Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học NHẬN THỨC và vận DỤNG QUY LUẬT QUAN hệ sản XUẤT lực LƯỢNG sản XUẤT của ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.07 KB, 31 trang )

NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ
SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG TA TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
CNDVLS là một trong hai cống hiến vĩ đại của C. Mác cho lịch sử tư
tưởng nhân loại. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội là nền tảng của
CNDVLS. Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã làm nổi bật
mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX. Mâu thuẫn biện chứng giữa
LLSX và QHSX là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển xã hội.
Xã hội luôn vận động, phát triển và chi phối bởi nhiều quy luật, nhưng
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản
nhất. Nó là cơ sở, phương pháp luận khoa học, trong việc tiếp cận nghiên cứu
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Năm 1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội của sự nghiệp đổi
mới đã đưa cả nước bước vào thời kỳ mới với những chuyển biến tích cực
trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta từng bước sửa chữa những sai lầm cả trong
nhận thức, cũng như trong thực tiễn vận dụng qui luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển LLSX. Với thành tựu bước đầu của sự nghiệp đổi mới, Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (1996) nhìn lại sau 10 năm đổi
mới, đã khẳng định: Chúng ta bước sang giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đánh giá 20 năm
thực hiện cương lĩnh, “Chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, rút
ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố tăng cường. Độc
lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được


2

giữ vững, vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức


mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta
phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa” 3. Đảng khẳng định:
phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những
thành tựu cực kỳ to lớn. Một trong những nguyên nhân cơ bản của những
thành tựu đó là Đảng ta đã nhận thức một cách đúng đắn và sâu sắc hơn về
CNXH, về thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc biệt là vận dụng đúng mối quan hệ
biện chứng giữa LLSX và QHSX. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được nước ta vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề vướng mắc, nhiều vấn đề mới nảy
sinh, làm cho nền kinh tế - xã hội phát triển chưa đồng bộ, còn gặp những khó
khăn. Chúng ta đứng trước cả thách thức và thời cơ vận hội mới. Điều này đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, tiếp tục vận dụng quy luật này trong
thực tiễn hơn nữa để không ngừng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Với mong muốn nâng cao nhận thức của mình về qui luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển LLSX, quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX,
bước đầu tìm hiểu việc vận dụng nó trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta
hiện nay, tôi chọn vấn đề nghiên cứu: “Nhận thức và vận dụng quy luật
QHSX phù hợp với trình độ LLSX của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay”
1. THỰC CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG
PHÁP LUẬN TRONG VẬN DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. Thực chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.

3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.20-21.



3

Với quan điểm lập trường duy vật biện chứng về lịch sử, C. Mác là
người đầu tiên phát hiện sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là sản
xuất vật chất. Sản xuất vật chất là nhu cầu khách quan của lịch sử, bởi vì bất
cứ chế độ xã hội nào cũng không thể tồn tại và phát triển, nếu không có quá
trình thường xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội. Sản xuất xã hội bao gồm
sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người.
Trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng. Để duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình, con người không chỉ dựa vào những cái sẵn có trong tự nhiên
mà phải tiến hành lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu
cầu về đời sống vật chất và tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của con
người và xã hội loài người. Do đó, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của
toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Sản xuất vật chất là quá trình hoạt động của con người, trong quá trình
đó, con người sử dụng các phương tiện, công cụ thích hợp, thực hiện việc cải
tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của mình.
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ tạo ra của cải vật chất cho
sự tồn tại của mình, mà còn thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất những
quan hệ xã hội của chính con người, những QHSX, những quan hệ này tạo
thành cơ sở kinh tế của xã hội, cơ sở hiện thực của toàn bộ những tư tưởng,
tinh thần cùng những thiết chế tương ứng trong xã hội. Đó cũng là cơ sở hiện
thực của toàn bộ hoạt động sản xuất tinh thần của xã hội.
Trong quá trình sản xuất xã hội, con người biến đổi giới tự nhiên, biến
đổi đời sống xã hội, đồng thời biến đổi chính bản thân mình. Ph. Ăngghen
cho rằng: lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:
lao động đã sáng tạo ra bản thân con người. Để tiến hành sản xuất vật chất,
con người vừa phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên



4

(quan hệ đó được biểu hiện ở LLSX), vừa phải quan hệ với nhau trong quá
trình sản xuất (biểu hiện ở QHSX). Đây là quan hệ “kép”, hay còn gọi là mối
quan hệ “song trùng” khách quan, phổ biến trong lịch sử sản xuất vật chất của
nhân loại. LLSX và QHSX là hai mặt thống nhất trong một PTSX.
C.Mác cho rằng: Trong sản xuất vật chất người ta không chỉ tác động
vào giới tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau nữa, người ta không thể sản xuất
được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó, để trao đổi hoạt động
chung và để trao đổi hoạt động với nhau.
* Phương thức sản xuất
PTSX là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
một giai đoạn lịch sử nhất định. Là sự thống nhất giữa LLSX và QHSX.
Trong quá trình sinh tồn của mình, loài người luôn không ngừng sản
xuất ra của cải vật chất và những sản phẩm tinh thần để phục vụ và thoả mãn
cho nhu cầu ngày càng cao của mình. Như vậy qua mỗi giai đoạn lịch sử, con
người luôn vươn tới những mức độ ( trình độ) sản xuất khác nhau theo qui
luật tiến hoá của lịch sử xã hội, mức độ, trình độ sản xuất ngày càng tiến bộ,
cách thức sản xuất của con người ở giai đoạn sau bao giờ cũng tiến bộ, văn
minh hơn giai đoạn trước và có sự kế thừa một cách tự nhiên những yếu tố
tiến bộ, hợp lý của giai đoạn trước, đó là sự kế thừa biện chứng trong quá
trình phát triển của xã hội, của quá trình sản xuất vật chất và tinh thần của con
người. Đương nhiên khi con người sản xuất ở những giai đoạn (thời đại) khác
nhau đó thì có những cách thức sản xuất cũng khác nhau và mỗi cách thức sản
xuất ở thời đại ấy gọi là PTSX. Sự thay thế nối tiếp nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên và tương ứng với mỗi hình
thái kinh tế - xã hội đều có một PTSX riêng. Lực lượng sản xuất như dòng
chảy không ngừng phát triển và tới một mức độ nhất định nó sẽ phá vỡ QHSX

