Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã hà châu, huyện phú bình, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.81 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ HÀ CHÂU,
HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ HÀ CHÂU,
HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI THU

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số
liệu nêu trong luận văn là trung thực và xuất phát từ khảo sát thực tế tại địa
bàn nghiên cứu.
Học viên

Nguyễn Thị Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN .................................................................................................... 13
1.1. Các khái niệm .............................................................................................. 13
1.2. Cơ sở lý luận công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
người chưa thành niên .......................................................................................... 17
1.3. Cơ sở pháp lý công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
người chưa thành niên .......................................................................................... 27
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với người chưa thành niên……………………………………...30
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TẠI XÃ
HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN ............................ 33
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu………………………………...…………35

2.2. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã
Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên...................................................... 33
2.3. Thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ................. 50
2.4. Đánh giá chung về thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe
sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên ......................................................................................................... 55
2.5. Những khó khăn trong công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với người chưa thành niên…………………………………………..65
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE
SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN XÃ
HÀ CHÂU, HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN ............................ 62
3.1. Sự cần thiết cần nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức
khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên ....................................................... 62
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm sóc
sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên ................................................ 66
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm về chăm
sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên tại xã Hà Châu, huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên ........................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 78
PHỤ LỤC………………………………………………………………… 80


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Bảng 1.1. Những biểu hiện dậy thì ở nữ
Bảng 1.2. Những biểu hiện dậy thì ở nam
Bảng 1.3. Tán thành quan điểm quan hệ tình dục trước hôn nhân
Bảng 1.4. Tương quan giới và tán thành quan hệ tình dục trước hôn nhân
Bảng 1.5. Tương quan độ tuổi với tán thành quan hệ tình dục trước hôn nhân

Bảng 1.6. Quan hệ tình dục lần đầu không thể mang thai
Bảng 1.7. Các biện pháp phòng chống bệnh lây truyền qua đường tình dục
Bảng 1.8. Mức độ thực hiện hoạt động tham vấn, tư vấn của nhân viên của nhân
viên công tác xã hội
Bảng 1.9. Mức độ thực hiện các hoạt động biện hộ chính sách đối với việc đảm
bảo quyền lợi của người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản
Bảng 1.10. Mức độ thực hiện hoạt động đánh giá nhu cầu cùng xây dựng kế
hoạch trợ giúp người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản của nhân
viên công tác xã hội

DANH MỤC CÁC BIỂU TRONG LUẬN VĂN
Biểu 1.1. Tỷ lệ học sinh đã có người yêu và chưa có người yêu
Biểu 1.2. Tỷ lệ nghe nói về các biện pháp tránh thai
Biểu 1.3. Nguồn cung cấp thông tin về các biện pháp tránh thai
Biểu 1.4. Tỷ lệ học sinh lựa chọn các biện pháp tránh thai
Biểu 1.5. Nghe nói về các bệnh lây truyền qua đường tình dục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước đông dân, trong đó khoảng một nửa dân số có độ tuổi
dưới 25 nên việc giáo dục sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho
người chưa thành niên là vấn đề quan trọng của toàn xã hội. Lứa tuổi này đặc
trưng cho sự phát triển nhanh cả về trí tuệ, thể chất, tâm sinh lý cũng có nhiều
biến động khiến cho các em đôi khi bướng bỉnh, nóng nảy và muốn tự làm theo
ý mình. Các hormone sinh dục cũng phát triển nên những cảm xúc sinh lý giới
tính, tình bạn, tình yêu khác giới cũng mạnh mẽ và quan trọng hơn. Ở lứa tuổi
này các em muốn khẳng định mình đã lớn và thoát khỏi sự kiểm soát của cha mẹ
dù hành vi còn ngờ nghệch, ứng xử chưa tốt. Những xúc cảm giới tính thôi thúc,
chính vì vậy mà hiện tượng yêu sớm ở lứa tuổi chưa thành niên hiện nay diễn ra

khá phổ biến và là vấn đề đáng lo ngại. Nhất là khi hiện nay các em rất thoáng
trong tình yêu nên tình trạng quan hệ tình dục sớm ở lứa tuổi chưa thành niên
không còn lạ lẫm. Sự sốc nổi và thiếu hiểu biết về quan hệ tình dục dẫn đến hậu
quả đáng tiếc như tỷ lệ có thai ngoài ý muốn, tỷ lệ phá thai còn khá cao. Hiện
tượng sinh con của những “bà mẹ nhí” đang có chiều hướng gia tăng, kéo theo
đó là tỷ lệ tảo hôn cũng tăng lên ở các em nữ chưa thành niên. Việc kết hôn và
sinh con ở lứa tuổi này kéo theo rất nhiều tác hại cho chính bản thân các em, cho
gia đình cũng như cho xã hội. Do cơ thể các em chưa phát triển hoàn thiện nên
khi sinh con có thể gây ra tình trạng sinh non, con bị dị dạng, bệnh tật, sức khỏe
người mẹ và đứa trẻ yếu kém. Cùng với vấn đề này là sự gia tăng không ngừng
của tỷ lệ nhiễm HIV, nguy cơ lây lan các bệnh qua đường tình dục như bệnh
giang mai, bệnh lậu … Những nguy cơ đó ảnh hướng lớn tới kinh tế, tâm lí cũng
như tương lai sau này của chính các em và của xã hội. Tình hình đó dẫn tới nhu cầu
giáo dục giới tính và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho lứa tuổi chưa thành niên trở nên
vô cùng cấp bách và quan trọng. Nó trở thành nhu cầu không chỉ là của bản thân các
em mà cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại giúp các em có sự hiểu biết và nhận

