Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên huyện bình chánh thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.19 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG PHÚC

Ý THỨC PHÁP LUẬT
VÀ VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG PHÚC

Ý THỨC PHÁP LUẬT
VÀ VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THANH THẬP

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Lê Thanh Thập.
Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình
nào khác.
Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách
quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý
THỨC PHÁP LUẬT ....................................................................................... 9

1.1. Một số vấn đề lý luận về ý thức pháp luật ........................................... 9
1.2. Giáo dục ý thức pháp luật .................................................................. 20
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC Ý
THỨC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN Ở HUYỆN BÌNH CHÁNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............. 33
2.1. Khái quát vài nét về thanh niên huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí
Minh và thực trạng ý thức pháp luật của họ ............................................. 33
2.2. Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật của thanh niên huyện Bình
Chánh và những vấn đề đặt ra .................................................................. 42
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN HUYỆN BÌNH CHÁNH NHẰM
NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌ ......................................... 50
3.1. Phương hướng cơ bản giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho
thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ........... 50
3.2. Một số giải pháp cơ bản giáo dục và không ngừng nâng cao ý thức
pháp luật cho thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay ............................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên Việt Nam là đội ngũ có vai trò quan trọng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thời kỳ đổi mới trên đất nước ta hiện
nay. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, thanh niên luôn là lực lượng xung
kích của mọi phong trào, cho đến nay thanh niên cũng vẫn là nguồn nhân lực
quyết định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong
quá trình khẳng định và phát huy vai trò của mình, thanh niên đang đứng
trước những thời cơ và thách thức từ thực tiễn cuộc sống. Nếu có bản lĩnh

chính trị vững vàng, nó sẽ giúp cho thanh niên vượt qua những thử thách của
việc thực hiện và giải quyết nhiệm vụ nặng nề, sẽ vượt qua những cám dỗ lợi
ích cá nhân, vươn lên trong cuộc sống và sống một cuộc đời có ích cho xã
hội. Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, ngoài ý thức chính trị, thanh niên
phải có ý thức pháp luật, biết sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Mặt
khác, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung và cho thanh niên nói
riêng là đòi hỏi khách quan của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hơn nữa, yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự tác động của cơ
chế kinh tế thị trường, đòi hỏi phải tăng cường công tác giáo dục pháp luật
cho thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức
mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng
một xã hội ổn định về kinh tế, vững mạnh về an ninh - quốc phòng.
Những năm gần đây, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta
được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Những hoạt động của các cấp, các
ngành trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã góp phần nâng cao ý
thức pháp luật cho nhân dân, điều đó giúp cho người dân ngày càng hiểu rõ vị

1


trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của pháp luật trong đời sống. Đó cũng là lý do
cơ bản cho thấy, nhân dân đã nhìn nhận các hiện tượng xã hội, các sự kiện
lịch sử một cách đúng đắn và có sự tự giác hơn trong việc chấp hành đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực về ý thức pháp luật của người
dân thì hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế và nó ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống của toàn xã hội. Đó là, vẫn còn một bộ phận nhân dân chưa tôn
trọng pháp luật, vẫn có thái độ thờ ơ và lẫn tránh các quy định của pháp luật

trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Thực tế tội phạm, tệ nạn xã hội liên quan đến
an toàn giao thông, trộm cắp, ma túy... đa phần là những người trong độ tuổi
thanh niên và có xu hướng ngày càng tăng.
Trong thời gian qua, công tác giáo dục ý thức pháp luật cho người dân
nói chung và cho thanh niên nói riêng trên địa bàn huyện Bình Chánh, thành
phố Hồ Chí Minh đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu
lực của pháp luật và hiệu quả trong công tác quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong
giáo dục pháp luật cũng vẫn đang bộc lộ một số hạn chế, khuyết điểm nên ít
nhiều có ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục pháp luật. Nhất là, trong giáo dục
pháp luật cho thanh niên, chẳng hạn, nhiều thanh niên có những biểu hiện
hoặc là coi thường pháp luật, hoặc là chưa thực sự tin tưởng vào sự công
bằng, vào lẽ phải, vào sự công minh của pháp luật, vẫn còn nhiều thanh niên
có hành vi vi phạm pháp luật.
Xuất phát từ thực tế đã nêu trên đây, cần tăng cường hơn nữa công tác
giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên Việt Nam nói chung và thanh niên
huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, trong giai đoạn hiện
nay. Để đóng góp cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn cho vấn đề giáo dục pháp
luật đã nêu trên đây, tác giả chọn: “Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp
luật cho thanh niên huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm
đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật nói chung và giáo
dục ý thức pháp luật cho thanh niên nói riêng đã được nhiều nhà khoa học
trong nhiều lĩnh vực như triết học, xã hội học, luật học, tâm lý học… quan
tâm nghiên cứu. Trong đó, có thể kể tên một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu liên quan đến nội dung đề tài luận văn, cụ thể như sau:
Nguyễn Đình Lộc (1995), Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở

Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội [24]. Trong đó từ góc độ luật học,
tác giả luận án đã nêu và phân tích một số khái niệm cơ bản về ý thức pháp
luật, về cơ chế hình thành và tác động đến việc hình thành ý thức pháp luật.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa như một giải pháp cơ bản cho quá
trình giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong nhân dân.
Nguyễn Thuý Vân (2001), Logic khách quan của quá trình hình thành
và phát triển ý thức pháp luật ở việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Khoa Triết
học, Trường Đại học khoa học xã hội & nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
[36]. Tác giả đã phân tích sự tác động của tồn tại xã hội Việt Nam đến quá
trình hình thành và phát triển của ý thức pháp luật Việt Nam, qua đó cho ta
hiểu rõ hơn nguyên tắc muốn nhận thức đúng về ý thức pháp luật bắt đầu từ
điều kiện kinh tế - xã hội và muốn thay đổi ý thức pháp luật suy đến cùng
cũng phải tác động đến những điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội. Công
tác giáo dục ý thức pháp luật phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và pháp luật phải phản ánh đúng nhu cầu xã hội mới dễ đi vào lòng dân.
Ngọ Văn Nhân (2010), Về cấu trúc, vai trò và chức năng của văn hoá
pháp luật, Tạp chí Triết học, số 7/2010 [27]. Trong bài tác giả phân tích rõ vai
trò của môi trường pháp luật lành mạnh có tác dụng tích cực đến việc hình
thành và phát triển ý thức, hành vi và quan hệ pháp luật. Hơn nữa, trong bài
“Giáo dục pháp luật hay giáo dục ý thức pháp luật” đăng trên Tạp chí Nhà

3


nước và pháp luật, số 12, 2012 [28], tác giả Ngọ Văn Nhân đã phân tích, làm
rõ sự khác nhau và mối quan hệ giữa hai khái niệm “Giáo dục pháp luật” và
“Giáo dục ý thức pháp luật”.
Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ
công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội [35]. Tác giả

trình bày một cách có hệ thống và phân tích týõng ðối toàn diện về các khái
niệm, mục tiêu, phýõng hýớng, phýõng pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ
công chức hành chính trong ðiều kiện xây dựng Nhà nýớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Như Phát (1993), Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật
Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/1993 [30]. Trong bài viết tác
giả cho rằng ý thức pháp luật phải xuất phát từ nhu cầu đời sống xã hội, từ đời
sống pháp luật; đồng thời tác giả phân tích rõ nguyên nhân thực trạng bất cập,
yếu kém của hệ thống pháp luật Việt Nam. Để nâng cao ý thức pháp luật cho
người dân Việt Nam, tác giả đã nêu ra một hệ thống các giải pháp tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Lê Xuân Huy (2010), Ý thức pháp luật và việc thực hiện dân chủ ở
nông thôn Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học [23]. Luận án không
chỉ phân tích rõ các khái niệm ý thức pháp luật, thực hiện dân chủ, mối quan
hệ giữa ý thức pháp luật và vấn đề thực hiện dân chủ mà còn đưa ra hệ thống
các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn
Việt Nam hiện nay.
Đặng Trần Thanh Ngọc (2010), Tình hình và giải pháp ngăn ngừa tình
trạng vi phạm pháp luật của học sinh, sinh viên, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 2/2010 [26]. Tác giả nêu thực trạng vi phạm pháp luật và phân tích rõ
nguyên nhân của thực trạng đó trong tầng lớp học sinh, sinh viên. Theo tác