cũ, lúc đó cách mạng xã hội sẽ làm thay đổi những điều kiện kinh tế, chính


5

trị, xã hội, một chế độ xã hội mới ra đời thì tất yếu xuất hiện cách thức
(phương thức) sản xuất mới.
* Lực lượng sản xuất
LLSX chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
LLSX là sự kết hợp giữa người lao động và kỹ năng lao động của họ
và TLSX. Trong TLSX gồm tư liệu lao động (mà trước hết là công cụ lao
động và các phương tiện vật chất khác) và đối tượng lao động. Công cụ
lao động được xem là yếu tố quan trọng nhất trong TLSX. Công cụ lao
động là toàn bộ máy móc, thiết bị và các phương tiện phục vụ cho quá
trình sản xuất vật chất. Công cụ lao động chính là chiếc cầu nối giữa con
người với tự nhiên - là khí quan vật chất “nhân” sức mạnh của con người
trong quá trình biến đổi tự nhiên. Trong LLSX, công cụ lao động là yếu tố
động nhất, nó có vị trí quyết định trong TLSX. Theo Ăngghen, công cụ
lao động “là khí quan của bộ óc con người”, “là sức mạnh trí tuệ đã được
vật thể hoá”, có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân sức mạnh trí tuệ của
con người, trong quá trình chinh phục giới tự nhiên. Cùng với những sáng
chế, phát minh khoa học, trong mỗi thời đại, công cụ lao động không
ngừng được cải tiến để nâng cao năng xuất lao động.
Trình độ phát triển công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau
giữa các thời đại kinh tế. Theo C.Mác: Trong những thời đại kinh tế khác
nhau, không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào và với những tư liệu lao động nào.
Khi đề cập đến LLSX, chúng ta không thể không đề cập đến tính chất và

trình độ của LLSX. Tính chất của LLSX là đặc trưng xã hội của LLSX trong
lịch sử phát triển của sản xuất. LLSX có hai tính chất cơ bản đối lập nhau:


6

Tính chất cá nhân và tính chất xã hội. Nói cách khác: Tính chất của LLSX nói
lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội trong việc sử dụng TLSX.
Tính chất cá nhân của LLSX được biểu hiện khi người lao động bằng
những công cụ thủ công lao động theo kiểu riêng rẽ từng người một và sản
phẩm làm ra của cá nhân.
Tính chất xã hội của LLSX là người lao động sản xuất bằng máy móc,
đòi hỏi nhiều người cùng hợp tác trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm.
Tính chất xã hội của LLSX chỉ xuất hiện khi CNTB công nghiệp ra đời.
Trình độ của LLSX là chỉ năng lực chinh phục tự nhiên của con người
được biểu hiện trước hết là ở trình độ phát triển công cụ lao động, trình độ tổ
chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người. Giữa
tính chất và trình độ luôn thống nhất với nhau, trong một trạng thái nhất định
của LLSX, trong đó trình độ quyết định tính chất LLSX. Khi nói tới trình độ
LLSX thì nó đã bao hàm trong đó cả tính chất của LLSX rồi.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước
nhảy vọt lớn trong LLSX, khoa học trở thành LLSX trực tiếp. Thực chất của
cuộc cách mạng đó là chỗ nó mở ra kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá,
với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học. Chưa bao giờ tri thức khoa
học được vật hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của LLSX và cả QHSX
nhanh và có hiệu quả như ngày nay. Khoa học không còn là yếu tố nằm ngoài
quá trình sản xuất, mà thâm nhập vào các yếu tố của LLSX. Các tiến bộ khoa
học công nghệ mới đã được vật hoá vào công cụ, tư liệu sản xuất mới. Người lao
động cũng cần phải được chuyển giao, nắm vững công nghệ mới để sản xuất. Tri

thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động sản xuất của người sản xuất,
thay thế cho thói quen và kinh nghiệm thông thường trước đây.