1


thức rõ ràng hơn về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người
chưa thành niên.
Xã Hà Châu là một xã miền núi nằm ở phía tây - nam của huyện Phú Bình
với nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó có nhiều dân tộc thiểu số,
đặc biệt là dân tộc Mông, Dao. Điều kiện sống còn nhiều khó khăn, trình độ dân
trí chưa cao nên các em nữ trong độ tuổi vị thành niên của xã ít có cơ hội được
tiếp cận với các thông tin, kiến thức và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Cùng với đó là phong tục tập quán còn lạc hậu, việc tiếp cận với các thông tin về
sức khỏe sinh sản không được người dân quan tâm nên con em họ không có cơ
hội tiếp nhận các kiến thức này. Sức khỏe sinh sản bao gồm nhiều nội dung,

chương trình khác nhau nên cần những cán bộ có chuyên môn, kiến thức hướng
dẫn cụ thể trong khi nguồn cán bộ làm phụ trách về vấn đề này của xã còn ít và
còn yếu. Tại trường học nơi số người chưa thành niên nhiều thì lại không có cán
bộ chuyên môn về lĩnh vực này, trong khi chăm sóc sức khỏe sinh sản là vấn đề
nhạy cảm, cần được tư vấn cẩn thận. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công
tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên từ
thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa
thành niên trên thế giới
Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành
niên (người chưa thành niên) có mặt từ rất sớm trên thế giới nhưng được gọi
bằng nhiều tên gọi khác nhau như sức khỏe vị thành niên hay giới tính tình dục
vị thành niên. Từ sau hội nghị về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (4/1994)
định nghĩa chính thức về sức khỏe sinh sản được phổ biến trên thế giới và trở
thành vấn đề được quan tâm của toàn xã hội. Hội nghị đã đánh dấu một mốc
quan trọng trong sự thay đổi chính sách dân số của các quốc gia và do đó cũng
làm thay đổi mục tiêu giáo dục dân số các quốc gia. Tuyên ngôn ICPD đã kêu

2


gọi các nước đặt vai trò chất lượng dân số trong đó có vai trò sức khỏe sinh sản
đặc biệt là sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên.
Ở châu Á, chương trình giáo dục dân số quốc gia lần đầu tiên được thực
hiện ở các nước Ấn Độ, Philippiness (1969), ở Hàn Quốc (1970), các nhà lập kế
hoạch về phát triển và xây dựng chính sách quốc gia ở các nước Châu Á đã ý
thức được sự cần thiết làm cho nhân dân hiểu được mối quan hệ nhân quả giữa
phát triển dân số và tiến bộ xã hội. Người ta cũng cho nhà trường là cơ quan

thích hợp nhất để tiến hành công việc này. Tại châu Mỹ la tinh, chương trình
giáo dục dân số bắt đầu từ năm 1967, tại trường đại học tổng hợp Dell Valle ở
Colombia. Cũng tại châu Á, khi mới bắt đầu, chương trình giáo dục dân số được
coi là bộ phận của kế hoạch hóa gia đình và chỉ có giáo dục giới tính.
Có thể khái quát một số xu hướng giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản đã
được nhiều nước trên thế giới quan tâm như sau:
- Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được hầu hết các nước trên thế giới và
trong khu vực coi là bộ phận không thể tách rời trong các chính sách và kế hoạch
phát triển của mỗi quốc gia.
- Các chương trình dân số/ sức khỏe sinh sản đều được tiến hành theo những
phương pháp linh hoạt, tùy từng quốc gia, từng nền văn hóa, được phát triển theo
hướng không gò bó, cởi mở và tự do trong các mục tiêu của chương trình. Tuy vậy
các mục tiêu rất rõ ràng và đều hướng vào cộng đồng mà chủ yếu là làm cho giới trẻ
chấp nhận quy mô gia đình nhỏ, có ý thức trách nhiệm về các hành vi sinh sản của
mình.
- Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được coi là cần thiết cho những nước
có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số nhanh, đồng thời các nước có quy
mô dân số nhỏ nhưng tốc độ gia tăng dân số cao cũng rất coi trọng việc tổ chức
các hoạt động giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản.
- Trên cơ sở nhận thức về vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, nhiều quốc gia đưa những nội dung giáo dục dân số/

3


sức khỏe sinh sản vào giảng dạy trong nhà trường. Có sự ưu tiên cho giáo dục
bậc sơ trung và cao trung.
- Giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản được mở rộng ra cộng đồng phù hợp
với chiến lược phát triển của quốc gia và được xây dựng cho các cấp, trong đó
nhà trường được xác định có vai trò chủ chốt.