4


giả, do lứa tuổi mới lớn, nhân cách đang trong quá trình hình thành, chưa
hoàn chỉnh, chưa ổn định, lại bị tác động của môi trường xã hội đầy dẫy các
văn hoá phẩm độc hại như phim ảnh bạo lực, dễ có hành vi bột phát bắt
chước…dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Vì vậy, ngoài việc xây dựng môi
trường gia đình, nhà trường, xã hội lành mạnh, bên cạnh công tác giáo dục

đạo đức, pháp luật, đồng thời cũng cần phải có các chế tài sử lý vi phạm pháp
luật một cách nghiêm minh.
Ban Tuyên giáo, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
(2012), Đoàn Thanh niên trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb.
Thanh niên, Hà Nội [04]. Trong cuốn sách đó, đề cập đến các văn bản của các
bộ, ban, ngành, đoàn thể là cẩm nang để tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ,
đoàn viên thanh niên, học sinh, sinh viên; đồng thời nó còn đề cập đến các mô
hình kiểu mẫu, các cơ sở điển hình trong việc phổ biến, tuyên truyên, giáo dục
pháp luật và vận động thanh niên gương mẫu chấp hành pháp luật.
Nguyễn Đình Đăng Lục (2013), Vai trò của pháp luật trong quá trình
hình thành nhân cách, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội [25]. Trên cơ sở phân
tích đặc điểm tâm lý ở tuổi vị thành niên và mối quan hệ của tâm lý lứa tuổi
đó với ý thức pháp luật, tác giả đã rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc
trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho lứa tuổi vị thành niên. Theo tác giả,
trong thời gian qua do công tác giáo dục ý thức pháp luật chưa quan tâm đúng
mức nên dẫn đến tình trạng phạm pháp trong giới trẻ gia tăng. Vì vậy, trong
sự hình thành và phát triển nhân cách của thanh niên, sinh viên hiện nay, phải
có sự kết hợp các nội dung giáo dục chuyên môn, đạo đức lối sống với giáo
dục ý thức pháp luật.
Đỗ Thành Đô (2016), Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các
trường đại học ở các tỉnh Trung Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ triết học, Viện hàn lâm khoa học xã hội, Hà Nội [16]. Trong luận án tác

5


giả làm rõ khái niệm ý thức pháp luật và mối quan hệ giữa ý thức pháp luật
với các hình thái ý thức xã hội khác, đồng thời làm rõ việc giáo dục ý thức
pháp luật và tầm quan trọng của nó đối với sinh viên. Bên cạnh đó tác giả chỉ
ra thực trạng, những vấn đề đặt ra, phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các tỉnh
miền Trung Trung Bộ.
Nhìn chung, các công trình nói trên đã đề cập đến những khía cạnh,
những vấn đề nhất định liên quan đến giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên.
Luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu đến việc giáo dục ý thức pháp luật và đề
ra một số giải pháp xây dựng, giáo dục ý thức pháp luật cho đối tượng là thanh
niên trên địa bàn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trong
quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các
công trình, tài liệu khoa học nói trên và các tài liệu khác có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng của ý thức pháp luật, giáo dục ý
thức pháp luật của thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay. Thông qua đó, đề ra phương hướng và giải pháp giáo dục nhằm
nâng cao ý thức pháp luật để họ có những thay đổi tích cực hơn, xây dựng xã
hội tốt đẹp hơn.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích đặt ra trên đây, luận văn phải thực hiện các
nhiệm vụ:
Một là, dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về ý thức xã hội để
phân tích, luận giải các khái niệm về ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp
luật và giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên; những yếu tố tác động đến ý
thức pháp luật và việc giáo dục ý thức pháp luật.

6


Hai là, làm rõ thực trạng ý thức pháp luật và việc giáo dục ý thức pháp
luật của thanh niên trên địa bàn huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh.
Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp giáo dục nhằm khắc phục

những hạn chế, tồn tại và không ngừng nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên
huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật của
thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát nghiên cứu ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp
luật của thanh niên huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010
trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về ý thức pháp luật, về giáo
dục và giáo dục ý thức pháp luật.
- Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp xã hội học để thu thập - xử lý
thông tin, đồng thời với kết hợp các phương pháp khác như phân tích – tổng
hợp, diễn dịch – quy nạp, trừu tượng hoá, khái quát hoá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sâu sắc và phong phú lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt

7


Nam về vấn đề giáo dục, giáo dục thanh niên; về ý thức xã hội, ý thức pháp
luật và giáo dục ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên.

- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Phương hướng và giải pháp do luận văn đề xuất có thể áp dụng vào
thực tiễn ở địa phương là huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, góp
phần khắc phục những hạn chế tồn tại hiện nay, đồng thời xây dựng, nâng cao
ý thức pháp luật trong nhân dân nói chung và lực lượng thanh niên nói riêng.
Từ đó có thể nhân rộng, triển khai áp dụng sâu rộng đến các địa phương khác.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Lý luận về ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật.
Chương 2: Thực trạng về ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật
cho thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề
đặt ra.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp giáo dục nhằm nâng cao ý thức
pháp luật cho thanh niên huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

8


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
1.1. Một số vấn đề lý luận về ý thức pháp luật
1.1.1. Khái niệm về ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật, trước hết là phản
ánh quá trình nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể và việc
điều chỉnh hành vi của con người nhằm duy trì trật tự, kỷ cương pháp luật. Nó
là một trong những nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

Ý thức pháp luật là nhân tố không thể thiếu trong đời sống pháp luật
của xã hội ở tất cả các giai đoạn phát triển của nó, nhất là từ khi xuất hiện nhà
nước pháp quyền. Ý thức pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; đồng thời quyết định hiệu quả của
việc thực hiện pháp luật, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, để pháp luật ngày càng trở thành phương tiện mà thông qua
đó Ðảng lãnh đạo xã hội, trở thành cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ chức
và hoạt động quản lý có hiệu quả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
thì chúng ta cần phát huy vai trò ý thức pháp luật của con người trong xã hội.
Việc đánh giá vai trò của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội nói chung,
đối với các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nói riêng là hết sức cần
thiết nhằm định hướng cho việc đưa ra những giải pháp nâng cao ý thức pháp
luật của các nhóm đối tượng xã hội.
Ý thức pháp luật là dạng ý thức xã hội – sản phẩm của sự tiến hóa mà
con người có được thông qua quá trình lao động, sáng tạo và hình thành ngôn
9


ngữ. Ý thức pháp luật xuất hiện muộn hơn với các dạng ý thức xã hội khác,
đó là khi xuất hiện giai cấp và nhà nước. Nó là nhân tố quyết định trong đời
sống pháp lý.
Trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật, đó là
khi nó được nghiên cứu dưới những góc độ, những cách tiếp cận khác nhau
của những ngành khoa học khác nhau, như triết học, luật học hay xã hội học
pháp luật.
Từ góc độ triết học, ý thức pháp luật thường được tiếp cận với tư cách:
Thứ nhất, ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội
(ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn
giáo, ý thức khoa học). Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội ra

đời từ thực tiễn đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn lịch sử nhất định. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước, phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế - xã hội mà trước hết là những
quan hệ sản xuất và được thể hiện trong các bộ luật, đạo luật do nhà nước ban
hành. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Nó là
sản phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư
tưởng, quan điểm, quan niệm trong xã hội.
Thứ hai, ý thức pháp luật là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm, quan niệm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật; mang
lại cái nhìn sâu sắc và khái quát về bản chất và vai trò của pháp luật trong ý
thức xã hội nói chung. Đây là cơ sở lý luận để tiếp cận nghiên cứu ý thức
pháp luật dưới góc nhìn của các khoa học cụ thể.
Thứ ba, ý thức pháp luật là thái độ đối với pháp luật, về tính hợp
pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội. Đó là, ý thức
tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi phạm pháp
luật và phạm tội. Quan niệm này thiên về việc xác định chủ thể của ý thức