7

Như vậy, các yếu tố cấu thành LLSX không tồn tại độc lập tách rời nhau
mà luôn có tác động biện chứng với nhau trong quá trình hoạt động sản xuất
vật chất. Sự phát triển của TLSX phụ thuộc vào trí thông minh của người lao
động. Đồng thời, bản thân những phẩm chất, kinh nghiệm, thói quen của
người lao động đều phụ thuộc vào TLSX hiện có.
LLSX do con người tạo ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng
vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, con người dù muốn hay không muốn
nó vẫn tồn tại khách quan cùng với phát triển của con người, xã hội loài
người. Trong quá trình sản xuất con người không chỉ quan hệ với tự nhiên mà
còn quan hệ với nhau ( quan hệ người - người ).
* Quan hệ sản xuất
Trong quá trình sản xuất, con người chẳng những quan hệ với tự nhiên
mà còn có những quan hệ với nhau để cùng tiến hành sản xuất. QHSX là
những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản xuất xã hội,
là quan hệ vật chất của xã hội tồn tại khách quan, độc lập với ý thức.
Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ. Từ
những QHSX, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của LLSX vật chất”. QHSX bao giờ cũng được cấu thành bởi 3 yếu tố:
Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu TLSX; quan hệ giữa người
với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi hoạt động cho nhau;
quan hệ giữa người với người về phân phối sản phẩm xã hội.
Trong ba mối quan hệ đó thì quan hệ sở hữu về TLSX có ý nghĩa quyết
định đối với các quan hệ khác, quyết định vị trí của các tập đoàn người trong

sản xuất, trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động phân phối sản phẩm xã
hội. Hay nói cách khác địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong sản xuất và


8

phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu và các hình thức chiếm hữu đối với
TLSX quy định.
Lịch sử xã hội đã trải qua hai kiểu sở hữu về TLSX: sở hữu tư nhân và
sở hữu công cộng về TLSX. Nếu sở hữu tư nhân thì quan hệ giữa người với
người trong xã hội là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Ví dụ các xã hội có đối
kháng giai cấp như: xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản
chủ nghĩa. Nếu sở hữu công cộng, thì quan hệ giữa người với người là quan
hệ hợp tác tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ví dụ, trong xã hội, XHCN. Như
vậy, quan hệ sở hữu về TLSX quyết định bản chất của QHSX và quyết
định bản chất chế độ xã hội.
Các quan hệ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất và quan hệ phân phối
sản phẩm xã hội tuỳ thuộc vào quan hệ sở hữu, nhưng có tác động trở lại đối
với quan hệ sở hữu. Quan hệ tổ chức, quan hệ quản lý và phân phối, có thể
góp phần củng cố quan hệ sở hữu, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan
hệ sở hữu. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu một
phương thức quản lý thích ứng và phù hợp thì sản xuất vẫn có bước phát
triển.

Trong nhiều trường hợp, nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy

mô, tốc độ và hiệu quá nền kinh tế. Khi lợi ích của người lao động mâu thuẫn
với chủ sở hữu và tổ chức quản lý thì quan hệ tổ chức mang nặng tính chất
thống trị, chuyên chế cưỡng ép. Nhưng nếu quan hệ tổ chức quản lý được
điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ, lợi ích giữa chủ thể sở hữu và công nhân

được giải quyết hài hoà thì sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
người lao động. Ngược lại, không có một hệ thống quản lý phù hợp nó sẽ kìm
hãm, thậm chí phá hoại quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối cũng là một mặt cấu thành của QHSX. Trong quá
trình sản xuất, quan hệ phân phối là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho


9

những người tham gia vào quá trình đó. Việc phân phối kết quả sản phẩm
cũng phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX.
Như vậy, quan hệ sở hữu về TLSX tuy giữ vai trò quyết định đối với
quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, nhưng nếu quan hệ tổ chức
quản lý và phân phối không được giải quyết đúng đắn, sẽ tác động tiêu cực
đến quan hệ sở hữu. Động lực thúc đẩy con người hoạt động là lợi ích, mà cơ
sở là lợi ích kinh tế. Vì vậy, sở hữu TLSX bao giờ cũng là cơ sở, phương tiện,
điều kiện của mọi quan hệ lợi ích. Nhưng quan hệ sở hữu không tự thực hiện
được lợi ích của mình mà phải thông qua quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ
phân phối. Nếu quan hệ tổ chức quản lý và phân phối không đúng phạm vi lợi
ích người lao động thì sở hữu công cộng tập thể dù có ý nghĩa to lớn đến đâu
cũng đều vô nghĩa.
Ba yếu tố cấu thành QHSX luôn gắn bó với nhau tạo thành bản chất
của QHSX. Vì vậy, khi xem xét QHSX không được tuyệt đối hoá yếu tố
nào. Sự gắn kết chặt chẽ ba yếu tố của QHSX mới tạo ra được động lực
mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển LLSX nói riêng và xã hội nói chung. Vì
vậy, khi nói về mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
* Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
Hiểu sự phù hợp nói chung với các ý nghĩa như : Phù hợp là sự cân
bằng, “sự yên tĩnh”, sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Phù hợp là một

xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng, sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân
bằng là tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát
triển. Trong phép biện chứng, cái tương đối không tách rời khỏi cái tuyệt
đối, nghĩa là giữa chúng không có một giới hạn xác định. Nếu chúng ta
nhìn từ một góc độ khác thì sự cân bằng có thể được hiểu như sư đứng im,