- Các phương pháp giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản cũng đang cố gắng
tìm tòi để xây dựng những phương pháp phù hợp với từng địa phương, từng
quốc gia, từng nền văn hóa khác nhau trên cơ sở huy động cộng đồng tham gia
trực tiếp và tích cực vào các hoạt động giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản. Các
loại hình thường được áp dụng như tổ chức các “đội tuyên truyền viên về dân số/
sức khỏe sinh sản”, các câu lạc bộ “đóng kịch”, “trò chơi sắm vai”, “bắt chước”..
Tính trong khu vực ASEAN thì các nước như Thái Lan, Indonexia,
Philippine… là những nước có nhiều kinh nghiệm về giáo dục dân số/ sức khỏe
sinh sản cho người chưa thành niên, gần đây cũng đã có những cuộc tiếp xúc,
trao đổi kinh nghiệm với các nhà sư phạm Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa
thành niên ở Việt Nam
“Báo cáo kết quả cuộc thi khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và hành vi
về sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên” (1999) do Khuất Thu Hồng thực hiện
theo yêu cầu của UNFPA và Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Khánh Hòa được thực
hiện tại một số trường THCS và THPT. Đối tượng là học sinh và cha mẹ học
sinh lớp 8 và lớp 11, giáo viên bộ môn từng tham gia giảng dạy giáo dục giới
tính và sức khỏe sinh sản, đại diện ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
phụ trách Đoàn – Đội của trường. Công cụ khảo sát là bộ bảng hỏi được thiết kế
riêng cho các nhóm đối tượng và mẫu được chọn ngẫu nhiên. Tuy cuộc khảo sát
có một số hạn chế nhưng kết quả thu được đã cung cấp những thông tin cơ bản
về kiến thức, thái độ và thực trạng hành vi liên quan đến sức khỏe sinh sản của
một bộ phận học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh của tỉnh Khánh Hòa.

4


Một cuộc điều tra với quy mô lớn được thực hiện tại các tỉnh thành của đất
nước về vị thành niên và thành niên với tên gọi “Điều tra quốc gia về vị thành
niên và thanh niên Việt Nam” với 02 giai đoạn, giai đoạn I, từ 2003 đến 2005 (

gọi tắt là SAVY I) và giai đoạn II, tiến hành từ 2008 đến 2010 (gọi tắt là SAVY
II). Cuộc điều tra tìm hiểu về 9 nhiều vấn đề khác nhau: giáo dục, lao động, việc
làm, tình dục và sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tâm thần, tai nạn, thương tích và
bệnh tật, hành vi, ước muốn, hoài bão...của người chưa thành niên và thanh niên
Việt Nam. Cuộc điều tra do Bộ Y tế, Tổng Cục thống kê, Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp tiến hành, các tổ chức quốc tế
UNICEF và WHO hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật. Kết quả của 2 cuộc điều tra
cho phép so sánh sự thay đổi và xu hướng phát triển quan trọng trong kiến thức,
thái độ, hành vi, lối sống và điều kiện sống của thanh thiếu niên. SAVY 1 được
thực hiện với 7.584 mẫu nghiên cứu là vị thành niên và thanh niên tại 42
tỉnh/thành. Và ở SAVY 2 được tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên
trong độ tuổi 14-25 tại 63 tỉnh/thành. Qua 02 cuộc điều tra kết quả thu được về
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên và thanh niên cả
nước thu được như sau: Mang thai, nạo phá thai: Vì số lượng nữ chưa có chồng
nhưng đã có quan hệ tình dục và đã từng mang thai, nạo thai vào thời điểm điều
tra của SAVY 1 và SAVY 2 quá nhỏ nên khó có thể bình luận. Chỉ có thể ghi
nhận là không thấy có diễn biến đáng lo ngại hơn ở SAVY 2 so với SAVY 1
trong số nữ chưa chồng. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai
cao trên nhất thế giới, trong đó 20% là ở lứa tuổi chưa thành niên, trên cả nước
có 5% em gái sinh con trước tuổi 18, 15% sinh con trước tuổi 20… Trong Chiến
lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 có đoạn nhấn mạnh “Việc mang
thai ngoài ý muốn và tình trạng nạo phá thai là đáng lo ngại” (Uỷ ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em, 2003). Còn trong Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức
khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010 cũng đề ra mục tiêu “Giảm có thai ngoài ý
muốn và các tai biến nạo hút thai” (Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, 2003).

5


Hiểu biết về sinh lý thụ thai ở thanh thiếu niên: 71% (nam 37% và nữ 34%) trả

lời “Có” với câu nỏi “Liệu một bạn gái có thể mang thai sau lần quan hệ tình dục
đầu tiên?” cho thấy điều quan trọng là có đến gần 2/3 thanh thiếu niên đã biết
đánh giá cao nguy cơ mang thai sau lần quan hệ tình dục đầu tiên. Số đông thanh
thiếu niên (82%) cũng đã biết đến và có niềm tin vào các biện pháp tránh thai.
Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm nam nữ thanh niên trả lời đúng câu hỏi về thời điểm
dễ có thai trong chu kỳ kinh khá thấp. Ở SAVY 2, chỉ có 23% (7% nam và 18%
nữ) trả lời đúng câu hỏi này (thời điểm” giữa 2 kỳ kinh”). Ở SAVY 1, có 33%
(11% nam và 22% nữ) trả lời đúng. Điều này có ý nghĩa ở chỗ cần thiết phát
triển hơn nữa việc giáo dục thanh thiếu niên về sức khỏe sinh sản và sinh lý thụ
thai để biết tự bảo vệ. “Thời điểm dễ có thai trong chu kỳ kinh” là một mảng
hiểu biết cần thiết, giúp phụ nữ có thể chủ động tránh thai, là cách để phụ nữ biết
tránh thai bằng phương pháp tự nhiên.
Tránh thai: Tỷ lệ biết về các biện pháp tránh thai đều rất cao, trung bình từ
4 biện pháp trở lên. Tuy nhiên, sử dụng hiểu biết về tránh thai trong thực tế như
thế nào và các biện pháp tránh thai có đáp ứng nhu cầu không mới là điều quan
trọng nhất. Bao cao su vẫn là biện pháp hỗ trợ hàng đầu cho nam (72,7%) nhưng
viên tránh thai khẩn cấp cho nữ lại có tỷ lệ sử dụng không cao (chỉ 4,5%). Biện
pháp tránh thai hiện đại được sử dụng nhiều nhất: BCS vẫn đứng hàng đầu với
42,9%, tiếp theo là dụng cụ tử cung 26,5%, thuốc uống tránh thai 18,8%, xuất
tinh ngoài âm đạo 7,7%, tính vòng kinh 2,0%, viên tránh thai khẩn cấp 1,8% (tỷ
lệ thấp sử dụng viên tránh thai khẩn cấp có thể đã góp phần làm gia tăng số nạo
phá thai ở những người chưa thành niên). Bệnh lây truyền qua đường tình dục:
Có thể cho rằng sự hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục không
thay đổi sau 2 lần điều tra. Còn cần nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức trong cộng
đồng về các bệnh nói trên. Trên thực tế, điều cần lưu ý các thầy thuốc thực hành là
bệnh phụ khoa thường gặp nhất lại chính là viêm âm đạo (do nấm chiếm tỷ lệ cao
nhất) và sự dễ tái diễn của bệnh này, có nguyên nhân từ hiểu biết hạn chế về vệ sinh