10


pháp luật, chỉ ra những biểu hiện cụ thể của ý thức pháp luật: trình độ hiểu
biết pháp luật, thái độ đối với pháp luật, thái độ đối với hành vi phạm pháp,
phạm tội.
Dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng chung quy lại “Ý thức pháp
luật – một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan điểm, khái niệm, học
thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện
thái độ, sự đánh giá của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, pháp
chế, về tính công bằng, hay không công bằng đúng đắn hay không đúng đắn
của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, về
hành vi hợp pháp, hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, các cơ quan nhà

nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế...” [19, tr.371]. Như vậy, có thể hiểu ý
thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, là tiền đề tư tưởng trực tiếp
cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là cơ sở hình
thành văn hoá pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể có khả năng
và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ lợi ích
cho bản thân mình, cho nhà nước và cho xã hội, xử sự đúng đắn, phù hợp
trong các mối quan hệ xã hội.
Các tư tưởng, quan điểm, học thuyết và tình cảm pháp luật là hình thức
thể hiện đặc thù của ý thức pháp luật, chúng có vai trò đặc biệt trong hoạt
động sáng tạo pháp luật, áp dụng pháp luật và củng cố pháp chế, trật tự pháp
luật. Là một bộ phận, một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật có quan hệ
mật thiết và tác động qua lại với các hình thái ý thức khác – ý thức chính trị, ý
thức đạo đức...
Trong cơ cấu hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật như một bộ phận
trung tâm, nó như là cầu nối giữa các bộ phận ý thức xã hội còn lại với đời
sống pháp luật, thông qua ý thức pháp luật mà các yếu tố khác của đời sống
xã hội tác động ảnh hưởng đối với pháp luật. Ý thức pháp luật là một yếu tố

11


rất quan trọng, nếu không có ý thức pháp luật thì sẽ không có hành động tự
giác tuân theo pháp luật.
“Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã
hội, chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó vẫn có tính độc lập tương
đối” [19, tr.99]. Điều này được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng
giữa ý thức pháp luật và tồn tại xã hội.
Thứ nhất, sự lệ thuộc của ý thức pháp luật vào tồn tại pháp luật thể hiện
ở chỗ nó phản ánh tồn tai xã hội của một thời đại nào đó. Các quan hệ kinh tế
xã hội quyết định nội dung, hình thức, cơ cấu pháp luật thông qua ý thức pháp

luật, thông qua tri thức, nhận thức của con người đối với pháp luật. Có nghĩa
là các quan hệ của tồn tại xã hội quyết định ý thức pháp luật.
Thứ hai, tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật với tồn tại xã hội
thể hiện ở những điểm sau:
Một, ý thức pháp luật thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Các quan hệ
kinh tế luôn vận động, phát triển năng động một cách khách quan, còn ý thức
của con người mang tính ý chí, tính bảo thủ, trì trệ. Tồn tại xã hội cũ có thể đã
mất đi nhưng ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn còn tồn tại dai dẳng trong
một thời gian dài, nhất là trong lĩnh vực tâm lý pháp luật. Đây là do xuất phát
từ thói quen của con người kéo dài trong một thời gian dài, dẫn đến chưa thay
đổi kịp cùng với tồn tại xã hội.
Hai, ý thức pháp luật trong những điều kiện nhất định (hệ tư tưởng
pháp luật, đặc biệt là những quan điểm, tư tưởng pháp luật khoa học) có tính
vượt trước so với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Ba, sự tác động của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội theo hai xu
hướng đối lập. Ý thức pháp luật tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển khách
quan của tồn tại xã hội, sẽ thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội, ngược lại,
nếu là ý thức lạc hậu, sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.

12


Ý thức pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Ý thức pháp luật của các
giai cấp, tập đoàn, tầng lớp người tùy thuộc vào vị trí chính trị, kinh tế của họ
trong xã hội.
Trong xã hội có giai cấp chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật phản ánh ý
chí của giai cấp thống trị xã hội. Nhưng trong xã hội tồn tại nhiều hệ ý thức
pháp luật như: hệ ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, hệ ý thức của giai
cấp bị trị, của các tầng lớp khác trong xã hội.
Về nguyên tắc, chỉ ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được