10

còn sự không cân bằng thì có thể hiểu như là sự vận động. Theo cách hiểu
này, sự cân bằng, sự phù hợp trong mối liên hệ giữa QHSX với LLSX chỉ
là tạm thời, còn sự không cân bằng, không phù hợp giữa chúng mới là
tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta
thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động, cũng vì vậy có thể
nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của LLSX và QHSX chừng
nào chúng ta thừa nhận tính vĩnh viễn của sự không phù hợp giữa chúng.
Nhưng QHSX và LLSX là hai thành tố có tính độc lập tương đối của
nó, có kết cấu vật chất khác nhau và vì vậy lực lượng tương tác giữa
chúng và tốc độ vận động của chúng rất khác nhau - chính sự lệch pha
này đã tạo nên sự không cân bằng giữa chúng , tạo nên mối quan hệ trong
vận động giữa chúng. Chỉ ở vào một thời điểm nhất định nào đó, giữa
chúng mới có sự cân bằng tạm thời, bởi vì sau đó do tốc độ và các lực
tương tác nội tại, chúng lại sẽ vượt khỏi giới hạn cân bằng và tiếp tục dao
động lệch pha.
Nhưng nếu sự vận động chỉ đơn giản như vậy thì ở đâu là thời điểm
cách mạng, nghĩa là thời điểm khủng hoảng bước ngoặt. Trong lịch sử đã
từng diễn ra những bước ngoặt như vậy. Đó chính là vào lúc mà sự lệch
pha về tốc độ và các lực tương tác giữa LLSX và QHSX đã không còn có
thể trở về sự cân bằng cũ . Quan hệ sản xuất sẽ phải bị thay đổi về căn

bản trong kết cấu của nó để với kết cấu mới đó, tạo nên lực và tốc độ
tương ứng với tốc độ và lực của LLSX hiện tại, nhờ đó tạo nên sự cân
bằng trong quan hệ vận động giữa chúng. Và cứ như vậy, lịch sử của sản
xuất đã vận động và phát triển trong quá trình từ những lệch pha đến sự
cân bằng và rồi lại lệch pha mới, nói một cách khác, quá trình vận động
và phát triển của sản xuất đi từ sự không phù hợp đến phù hợp, nhưng
trạng thái phù hợp luôn luôn chỉ là tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự


11

phù hợp vĩnh hằng giưã LLSX với QHSX là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái
không thể thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Mặt khác, LLSX và QHSX là hai thành tố vừa có sự vận động tự
thân vừa phụ thuộc lẫn nhau. ở đây nảy sinh vấn đề về sự hình thành
quan hệ sản xuất mới trong lòng một xã hội cũ. Quan điểm Mác xít cho
rằng quan hệ sản xuất mới được hình thành từ trong lòng xã hội cũ và độc
lập với những ý muốn của con người. Người ta không thể tự do lựa chọn
cho mình một quan hệ sản xuất nào đó, bởi quan hệ sản xuất bị quy định
bởi trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mặt khác , nói đến LLSX và
QHSX là buộc phải nói đến vai trò của con người, nghĩa là sự tác động trở
lại của ý chí con người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, nếu tuyệt
đối hoá vai trò của ý chí con người trong việc lựa chọn QHSX thì từ đó
chúng ta đã bước hẳn sang một trạng thái khác, trạng thái của chủ nghĩa
duy tâm, duy ý chí.
* Thực chất quy luật
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX là quy luật
chung, phổ biến, tác động trong toàn bộ lịch sử nhân loại, làm cho lịch sử
chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này, lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao
hơn.

LLSX và QHSX là hai mặt của một PTSX có tác động biện chứng. LLSX
là nội dung, QHSX là hình thức xã hội quá trình sản xuất. Theo quy luật tác
động giữa nội dung và hình thức thì bao giờ nội dung cũng quyết định hình
thức. Với tư cách là nội dung LLSX quyết định QHSX, QHSX tác động trở lại
to lớn đối với LLSX. Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì thúc đẩy LLSX
phát triển, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Trong thực tế tính chất và trình độ phát triển của LLSX là không tách rời
nhau. Sự phát triển của LLSX là phát triển cả tính chất và trình độ.


12

Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX
LLSX và QHSX là hai mặt đối lập biện chứng cấu thành PTSX, chúng tồn
tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó LLSX là nội dung,
QHSX là hình thức xã hội của sản xuất. LLSX quyết định QHSX, quyết định nội
dung, tính chất, xu hướng vận động của QHSX. Theo C.Mác: thích ứng với mỗi
trình độ sản xuất, chỉ có một kiểu QHSX đặc trưng. Tức là trình độ phát triển
của LLSX như thế nào thì nó sẽ quyết định, quy định hình thức như thế ấy.
Theo C.Mác: Những quan hệ xã hội đều gắn mật thiết với những LLSX.
Do có được những LLSX mới, loài người thay đổi PTSX của mình và do thay
đổi PTSX, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ
xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa. Cái
cối xay chạy bằng hơi nước, đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là phát triển không ngừng để tăng
năng xuất lao động, sản xuất vật chất được biểu hiện ra từng giai đoạn cụ thể
là PTSX, mà PTSX là sự thống nhất giữa hai mặt LLSX và QHSX. Trong
mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX thì LLSX là yếu tố động và
cách mạng (nội dung), QHSX là hình thức của LLSX mang tính chất ổn định
tương đối. Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX được

biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giai cấp dẫn đến đấu
tranh giai cấp, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách
mạng xã hội diễn ra dẫn đến sự thay đổi của QHSX cũ thành QHSX mới, tiên
tiến phù hợp với LLSX đã phát triển, C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng các LLSX vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
QHSX hiện có... trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ
là hình thức phát triển LLSX, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các
LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”4
4

Học viện Chính trị quốc gia, “Tập bài giảng Triết học Mác – Lênin”, Tập II, CNDVLS, H, 2000. Tr 49