6



phụ nữ và đời sống tình dục vợ chồng. Cũng cần có chương trình kiểm soát bệnh
viêm âm đạo do virut gây u sui (HPV) ở phụ nữ trẻ vì là nguyên nhân dẫn đến ung
thư cổ tử cung sau này.
Tóm lại, các nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng ta những cái nhìn tổng
quát về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của thanh thiếu niên
Việt Nam, chủ yếu đi vào phương pháp và nghiên cứu lý luận. Những con số cụ
thể qua các nghiên cứu đã mô tả và có các giải pháp về sức khỏe sinh sản phù
hợp với từng đề tài nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu
áp dụng và sử dụng các phương pháp công tác xã hội trong quá trình nghiên cứu
để trợ giúp cho các thân chủ một cách cụ thể. Nhất là đối với các em nữ trong độ
tuổi chưa thành niên, những đối tượng cần được quan tâm chăm sóc nhiều về sức
khỏe sinh sản… Do đó, việc thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về Công tác
xã hội với những phương pháp và hoạt động phù hợp để trợ giúp cho các đối
tượng là nữ ở độ tuổi chưa thành niên là rất cấp thiết. Đây sẽ là công trình
nghiên cứu với phạm vi hẹp, sử dụng các phương pháp công tác xã hội để giúp
các em nữ được nâng cao hơn nữa những hiểu biết, kỹ năng trong việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho chính mình và mọi người xung quanh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng của công tác xã hội nhóm trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên trên cơ sở đó sử dụng những kiến
thức, kỹ năng của công tác xã hội đề ra một số biện pháp giúp người chưa thành
niên có thêm kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân mình và
những người xung quanh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm trong việc nâng cao nhận
thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên và các yếu tố ảnh
hưởng.


7


- Khảo sát thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành
niên cũng như các hoạt động công tác xã hội với vấn đề này.
- Ứng dụng lý thuyết công tác xã hội nhóm vào việc nâng cao nhận thức,
thay đổi hành vi về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa thành niên tại xã
Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp giúp người chưa thành niên có những kiến thức,
kỹ năng về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm đối với người chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe
sinh sản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: từ tháng 01/2016 đến tháng 6/2016
Phạm vi không gian: xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
Giới hạn nội dung nghiên cứu: sử dụng phương pháp công tác xã hội nhóm
trong công tác xã hội để cung cấp thêm những kiến thức về chăm sóc sức khỏe
sinh sản cho người chưa thành niên.
4.3. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu các đối tượng là học sinh độ tuổi từ 14 đến 18 trên địa bàn xã
Hà Châu. Các em thường học ở các trường như: Trường THCS Hà Châu đóng
trên địa bàn xã và 02 trường THPT đóng trên địa bàn huyện như: trường THPT
Phú Bình, THPT Lương Phú.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu luôn dựa trên lập trường quan điểm, thế giới quan của
chủ nghĩa Mac – Lê nin. Đó chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử nghĩa là khi nghiên cứu phải nhìn nhận các sự vật, hiện tượng

một cách khách quan trong một hệ thống luôn có sự vận động, biến đổi và tác
động lẫn nhau. Như vậy, khi nghiên cứu công tác xã hội nhóm đối với người

8


chưa thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ thực tiễn xã Hà Châu ta phải
đặt vấn đề trong bối cảnh xã hội hiện nay của xã Hà Châu nói riêng và cả nước
nói chung, gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Có như vậy, chúng ta mới có thể đánh giá đúng vấn đề và
đưa ra được những giải pháp mang tính hiệu quả.
Ngoài ra khi nghiên cứu, đề tài còn kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết với
nghiên cứu thực tiễn, giữa nghiên cứu định tính với nghiên cứu định lượng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa các tài liệu
lý luận về vấn đề nghiên cứu là phương pháp học viên đã sử dụng nhằm thu thập
thông tin thứ cấp trên những tài liệu có sẵn.
Phương pháp này thực hiện trên cơ sở phân tích và trích dẫn từ những
nghiên cứu trước đó, tìm hiểu và nghiên cứu thông tin trên sách, báo, tạp chí, tập
san… viết về các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản tuổi chưa thành niên.
Ngoài ra, ta phải tìm đọc các tài liệu có liên quan để có cơ sở so sánh với kết quả
điều tra theo mẫu tiến hành trên địa bàn xã Hà Châu, cũng là cái để so sánh đưa
ra nhận định, kết luận mới về hiểu biết chăm sóc sức khỏe sinh sản của người
chưa thành niên xã Hà Châu so với mặt bằng chung của quốc gia, thậm chí là với
phạm vi quốc tế.
Các tài liệu được sử dụng nghiên cứu và vận dụng trong quá trình thực hiện
khóa luận này sẽ được đề cập ở phần Tài liệu tham khảo.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu bảng hỏi
Bảng hỏi được xây dựng nhằm thu thập thông tin hiểu biết của người chưa

