắc Bộ.
Các lưu vực sông miền Trung (sông Cả, sông Mã, sông Gianh, sông Hương…)
đồng thời cũng là các vùng lúa. Hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai bao phủ lên
không gian nông nghiệp Đông, Tây Nam Bộ [10].
Bên cạnh nước mặt, nguồn nước ngầm cũng tương đối phong phú, mặc dù
chưa được thăm dò, đánh giá đầy đủ. Trữ lượng đã thăm dò khoảng 3,3 tỉ m
3

/năm, tập trung ở các phức hệ trầm tích bở rời (chủ yếu là Đồng bằng sông
Hồng, sông Cửu Long); phức hệ trầm tích cacbônat (phần lớn ở Đông Bắc, Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ); phức hệ phun trào bazan (đa phần ở Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ). Việc khai thác nước ngầm để tưới đã được thực hiện ở các vùng
chuyên canh cây công nghiệp có mùa khô khắc nghiệt như Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ.
Tài nguyên nước phong phú, song lại phân bố không đồng đều theo thời
gian và không gian. So với lượng nước cả năm mùa lũ chiếm 70 – 80%, còn
mùa kiệt chỉ có 20 – 30%. Chính vì vậy, mùa mưa nhiều nước gây ngập úng một

số nơi (Đồng bằng sông Cửu Long) làm thiệt hại mùa màng. Mùa khô gây thiếu
nước ở một số nơi (Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ…). Đây
là khó khăn rất lớn đối với ngành nông nghiệp. Để hạn chế việc thiếu nước vào
mùa khô và quá dư thừa trong mùa lũ, cần xây dựng các công trình thủy lợi phục
vụ tưới tiêu một cách chủ động.
Ngoài ra, chất lượng nước mặt ở một số sông, hồ các xu hướng bị ô nhiễm
nặng. Ở các khu vực ven biển, nước mặn có chiều hướng tiến sâu vào đất liền
(sông Hồng nước mặn lấn sâu 20km, sông Thái Bình 40km, sông Tiền 50km,
sông Hậu 40km), gây ảnh hưởng lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Biến đổi khí
hậu có tác động nghiêm trọng đến tài nguyên nước, làm cho tầng nước mặt và
nước ngầm bị xâm nhập sâu.
1.2.5. Sinh vật
Sinh vật là thành phần chỉ thị của môi trường địa lí tự nhiên, thông qua
hình thái, cấu trúc cũng như số lượng chất lượng các quần xã sinh vật, có sự

15
thống nhất giữa thực vật, động vật và với môi trường.
Sinh vật Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Sự đa dạng sinh học
bao gồm cả sự đa dạng về hệ sinh thái, sự đa dạng về thành phần loài và sự đa
dạng về công dụng.
Nước ta có tới 14.624 loài thực vật thuộc gần 300 họ, trong đó có 9949
loài sống ở đai rừng nội chí tuyến gió mùa chân núi và 4675 loài sống tại các đai
rừng á chí tuyến và ôn đới gió mùa trên núi. Xét về cây nông nghiệp, thì tính sơ
bộ Việt Nam có hơn 200 loài, trong khi đó cả một trung tâm cây nông nghiệp
lớn như Hoa Nam chỉ có 136 loài và toàn bộ Đông Nam Á kể cả Hoa Nam, tập
trung ba trong tám trung tâm cây trồng trên thế giới, cũng chỉ khoảng 270 loài
[5]. Sự đa dạng về loài cây, là tiền đề hình thành và phát triển các giống cây
trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự
nhiên và sinh thái.
Về động vật, nước ta có tới 11.217 loài và phân loài, trong đó có 828 loài

chim (tính đến phân loài thì được 1040), 223 loài thú, 272 loài bò sát, 87 loài
lưỡng cư, 5000 loài côn trùng, 2000 loài cá biển, 471 loài cá nước ngọt và hàng
nghìn loài tôm cua, nhuyễn thể và thủy sinh vật [5]. Đây là cơ sở để thuần dưỡng
các loài động vật thành các vật nuôi, các vi sinh vật sống trong đất, giun đất…
góp phần làm đất tơi xốp.
Sinh vật nước ta đa dạng và phong phú đây là điều kiện thuận lợi để hình
thành và phát triển các giống vật nuôi, cây trồng. Tuy nhiên cũng là một khó
khăn rất lớn đối với nước ta đó là còn có một số loài côn trùng, sâu bệnh phát
triển gây ảnh hưởng rất lớn đến mùa màng của nước ta như bệnh rầy nâu, sâu
cuốn lá…vật nuôi rất dễ mắc bệnh như tai xanh, lở mồm long móng…
1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Các nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông
nghiệp. Chúng được phân ra thành các nhóm nhân tố chính như nguồn lao động,
cơ sở vật chất kĩ thuật, đường lối phát triển nông nghiệp…

16
1.3.1. Dân cư và nguồn lao động
Việt Nam là nước đông dân. Năm 2010, nước ta có số dân là 86.927,7
nghìn người, đứng thứ ba Đông Nam Á và thứ 13 thế giới. Hàng năm nước ta có
thêm gần 1 triệu trẻ em được sinh ra [3]. Quy mô dân số đông và gia tăng hàng
năm làm cho nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp thiết yếu như lương
thực, thực phẩm ngày càng nhiều.
Năm 1990, lao động nông nghiệp nước ta là 18,8 triệu người, chiếm
71,6% lao động xã hội. 10 năm sau, con số này là 24,5 triệu người và 65%
(2000) và năm (2009), tương ứng là 24,8 triệu người và 51,9% (tính cả nông –
lâm – ngư nghiệp) [8].
Bảng 1.2. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
giai đoạn 1995 – 2010 (%)
Năm
Nông – lâm – thủy sản