13

Như vậy, QHSX từ chỗ phù hợp, không phù hợp, rồi lại phù hợp với
LLSX...quá trình ấy là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng khách quan giữa
QHSX và LLSX trong PTSX. Quá trình đó lặp đi lặp lại mang tính chất quy
luật trong quá trình phát triển sản xuất vật chất. Thực tế sự phát triển nối tiếp
nhau của các PTSX từ thấp đến cao đã chứng minh tính quy luật đó. Khi trình
độ LLSX (công cụ lao động) còn thô sơ như cành cây, hòn đá...thì QHSX phù
hợp với nó là quan hệ cộng đồng nguyên thuỷ. Nhưng sản xuất xã hội luôn
luôn vận động và phát triển khi LLSX phát triển đến một trình độ cao hơn đó
là công cụ bằng kim loại thay thế đồ đá, cung tên thì quan hệ cộng đồng
nguyên thuỷ lúc này không còn phù hợp và bị phá vỡ, thay thế vào đó là
QHSX chiếm hữu nô lệ và tiếp đó QHSX phong kiến.
Hình thái kinh tế - xã hội lúc này là hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu
nô lệ và phong kiến. Khi LLSX phát triển đến một trình độ cao hơn (sản xuất
bằng máy móc, LLSX mang tính chất xã hội hoá) thì QHSX phù hợp với nó
là QHSX TBCN thay thế cho QHSX phong kiến. Hình thái kinh tế - xã hội

TBCN thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội phong kiến. Thực tế CNTB đã
tạo ra một LLSX hết sức to lớn và xã hội hoá cao, nhưng bản thân QHSX
TBCN không dung nạp nổi LLSX đó, vì vậy yếu tố đó lại bị phá vỡ. Khi
QHSX TBCN bị xoá bỏ, QHSX XHCN được xác lập phù hợp với LLSX đang
phát triển. Hình thái kinh tế - xã hội TBCN sẽ bị thay thế bằng hình thái kinh
tế - xã hội, XHCN.
Sự thay đổi hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái xã hội khác cao
hơn suy cho cùng là do trình độ phát triển của LLSX quy định.
Một khi LLSX đã biến đổi thì sớm hay muộn QHSX cũng phải biến đổi
cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX mới.


14

Tóm lại LLSX có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi phát triển của
QHSX, cùng với sự phát triển của LLSX thì QHSX cũng phải thay đổi theo cho
phù hợp. Sự phù hợp đó là điều kiện tất yếu để cho sản xuất xã hội phát triển.
QHSX tác động trở lại LLSX
QHSX sau khi bị trình độ và tính chất của LLSX quy định thì nó cũng có
sự tác động trở lại đối với LLSX. Hay nói cách khác, nội dung bao giờ cũng
có tính chất quyết định hình thức, song hình thức có sự tác động trở lại đối
với nội dung. QHSX có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với LLSX.
Nó quy định mục đích của sản xuất xã hội, quy định cách thức, phương pháp,
quy mô...trong quá trình sản xuất, đồng thời nó quy định cả phương thức phân
phối sản phẩm. Từ đó tạo ra hệ thống các yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm
sự phát triển của LLSX. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là một trạng thái
trong đó QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX, “tạo địa bàn đầy đủ” cho
LLSX phát triển. Nếu QHSX “đi sau” hay “vượt trước” sự phát triển của
LLSX đều không phù hợp. Đây là sự phù hợp giữa hình thức và nội dung của
quá trình sản xuất; là sự “đồng bộ” và “đồng điệu” giữa các yếu tố của QHSX

với các yếu tố của LLSX; phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà
là tương đối, có chứa đựng sự khác biệt, phù hợp trong sự vận động phát
triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu
thuẫn.
Khi phù hợp thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất
được mở rộng, những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng nhanh
chóng, người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất (vì lợi ích của người lao
động được bảo đảm). Vì vậy, sẽ thúc đẩy LLSX phát triển, nếu không phù
hợp sẽ ngược lại.
Trong quá trình sản xuất vật chất, phân phối sản phẩm không phù hợp
với lợi ích của người lao động thì sẽ không kích thích sản xuất phát triển.


15

Ngược lại, nếu phương thức phân phối sản phẩm đáp ứng được nhu cầu lợi ích
của người lao động sẽ kích thích sản xuất phát triển, tạo ra năng xuất lao động
cao.
Trước Đại hội VI (trước năm 1986) nền kinh tế nước ta rơi vào khủng
hoảng do chúng ta xây dựng QHSX không phù hợp với LLSX (xây dựng
QHSX cao hơn LLSX, “vượt trước” LLSX). Đến Đại hội VI Đảng ta nhận
định: “LLSX bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp lạc hậu, mà cả khi
QHSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
của LLSX”5. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX biểu hiện ở hai
chiều phù hợp và không phù hợp.
Chiều phù hợp là QHSX phù hợp với trạng thái phát triển của LLSX. Sự
phù hợp của QHSX với trình độ, tính chất của LLSX là sự kết hợp đúng đắn
giữa các mặt cấu thành QHSX, với các yếu tố cấu thành LLSX đem lại
phương thức liên kết có hiệu quả cao, giữa người lao động với TLSX. Đó là
điều kiện để đảm bảo cho sản xuất phát triển.