thành niên trên địa bàn xã Hà Châu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe
sinh sản. Việc nghiên cứu bằng bảng hỏi sẽ giúp cho việc thu thập được nhiều
thông tin đối với nhiều chủ thể cùng một thời điểm, thông tin thu được cũng dễ
dàng hơn. Mặt khác, đây là vấn đề tương đối nhạy cảm với các em (chưa thành

9


niên) do vậy việc nghiên cứu bằng bảng hỏi sẽ giảm bớt được hạn chế này, các
em trả lời thông qua bảng hỏi sẽ bớt ngại, ngượng, cũng do vậy mà bảng hỏi
không yêu cầu các em nhất thiết phải điền tên của mình.
Bảng hỏi được thiết kế dựa trên cơ sở kiến thức về đặc điểm tâm - sinh lý
lứa tuổi chưa thành niên, kiến thức sức khỏe sinh sản chưa thành niên và tham
khảo tài liệu trắc nghiệm cho lứa tuổi chưa thành niên. Bảng hỏi được phát ra
điều tra dưới dạng phiếu hỏi cho 90 mẫu chọn ngẫu nhiên trên danh sách theo
dõi của cán bộ làm công tác Dân số của xã. Tổng số phiếu phát ra là 90, thu về là
90 và không có phiếu nào không hợp lệ. Do vậy mà bảng hỏi đã góp phần quan
trọng cho việc hoàn thành luận văn này.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là cuộc đối thoại nhằm tìm hiểu thông tin về cuộc sống kinh
nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin qua chính ngôn ngữ của
người ấy. Đây là một phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình
giao tiếp bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra. Trong cuộc phỏng vấn, người
phỏng vấn nêu những câu hỏi linh hoạt theo một chương trình được định sẵn.
Ngoài các câu hỏi trong bảng hỏi, học viên tiến hành phỏng vấn sâu với 5
cán bộ ban văn hóa xã, 5 phụ huynh có con em trong độ tuổi chưa thành niên và
một số trẻ chưa thành niên khác. Việc sử dụng phương pháp này nhằm hạn chế
một số nhược điểm của bảng hỏi, tìm hiểu thêm một số thông tin bên ngoài, khai
thác thông tin sâu từ phía người được phỏng vấn, ngoài ra người phỏng vấn có
thể giải thích cho người được phỏng vấn về mục đích cuộc phỏng vấn, nội dung

các câu hỏi...qua đó nâng cao được tinh thần sẵn sàng trả lời của người được
phỏng vấn.
5.2.4. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về
đối tượng nghiên cứu bằng tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố liên
quan đến mục đích và đề tài nghiên cứu.

10


Bên cạnh những phương pháp nêu trên, học viên sử dụng phương pháp
quan sát nhằm nhận định một cách tổng quan nhất nhận thức của người chưa
thành niên về chăm sóc sức khỏe sinh sản trên địa bàn xã, kiểm tra, xác nhận các
kết quả thu được từ những phương pháp khác đã sử dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Vận dụng những phạm trù, khái niệm, phương pháp nghiên cứu và các lý
thuyết Công tác xã hội vào việc mô tả, giải thích về vấn đề chăm sóc sức khỏe
sinh sản của người chưa thành niên cũng như kiến thức về quá trình và quy luật
nhận thức của các em với vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nghiên cứu nhằm
phân tích thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của các
em trong độ tuổi chưa thành niên của xã Hà Châu, huyện Phú Bình để từ đó tìm ra
mối quan hệ giữa độ tuổi, trình độ học vấn, quan niệm về tình dục…với sự nhận
thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của người chưa thành niên. Qua đó
công tác xã hội thực hiện các vai trò trợ giúp các em trong độ tuổi chưa thành niên
nâng cao kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản. Luận văn cũng bổ sung một số vấn
đề lý luận cơ bản về công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người
chưa thành niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm rõ thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người chưa

thành niên và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này. Nghiên cứu này góp phần
chỉ ra thực trạng hoạt động của công tác xã hội cũng như nhu cầu cần sự trợ giúp
của người chưa thành niên thông qua phương pháp công tác xã hội nhóm đối với
người chưa thành niên từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả phương pháp công tác xã hội nhóm đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
người chưa thành niên. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
người làm công tác xã hội, người làm trong lĩnh vực tâm lý, giáo dục.