Công nghiệp – xây
dựng
Dịch vụ
1995
71,2
11,4
17,4
2000
65,1
13,1
21,8
2005
57,2
18,2
24,6
2007
53,9
20,0
26,1
2009
51,5
20,0
28,5
2010
49,5
20,9
29,6
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2011)
Số dân nước ta đông và tốc độ gia tăng dân số còn cao. Vì thế, nguồn lao
động dồi dào thường xuyên được bổ sung và chất lượng lao động (trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ) bước đầu đã được cải thiện, tuy chưa đáp ứng kịp yêu
cầu của nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng trước công cuộc đổi
mới. Trong điều kiện như vậy, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để
phát triển nông nghiệp theo chiều rộng (khai hoang, mở rộng diện tích) và theo
chiều sâu (thâm canh).

17
Bản chất của người lao động nông nghiệp cần cù, chịu khó và có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất, lực lượng trong sản xuất trẻ đủ sức tiếp thu và ứng
dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất.
Nguồn lao động đông cũng là một khó khăn cho ngành nông nghiệp phát
triển theo chiều sâu. Số lao động hàng năm tăng lên với nhịp độ nhanh, mà phần
đông là lao động kĩ thuật thấp, hay lao động phổ thông, đã làm nóng thêm tình
hình việc làm ở khu vực này, ảnh hưởng đến hiệu quả sản phẩm cây lương thực
thực phẩm.
Hơn nữa, nguồn lao động chưa được sử dụng hợp lí và phân bố không
đồng đều giữa các ngành và các vùng trong cả nước. Phần lớn lao động tập trung
ở vùng đồng bằng, nhất là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long
điều này ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng và năng suất, phân bố sản xuất cây
lương thực, thực phẩm cũng khác nhau giữa các vùng.
1.3.2. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ nông nghiệp
Cơ sở hạ tầng vật chất kinh tế - xã hội nông thôn không ngừng được hoàn
thiện, nhất là hệ thống giao thông nông thôn. Với sự nỗ lực đầu tư của Nhà
Nước và khơi dậy được nguồn vốn trong dân, đến nay đã có 96,9% số xã có
đường ô tô đến trung tâm; 96,8% số xã có điện lưới quốc gia; hệ thống chợ, bưu
chính viễn thông nông thôn được quan tâm đầu tư phát triển góp phần quan
trọng cho nông nghiệp đạt hiệu quả cao [8].
Trong nông nghiệp, cơ sở vật chất kĩ thuật bước đầu đã được hình thành
và hoàn thiện. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công nghiệp là thủy lợi
hóa. Vấn đề tưới tiêu về cơ bản, đã được giải quyết, đặc biệt ở các vùng đồng

bằng. Hệ thống đồng ruộng đã được cải tạo đảm bảo cho việc thâm canh, cơ giới
hóa. Công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi được triển khai và có
thể nhanh chóng dập tắt các nguồn gây bệnh. Các loại giống mới có năng suất
cao dần dần thay thế cho các loại giống cũ…
Bước vào thời kì Đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
nông nghiệp đã được tăng cường đáng kể, nhất là về thủy lợi, về điện phục vụ
nông nghiệp, phân bón, vật tư nông nghiệp, cơ giới hóa. Vào thập kỉ 90, hơn

18
90% diện tích gieo trồng lúa được tưới tiêu bằng các công trình thủy nông lớn,
phần lớn vùng nông thôn đã có điện. Một bộ phận diện tích canh tác được cơ
giới hóa. Nhiều tiến bộ khoa học kĩ thuật được nhanh chóng áp dụng vào sản
xuất, tạo ra bước chuyển mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nông
nghiệp. Các cơ sở chế biến nông phẩm đang từng bước gắn với hoạt động sản
xuất nông nghiệp chặt chẽ hơn. Sự xuất hiện của nhiều nhà máy chế biến nông
phẩm ở các vùng chuyên canh lớn như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu
Long, Đồng bằng sông Hồng… đã đưa nông nghiệp gắn với công nghiệp, mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Hệ thống ngân hàng đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp ví dụ như:
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn… Các trung tâm tổ chức các
lớp đào tạo tay nghề cho người lao động; các trung tâm cung cấp giống cây
trồng, dịch vụ nông nghiệp: Hợp tác xã nông nghiệp, trạm khuyến nông,… các
cơ sở lai tạo giống cây trồng, bảo vệ thực vật; các cơ sở sản xuất, cung cấp phân
bón, các loại hóa chất phục vụ cho nông nghiệp ngày càng được nâng cao.
Chất lượng kết cấu cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông
thôn thấp: do công tác quy hoạch khu dân cư ở nông thôn chưa được chú trọng
đúng mức nên hầu hết nông thôn phát triển tự phát, thiếu sự tính toán hài hòa và
hợp lí về kết cấu không gian, kế thừa truyền thống, bảo vệ môi trường, đảm bảo
các chức năng giao thông, cấp thoát nước, cung cấp năng lượng vv….
Đầu tư phát triển cở sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ

cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn yếu kém: nguồn
vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông
thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao
đời sống người dân, nhất là ở các vùng miền núi (đặc biệt là giao thông, thủy lợi,
thông tin liên lạc).
Hệ thống thủy lợi cho sản xuất ở một số vùng còn chưa đáp ứng nhu cầu,
tỷ lệ diện tích cây hàng năm được tưới bằng công trình thủy lợi ở Duyên hải
miền Trung (44%), miền núi phía Bắc (32%), Tây Nguyên (25%) và Đông Nam
Bộ (51%).

×