Chiều không phù hợp nghĩa là, QHSX không phù hợp với trình độ của
LLSX. Sự không phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX thể hiện ở 2 mặt.
Mặt thông thường là do các QHSX không phát triển cùng nhịp với sự phát
triển của LLSX, mà có xu hướng phát triển chậm dần lại, trở nên lỗi thời lạc
hậu, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Mặt khác, sự không phù hợp của
QHSX đối với sự phát triển LLSX còn do chủ quan gán ghép một QHSX tiên
tiến vượt trội LLSX.
Sự tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm của QHSX đối với LLSX
chỉ là tương đối. Sự kìm hãm của QHSX tức là làm cản trở, gây khó
khăn hoặc làm chậm lại sự phát triển của LLSX chỉ trong một thời
gian nhất định.
5

Đảng cộng sản Việt Nam, “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”, Nxb CTQG H.1986. Tr 24.


16

Với sự vận động biến đổi của LLSX, dù QHSX lỗi thời nào có kéo dài
sự tồn tại đến mấy, thì cuối cùng cũng sẽ bị thay thế bằng kiểu QHSX mới
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Tuy nhiên, sự thay thế của QHSX mới đối với QHSX cũ không có nghĩa
là phủ định sạch trơn của QHSX cũ, mà phủ định có kế thừa những yếu tố
phù hợp để phát triển trong điều kiện mới.
Thực chất của quy luật này là: Trong PTSX, LLSX phát triển không
ngừng, còn QHSX chỉ là tương đối ổn định. Khi QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX thì nó là động lực cơ bản thúc đẩy LLSX phát triển. Nhưng sự phát triển
của LLSX đến một trình độ nhất định thì QHSX mà từ trước là hình thức phát
triển của nó, lại trở nên lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi
đó đòi hỏi phải thay đổi QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX, thúc đẩy

LLSX phát triển và PTSX cũ được thay đổi bằng PTSX mới, lúc này hình thức
kinh tế - xã hội mới xuất hiện thay thế hình thức kinh tế xã hội cũ.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật
phổ biến khách quan tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự
thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ TBCN và
đến xã hội cộng sản là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong
đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ
bản nhất.
1.2. Một số vấn đề phương pháp luận trong nhận thức và vận dụng
quy luật.
Việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong nhận thức và vận dụng quy
luật này phải nhận thức, vận dụng toàn diện trú trọng cả hai mặt LLSX và


17

QHSX, nhưng để cải tạo sự vật trước hết phải đi từ nội dung, nghĩa là phải
xuất phát từ LLSX, phải phát triển LLSX, làm cho LLSX phát triển. Trong
điều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay là phải khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần
kinh tế phát triển, mở rộng phát triển sản xuất, giao lưu hợp tác quốc tế, quan
tâm thúc đẩy toàn diện các yếu tố của LLSX, đặc biệt là phát huy nhân tố con
người và cải tiến công cụ nhằm tăng sức sản xuất, tăng năng xuất lao động tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng... Đồng thời với việc thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển phải xác định rõ QHSX phù hợp với nó , tạo sự công bằng
trong cạnh tranh, điều chỉnh các chính sách, tổ chức, sắp xếp bố trí một cách
hợp lý các yếu tố của QHSX từ vấn đề sở hữu TLSX đến tổ chức sản xuất và

phân phối sản phẩm lao động phải thực sự công bằng phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX hiện nay. Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, từ bộ
máy tổ chức đến cơ chế, thể chế, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ
năng lực phẩm chất đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong nhận thức vận dụng quy luật này phải đấu tranh chống các quan
điểm quá coi trọng hình thức, nghĩa là quá coi trọng QHSX như trước đây.
Song cũng đấu tranh chống các khuynh hướng coi nhẹ QHSX mà quá chú
trọng đến phát triển LLSX. Cả hai khuynh hướng này đều phiến diện, sai lầm
do vậy trong nhận thức vận dụng quy luật này phải đồng thời quan tâm đến
hai mặt LLSX và QHSX. Phải chú trọng đồng bộ toàn diện trong đó trước hết
phải ưu tiên phát triển LLSX.
Trong thực tiễn vận dụng cần tác động để tạo ra hình thức phù hợp hay
không phù hợp với nội dung đang biến đổi để kìm hãm hay thúc đẩy nó, theo
tình hình thực tế. Điều này đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng đúng đắn
từ khi đổi mới đến nay. Đại hội VII, VIII, IX, X đều chỉ ra nguy cơ chệch
hướng XHCN, nền kinh tế tự phát lên TBCN. Do vậy, quan điểm của Đảng ta


18

là vừa thúc đẩy phát triển LLSX tạo điều kiện thuận lợi công bằng cho các
thành phần kinh tế phát triển đồng thời chú trọng tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho kinh tế quốc doanh phát triển lớn mạnh, giữ vai trò chủ đạo dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác. Trong những giai đoạn phát triển, những bước đi cụ
thể của quá trình vận dụng quy luật này làm sao đó vừa đẩy mạnh sức sản
xuất vừa đảm bảo vững chắc cho định hướng XHCN.
2. NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA ĐẢNG TA TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