11


7. Cơ cấu của lận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với người chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với người chưa thành niên từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ thực tiễn xã Hà Châu, huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG CHĂM
SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 quy định: “Người chưa thành niên là
người chưa đủ mười tám tuổi” (Khoản 1, Điều 21).
Ở một số cuốn sách viết về tuổi vị thành niên, thì các nhà viết sách lại cho
rằng vị thành niên là những người chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là
công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ.
Chưa thành niên là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời con người. Đây là thời
kỳ mà người chưa thành niên chưa được coi là người lớn song cũng không phải
là trẻ con. Có nhiều quan điểm khác nhau về tuổi chưa thành niên. Sự phân chia
độ tuổi chưa thành niên ở các quốc gia, các chủng tộc và khu vực có khác nhau.
Tuy nhiên có một điểm thống nhất là người chưa thành niên nghĩa là người chưa
trưởng thành và còn do người lớn giám hộ.
Ở Việt Nam, pháp luật Việt Nam quy định từ 18 tuổi trở lên được coi là
công dân đã trưởng thành. Nghĩa là khi đó họ không còn là chưa thành niên nữa.
Như thế tuổi chưa thành niên ở nước ta thường được xác định trong độ tuổi từ 10
đến trước 18 tuổi và nhìn chung, trong pháp luật và các văn bản luật Việt Nam,
có từ “chưa thành niên” mà người ta thường hiểu chung chung là vị thành niên,
chỉ những người chưa đủ 18 tuổi.
Từ những khái niệm trên theo tôi, người chưa thành niên là người trong độ
tuổi từ 10 đến trước 18 tuổi đang ở giai đoạn chuyển tiếp từ ấu thơ sang trưởng
thành. Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ và phức tạp nhất của cuộc
đời mỗi con người. Biểu hiện của nó là xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi
bao gồm: Sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các
quan hệ xã hội, bước đầu hình thành nhân cách nên nảy sinh nhiều rối nhiễu về
tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác.

13


1.1.2. Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản

Trước hết để hiểu được khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản tôi xin đưa
ra khái niệm sức khỏe sinh sản để chúng ta hiểu rõ vấn đề:
Trong hệ thống ngôn ngữ truyền thống Việt Nam, chúng ta không thấy đề
cập đến khái niệm sức khỏe sinh sản mà thường chúng ta chỉ thấy nói đến sức
khỏe, giới tính, tình dục …. Khái niệm sức khỏe sinh sản được du nhập từ các
nước phương tây vào Việt Nam mạnh mẽ vào những năm gần đây. Sức khỏe
sinh sản là một bộ phận của sức khỏe con người nói chung. Khái niệm về sức
khỏe sinh sản được nêu ra một cách chính thức từ Hội nghị quốc tế về dân số và
phát triển (Ai Cập) năm 1994, như sau :
“Sức khỏe sinh sản là một trạng thái khỏe mạnh hoàn toàn về thể chất, tinh
thần và xã hội chứ không chỉ là bệnh tật hay ốm yếu, trong tất cả mọi thứ liên
quan đến hệ thống sinh sản, các chức năng và quá trình của nó ở mọi giai đoạn
của cuộc đời”(i) . Do đó, sức khỏe sinh sản hàm ý con người có thể có cuộc sống
tình dục thỏa mãn, an toàn, có khả năng sinh sản và được tự do quyết định khi
nào và thường xuyên như thế nào trong việc này. Điều kiện cuối cùng này ngụ ý
nói về quyền của phụ nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp kế
hoạch hóa gia đình, an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp tùy theo sự lựa chọn
của họ cũng như được lựa chọn những biện pháp thích hợp nhằm điều hòa sinh
đẻ không trái với pháp luật, quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe thích hợp giúp cho người phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn và
tạo cho các cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có đứa con khỏe mạnh.
Nội dung chính của sức khỏe sinh sản bao gồm:
- Làm mẹ an toàn;
- Kế hoạch hóa gia đình;
- Nạo hút thai;
- Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản;
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục;

14



- Giáo dục tình dục;
- Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh dục;
- Vô sinh;
- Sức khỏe sinh sản vị thành niên;
- Giáo dục truyền thông về sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình.
Tóm lại, sức khỏe sinh sản là một khái niệm mới, thuộc nội hàm của khái
niệm sức khỏe nhưng nó cụ thể và sâu sắc hơn, đặc biệt nó hàm chứa và nhấn
mạnh tới một số khía cạnh về sức khỏe - dân số mới xuất hiện ở xã hội hiện đại.
Sức khỏe sinh sản không đơn thuần là chuyện sinh sản, truyền giống mà nó còn
bao hàm nội dung lớn về tuổi dậy thì, giới tính, bản năng, tính dục và sự hài hòa,
an toàn tình dục, về quyền sinh con và không sinh con, quyền tiếp cận các thông
tin xã hội về sức khỏe sinh sản và quyền bình đẳng về nghề nghiệp, tuổi, giới,
văn hóa, tín ngưỡng và dân tộc trong hưởng lợi các dịch vụ xã hội về sức khỏe
sinh sản.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một nội dung quan trọng đang nhận được rất
nhiều sự quan tâm của các quốc gia trong lĩnh vực quản lý dân số vì nó có liên
quan trực tiếp tới sự phát triển của kinh tế - xã hội các nước và sự vững bền của
mỗi quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các
biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng
cách phòng ngừa hậu quả và giải quyết các vấn đề về sức khỏe sinh sản là thực
hiện những hành động hướng tới mục tiêu tốt đẹp cho những nội dung của sức
khỏe sinh sản đã nêu ở trên. Đó là những kế hoạch, những chính sách có liên
quan làm hoàn thiện 10 nội dung chính của sức khỏe sinh sản.
1.1.3. Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành
niên
Theo như khái niệm và nội dung của sức khỏe sinh sản, thì sức khỏe sinh
sản đối với người chưa thành niên là một nội dung của sức khỏe sinh sản. Đây là