2.1. Tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Đại hội VI (12- 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội của đổi
mới, là bước ngoặt lịch sử trên con đường phát triển. Với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội đã phân tích làm rõ
những nguyên nhân dẫn đến sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong quá trình
lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, Đại hội khẳng định: Đổi mới
là tất yếu khách quan, là yêu cầu bức thiết của nước ta. Để làm chuyển biến
tình hình Đảng phải đổi mới về tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ. Đó là
đòi hỏi bức thiết của đất nước, là xu thế tất yếu của thời đại và “chỉ có đổi
mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật. Thấy những nhân tố mới để phát
huy, những sai lầm để sửa chữa”.
Đổi mới ở nước ta là tất yếu xuất phát từ chính nhu cầu bức xúc của đời
sống xã hội, từ thực tiễn Việt Nam.
Thực tiễn Việt Nam cuối những năm 1980, đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nó làm cho năng xuất, chất lượng, hiệu quả của sản
xuất giảm sút, đời sống các tầng lớp nhân dân, nhất là cán bộ công chức rất
khó khăn trong khi đó dân số lại tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa đảm
bảo được tiêu dùng xã hội, một phần chỉ tiêu phải dựa vào vay và viện trợ


19

nước ngoài, nền kinh tế không có tích luỹ, thiếu trước hụt sau. Lương thực và
các mặt hàng thiết yếu thiếu nhiều. Tình hình cung ứng năng lượng vật tư,
giao thông vận tải rất căng thẳng, nhiều xí nghiệp sử dụng công xuất ở mức
thấp. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất nhập
khẩu còn lớn, thị trường vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được
sử dụng còn đông, những thiên tai mất mùa liên tiếp xảy ra, trong đời sống
văn hoá - xã hội cũng có nhiều biểu hiện tiêu cực dẫn đến lòng tin của nhân
dân đối với Đảng bị giảm sút. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm ra một hướng
đi mới cho Đảng và nhân dân ta.

Nguyên nhân: Do lạc hậu về nhận thức lý luận, sai lầm vừa tả khuynh
vừa hữu khuynh trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Cán bộ các ngành trình
độ đa số còn non yếu (nhận thức về CNXH, về xây dựng kinh tế còn đơn
giản) từ vấn đề đó đặt ra, nếu cứ như vậy sẽ không tránh khỏi vết xe đổ. Vấn
đề là phải tìm tòi một hướng đi thích hợp, tự bản thân nền kinh tế - xã hội,
thực trạng tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp bách rằng chúng ta phải đổi mới.
Trong bối cảnh ấy Việt Nam cũng chịu sự tác động ảnh hưởng của thế giới,
đó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã phát triển mạnh mẽ, vấn đề đặt
ra nếu quốc gia nào vận dụng được kết quả, ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất đời sống xã hội, thì kinh tế-xã hội sẽ phát triển. Ngược lại nếu
nước nào không kịp thời tận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ thì sẽ bị tụt hậu và chính cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã làm cho thế giới phân hoá giàu nghèo sâu sắc hơn.
Trong khi đó, tận dụng được thành quả của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, CNTB lại có những điều chỉnh, thích nghi và phát triển, thực hiện
chiến lược “Diễn biến hoà bình” quyết liệt chống phá các nước XHCN mà
Việt Nam là một trọng điểm chống phá và do tác động của chính quá trình cải
cách, cải tổ của hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, Trung Quốc.


20

Do vậy, từ thực tiễn của Việt Nam, thế giới đã đặt ra cho chúng ta vấn đề
là phải đổi mới và nó là tất yếu. “Đổi mới ở Việt Nam nó đã trở thành vấn đề
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, đối với cách mạng nước ta”.
Từ thực trạng kinh tế - xã hội đó, Đảng ta đã nhìn nhận lại vấn đề, tìm
thấy những sai lầm trong nhận thức và vận dụng quy luật QHSX phù hợp với
trình độ LLSX. Khi LLSX còn ở tình trạng thấp thì không thể xây dựng được
QHSX cao hơn những điều kiện vật chất hiện có. Trên thực tế theo quy luật
QHSX phù hợp trình độ LLSX thì các yếu tố của QHSX không thể vượt trước

đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX vì LLSX luôn có một hình thức
xã hội nhất định là QHSX và QHSX cũng luôn có một cơ sở vật chất nhất
định của mình là LLSX.
2.2. Một số quan điểm cơ bản của Đảng ta vận dụng quy luật này
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn
phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là
phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xoá bỏ một quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh
lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh
tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy
tâm, duy ý chí.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong
quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc


21

nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này. Sự vận dụng
đúng đắn đó đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn xây dựng và đổi
mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản vẫn còn
không ít khuyết điểm, đó là chủ quan, duy ý chí trong nhận thức và vận
dụng qui luật. Chưa nhận thức đúng và đầy đủ về sự phù hợp, sự thích
ứng giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chưa
nhận thức đầy đủ đặc thù của quy luật dưới chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là

trong thời kỳ quá độ và thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế. Do vậy, Đảng
cộng sản Việt Nam xác định trong đổi mới tư duy, trước hết phải đổi mới
tư duy kinh tế, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một đất nước có nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua nhiều năm chiến tranh buộc Đảng ta
phải đổi mới cả trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn công cuộc xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 chủ trương đổi
mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội
phải đi từ đổi mới kinh tế đến từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải có
bước đi thích hợp, trước hết là phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế.
Với mốc lịch sử quan trọng này, ở nước ta đã không còn thực hiện mô hình
kinh tế kế hoạch hoa tập trung mà chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của công cuộc đổi mới trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất ở nước ta tự năm 1986 là nhận thức đúng, đầy đủ hơn quy
luật khách quan và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh Việt Nam. Nước ta đang


22

trong quá trình tiến lên từ một nền sản xuất nhỏ tới một lần sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Đó là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội,
mà tồn tại khách quan, cần thiết trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều kiện tiền đề của sản xuất hàng hóa là sự phân công lao động và sự khác
biệt cả chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần đa dạng các hình thức sở hữu, công hữu phải giữ vai trò chi phối

là xu hướng tất yếu ở nước ta hiện nay. Điều này cho phép phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời giữ được bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế là giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân.
Nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thi trường sẽ vận động theo quy luật
khách quan của nó, tất yếu sẽ phát huy tác dụng thúc đẩy các đơn vị kinh tế
hướng vào mục tiêu là phân phối và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế
có hiệu quả. Nhưng đồng những mặt trái của kinh tế thị trường cũng sẽ bộc lộ,
vì vậy nhà nước cần phải hoàn thiện pháp luật, có chính sánh điều tiết nền
kinh tế vĩ mô, hướng các mục tiêu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của đảng đã nhấn mạnh: “Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi rối ren , mất
cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý,
trong đó các vùng, các thành phần kinh tế... phải được bố trí cân đối, đan kết
với nhau phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn
định”1.
1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb CTQG, H, 1986. tr 47


23

Để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển phải mở rộng quan hệ hàng hóa
tiền tệ, và để tạo cho sản xuất hàng hóa phát triển , cần có sự đa dạng hóa các
loại hình sở hữu và gắn với nó là sự tham gia hoạt động của nhiều chủ thể
kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác . Đây là vấn đề quy luật đòi hỏi

chúng ta phải tôn trọng để có chủ trương chính sách và biện pháp sử dụng sức
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Từ nhận ấy Đại hội Đảng VI đã
đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần : “Đi đôi phát triển nền
kinh tế quốc doanh , kinh tế tập thể , tăng cường nguồn tích lũy tập trung của
nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài , cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế khác”2.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, chính
sách kinh tế hoặch và các công cụ khác. Đại hội lần thư VII của Đảng đòi hỏi
phải phát huy cho được “Thế mạnh của các thành phần kinh tế” trong thời kỳ
quá độ ở nước ta là: kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, các thành phần kinh tế này “ vừa
cạnh tranh vừa hợp tác bổ xung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống
nhất”. Nhằm tạo ra sự đa dạng hóa trong sản xuất kinh doanh mở ra hướng đi
mới cho nền kinh tế phát triển. Nhà nước khuyến khích mọi người kinh doanh
sản xuất làm giàu chính đáng, nhưng sẽ thông qua chính sách điều tiết thu
nhập và các chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội để giảm bớt chênh lệch về
thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp dân cư. Bằng cách đó nhà nước sẽ thực
hiện gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo trong từng bước đi và trong suốt quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó cũng là yêu cầu cơ bản hàm chứa
2

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb CTQG, H, 1986.,tr 56


24

cả nội dung kinh tế và chính trị, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi

đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên nếu chủ nhấn mạnh
đến công bằng xã hội mà không thấy sự kích thích từ lợi ích kinh tế sẽ làm
triệt tiêu sự hứng thú, lòng nhiệt tình hăng say sáng tạo của mỗi người, với tư
cách là những thành viên sáng tạo trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Cho
nên cần phải giải quyết hài hòa các lợi ích kinh tế, trong đó coi trọng lợi ích
trực tiếp của người lao động, đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh,
các hình thức thu nhập đối với người lao động, xoá bỏ xu hướng phân phối
bình quân, thực hiện phân phối theo kết quả lao, hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh, theo tài sản hay vốn đầu tư vào sản xuất, phân phối thông qua các
phúc lợi xã hội. Giải quyết đúng đắn chính sách thu nhập và các chính sách xã
hội khác sẽ góp phần tích cực vào quá trình đổi mới toàn diện các hoạt động
kinh tế xã hộ ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tiếp tục phát triển đất nước. Đại hội lần thứ
VIII của Đảng đã vạch ra mục tiêu phát triển của lực lượng sản xuất nói
chung là: “Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ
tương đối hiện đại phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động
sử dung máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng
xuất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với
hiện nay. Khoa học tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng
được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình
thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ
cho việc hoạch đinh các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển”1.
1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, 1996,tr 80,81



25

Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng đổi mới của các kỳ Đại hội trước
đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: Ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chủ trương đó đã biểu hiện rõ trong xây dựng quan hệ sản xuất
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất. Bởi một nền sản xuất phát triển cao trước hết phải dựa vào
lực lượng sản xuất hiện đại, do đó phát triển xã hội là phải tập trung cho phát
triển lực lượng sản xuất và xác lập quan hệ sản xuất cũng nhằm giải phóng và
phát triển lực lượng sản xuất. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là có một nền
sản xuất phát triển cao, dựa trên một lực lượng sản xuất hiện đại đối với nền
kinh tế nước ta còn nhiều mặt lạc hậu thì phải tập trung sức phát triển sản xuất
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Mặt khác có thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển từ đó mới có thể xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, chống chủ quan duy ý chí nóng vội trong
cải tạo quan hệ sản xuất.
Để phát triển lực lượng sản xuất có hàm lượng công nghệ cao cần phải
tận dụng mọi khả năng để nắm bắt được trình độ tiên tiến, xây dựng và phát
triển nền kinh tế trí thức. Do đó văn kiện đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Phát
huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công
nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh
thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao và phổ biến hơn những thành
tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức” 2, coi “
Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”1, đồng thời phát huy mọi nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người Việt Nam, phải coi con người là lực lượng sản xuất
2
1


Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 91
Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 112


×