15


một nội dung quan trọng đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của cộng đồng,
từ phía xã hội, nhà trường, các bậc phụ huynh và chính bản thân người chưa
thành niên, bởi xã hội càng phát triển càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ có hại đối với
sức khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên, mà nhiều sự việc đau lòng đã
diễn ra khiến người chưa thành niên có thêm nhiều mối nguy hại.
Nói một cách khác, một trong những nội dung của sức khỏe sinh sản là sức
khỏe sinh sản đối với người chưa thành niên (hay vị thành niên). Chưa thành
niên là độ tuổi có nhiều băn khoăn lo lắng trước những cảm xúc nảy sinh, đơn
giản như câu hỏi “Có phải tình yêu luôn đi cùng tình dục không?” hay “có phải
yêu là phải dâng hiến tất cả”. Vì vậy, chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với người
chưa thành niên là hành động nhằm làm giảm nguy cơ bị xâm hại tình dục ở
người chưa thành niên; giảm nguy cơ mang thai ngoài ý muốn và cách phòng
tránh thai; giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục và
HIV/AIDS; giảm nguy cơ bị ép tảo hôn, phải tảo hôn và cung cấp thông tin dịch vụ
về sức khỏe sinh sản đến với người chưa thành niên.
1.1.4. Khái niệm công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với người chưa thành niên
Công tác xã hội nhóm là phương pháp công tác xã hội nhằm giúp tăng
cường, củng cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt động nhóm và
khả năng ứng phó với các vấn đề của cá nhân các mục tiêu xã hội được thiết lập
bởi nhân viên xã hội trong kế hoạch hỗ trợ thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng)
thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp thân chủ tăng cường năng lực đối
phó, chức năng xã hội thông qua các kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm
để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu.
Công tác xã hội nhóm tạo ra bối cảnh trong đó cá nhân hỗ trợ lẫn nhau, làm
cho cá nhân và nhóm có khả năng ảnh hưởng và thay đổi tích cực, giải quyết
vấn đề của cá nhân, nhóm, của tổ chức và cộng đồng. Công tác xã hội nhóm

hướng tới mục đích chung là giúp cá nhân thuộc nhóm thỏa mãn nhu cầu, cảm

16


nhận được an toàn, được chia sẻ, được cảm thông, được yêu thương, gắn bó,
được khẳng định, thực hiện hỗ trợ, tương tác trong giải quyết các vấn đề tiến tới
sự tự trợ giúp. Môi trường hoạt động của công tác xã hội nhóm tạo ra những điều
kiện, những cơ hội cho cá nhân được chia sẻ, học hỏi và giải quyết vấn đề gặp
phải. Vì vậy, về cơ bản, mục đích của công tác xã hội nhóm là dựa trên sự nhận
diện, đánh giá, đề xuất biện pháp tiến hành các hoạt động hướng tới sự khôi phục
các chức năng, hỗ trợ nhóm viên tái tạo và phát huy năng lực giải quyết vấn đề,
điều chỉnh tích cực hóa những hành vi lệch chuẩn tiến tới xã hội hóa hay hòa
nhập cộng đồng.
Như vậy, có thể hiểu công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với người chưa thành niên là phương pháp công tác xã hội nhằm giúp tăng
cường, củng cố chức năng xã hội về sức khỏe sinh sản của cá nhân người chưa
thành niên thông qua các hoạt động nhóm và khả năng ứng phó với các vấn đề
của họ, các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi nhân viên xã hội trong kế hoạch
hỗ trợ nhóm người chưa thành niên thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp
nhóm đối tượng tăng cường năng lực đối phó, tăng cường chức năng xã hội
thông qua các kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết các vấn đề
về sức khỏe sinh sản của mình và thỏa mãn nhu cầu.
1.2. Cơ sở lý luận công tác xã hội nhóm về chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với người chưa thành niên
1.2.1. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể.
Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em cao lên
được 5 – 6 cm. Các em nam ở độ tuổi 15 – 16 tuổi thì cao đột biến vượt các em
nữ. Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là các xương tay, xương chân rất

nhanh nhưng xương ngón chân, ngón tay lại phát triển chậm. Vì thế, ở lứa tuổi
này các em không mập, béo mà cao, gầy thiếu thận trọng hay làm vỡ đồ…Sự
phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của tim tăng rất

17


nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn nhưng kích thước của mạch máu lại phát
triển chậm. Do đó, có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp,
tim đập nhanh.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng),
thường dẫn tới sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Hệ thần kinh của lứa tuổi này
còn chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu kéo dài.
Một đặc điểm cần lưu ý ở lứa tuổi này nữa là thời kỳ phát dục. Sự phát dục
của các em là một hiện tượng bình thường diễn ra theo quy luật sinh học và chịu
ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và xã hội. Sự phát dục của các em trai vào
khoảng 15 – 16 tuổi, ở các em nữ vào khoảng 13 – 14 tuổi. Biều hiện của thời kỳ
này là các cơ quan sinh dục phát triển và xuất hiện những dấu hiệu phụ của giới
tính. Thời kỳ phát dục sớm hay muộn phụ thuộc vào yếu tố dinh dưỡng và yếu tố
môi trường sống. Đến 15 – 16 tuổi giai đoạn phát dục đã kết thúc, vì thế các em
đã có khả năng sinh đẻ.
Như vậy, có thể thấy rằng lứa tuổi chưa thành niên có khả năng sinh sản
được nếu có sinh hoạt tình dục và vấn đề sức khỏe sinh sản không chỉ liên quan
đến ai đã lập gia đình, tuổi chưa thành niên lúc này đứng trước nhiều mối đe dọa,
nếu như không có sự hướng dẫn, chăm sóc thì nguy cơ lớn nhất đối với sức
khỏe sinh sản của người chưa thành niên là có thai sớm nếu có quan hệtình dục
và nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Căn cứ vào những đặc điểm sinh lý của người chưa thành niên người làm công
tác xã hội đặc biệt là công tác xã hội nhóm với đối tượng này cần hết sức lưu ý tới
những đặc điểm trên để có những phương pháp làm việc hiệu quả.

1.2.2. Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi chưa thành niên
Không chỉ có những biến đổi về mặt sinh lý mà những người chưa thành
niên còn có những biến đổi sâu sắc về mặt tâm lý. Do sự phát triển không cân
đối của hệ xương đã gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý
thức được sự lóng ngóng, vụng về của mình nên cố che giấu bằng những điệu bộ

18


không tự nhiên, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để người khác không chú ý đến vẻ bề
ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế đi
đứng của các em đều gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ.
Tuyến nội tiết hoạt động mạnh làm cho các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi
khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và
có những xúc động mạnh. Hệ thần kinh của người chưa thành niên còn chưa có
khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu kéo dài. Do tác động của
những kích thích như thế, thường gây cho các em tình trạng bị hạn chế hay
ngược lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh. Vì vậy, sự phong phú của các ấn
tượng, những chấn động thần kinh mạnh hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến
cố gây xúc động… đều tác động mạnh mẽ đến người chưa thành niên, có thể làm
một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, một số khác làm những
hành vi xấu, không đúng bản chất.
Cùng với những biến đổi về thể chất, đời sống tinh thần và tình cảm của
tuổi chưa thành niên cũng trải qua những biến đổi sâu sắc. Các em có khả năng
tự ý thức và tự đánh giá cao cho nên các em tự nhận thức được rằng mình đã
lớn. Vì vậy, các em thấy rằng kiểu quan hệ với người lớn ở thời thơ ấu không
còn phù hợp với mức độ trưởng thành của bản thân nữa. Đó là kiểu quan hệ
người lớn và trẻ con. Do vậy, các em mong muốn “cải tổ” kiểu quan hệ này theo
hướng giảm quyền hạn của người lớn và tăng quyền hạn của mình lên, các em
muốn độc lập trong suy nghĩ và hành động để thử sức mình nhằm đạt tới cái

mình muốn để chứng tỏ mình đã trưởng thành. Ở giai đoạn này thường xảy ra
xung đột giữa người chưa trưởng thành với cha mẹ họ vì cha mẹ họ cho rằng họ
vẫn còn trẻ con còn những người chưa thành niên cho rằng cha mẹ không hiểu
mình. Điều đó đã tạo ra một khoảng cách giữa cha mẹ và con cái. Để làm mất
khoảng cách này, các bậc cha mẹ phải thường xuyên quan tâm đến những suy
nghĩ của các em, những biến đổi tâm lý đang diễn ra để có thể hiểu được con
mình và trở thành những “người bạn” đáng tin cậy của các em.

19


Về mặt giao tiếp, nhu cầu giao tiếp với bạn bè phát triển mạnh, các mối
quan hệ được mở rộng, nhu cầu về tình bạn, tâm tình cá nhân được tăng lên rõ
rệt. Bạn bè trở thành một phần rất quan trọng trong cuộc sống của người chưa
thành niên. Với các em, tình bạn trở lên sâu sắc hơn, rất bền vững có thể kéo dài
đến suốt cuộc đời và có ảnh hưởng qua lại rất lớn, ảnh hưởng đó có thể là tích
cực những cũng có thể là tiêu cực. Do vậy, việc lựa chọn bạn ở lứa tuổi này đóng
một vai trò quan trọng.
Một điều đặc biệt dễ nhận thấy ở giai đoạn này là bắt đầu xuất hiện những
cảm giác mới lạ, có sự nhạy cảm về giới và cảm xúc giới tính. Các em thường
quan tâm đến các bạn khác giới và cũng mong bạn khác giới để ý đến mình.
Điều này khiến các em quan tâm đến vóc dáng của mình, hay đứng trước gương
để ngắm vuốt. Các em bắt đầu thích đọc truyện tình cảm, những tác phẩm viết về
những mối tình say mê, quan tâm đến các nhân vật trong truyện, trong phim làm
quen nhau như thế nào, thích nhau ra sao và tại sao lại hành động như vậy…và
vô tình các em tự tạo nên những rung cảm yêu đương trong tưởng tượng trong
suy tư. Có em trở nên sao nhãng việc học tập.
Hiểu được những thay đổi trong tâm lý của người chưa thành niên người
làm công tác xã hội nhóm sẽ có những tác động tâm lý phù hợp để có thể mang
lại hiệu quả cao nhất. Người chưa thành niên cần được cung cấp kiến thức về cấu

tạo tâm, sinh lý lứa tuổi dậy thì, hình thành kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng ứng xử trong gia đình, nhà trường, xã hội và bạn bè. Người chưa thành niên
cần được định hướng để có nhận thức đúng đắn về tình bạn, tình yêu và tình dục
để từ đó hình thành lối sống lành mạnh, có văn hóa.
1.2.3. Những nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản cần quan tâm giáo
dục cho người chưa thành niên
Bước vào tuổi chưa thành niên, các em có những sự phát triển vượt bậc cả
về thể chất và tinh thần. Càng về cuối giai đoạn của tuổi chưa thành niên các em
càng phát triển hoàn thiện và “phô” ra những vẻ đẹp lý tưởng, bạn trai bạn gái

20


×