phản ánh vào trong pháp luật. Ý thức pháp luật của các giai cấp bị trị mâu
thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong xã hội có
đối kháng giai cấp, do xu hướng phát triển tiến bộ của xã hộ, trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị tuy không
thay đổi về bản chất giai cấp, nhưng để bảo vệ lợi ích lâu dài của mình, giai
cấp thống trị vẫn có những nhượng bộ nào đó khi ban hành pháp luật.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn tồn tại những
hệ ý thức pháp luật khác nhau của giai cấp, tầng lớp khác nhau. Giữa giai cấp
công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp lao động xã hội khác có
lợi ích cơ bản thống nhất với nau, do đó hệ ý thức pháp luật của họ về căn bản
là thống nhất.
Khoa học luật quan niệm ý thức pháp luật có ba chức năng cơ bản gồm
chức năng nhận thức, chức năng mô hình hóa pháp lý và chức năng điều
chỉnh hành vi của con người. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, để hình thành các tư tưởng, quan điểm, quan niệm về pháp
luật, niềm tin vào pháp luật, cần phải phân tích hiện thực khách quan và nhận
thức được hiện thực đó. Từ quá trình nhận thức các quá trình kinh tế - xã hội,
các giá trị đạo đức đi đến thể chế hóa hoặc sẽ được thể chế hóa thành pháp
luật. Ngoài ra thông qua nội dung của pháp luật có thể nhận thức được các giá
trị xã hội đã và sẽ được phản ảnh vào pháp luật.
13


Thứ hai, nhờ có ý thức pháp luật mà đánh giá được các mô hình nào
cần thiết và tất yếu để định hướng hành vi, cách xử sự, các quan hệ xã hội
phát triển có kết quả. Đó chính là chức năng mô hình hóa pháp lý của ý thức
pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật định hướng cho hành vi của con người phù
hợp hay không phù hợp với yêu cầu của pháp luật hiện hành, hoặc làm cho
hành vi của con người trở nên không phù hợp với các yêu cầu đó. Như vậy, ý

thức pháp luật quyết định hành vi hợp pháp hay hành vi vi phạm pháp luật.
Đó chính là chức năng điều chỉnh hành vi của con người.
Ý thức pháp luật là nhân tố quan trọng của hoạt động sáng tạo pháp
luật, hoàn thiện, thực hiện pháp luật của hoạt động bảo vệ pháp luật, ngăn
chặn vi phạm pháp luật và củng cố pháp chế. Ý thức pháp luật tác động tới
pháp luật, pháp luật tùy thuộc vào ý thức pháp luật của chủ thể mang ý thức.
Muốn có được pháp luật tốt phù hợp với cuộc sống thì chủ thể sáng tạo pháp
luật phải có ý thức pháp luật cao.
Ý thức pháp luật tác động tới hoạt động sáng tạo pháp luật thông qua
hoạt động của quần chúng nhân dân lao động trong việc thảo luận các dự thảo
luật quan trọng, cũng như dự tảo quyết định có ý nghĩa toàn quốc. Pháp luật
như là sản phẩm trực tiếp của hoạt động sáng tạo pháp luật, do đó nó phản
ánh ý thức pháp luật của cơ quan làm luật, của nhân dân và được hình thành
trên cơ sở ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật là tiền đề của pháp luật, nó là nguồn gốc tư tưởng,
trực tiếp của pháp luật, vì trước khi ban hành một văn bản pháp luật thì cần
phải có nhận thức, suy nghĩ trước về nội dung của văn bản đó, có nghĩa phải
xác định trước những quan hệ xã hội nào cần được điều chỉnh và điều chỉnh
như thế nào. Mặt khác, ý thức pháp luật đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện trong thực tế, khi các công dân, cán bộ, công chức có nhận thức đầy đủ

14


về quy phạm pháp luật, thì sẽ tôn trọng hơn và sử dụng một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, ý thức pháp luật tác động tới mọi hình thức thực hiện pháp luật. Vì
vậy, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, giải thích pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật có tác dụng loại trừ dần những vi phạm pháp
luật là một vấn đề cần phải thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Ý thức pháp luật giúp con người có khả năng nhận thức, đánh giá về

đời sống pháp luật với các vấn đề, như thực trạng của đời sống pháp luật hiện
hành; các tài liệu, ấn phẩm thông tin pháp lý; tình trạng pháp chế; công tác tổ
chức, áp dụng và thi hành luật pháp của các cơ quan nhà nước; hoạt động thực
hiện pháp luật của các tổ chức xã hội, thái độ và hành vi của các tầng lớp
nhân dân với pháp luật; tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của
bản thân, của người khác; sự công bằng hay chưa trong việc áp dụng pháp
luật đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội.
Ý thức pháp luật quyết định hiệu quả của việc thực hiện pháp luật, đưa
pháp luật vào cuộc sống. Ý thức pháp luật cao là cơ sở cho những ứng xử có
văn hóa của con người khi con người có ý thức tôn trọng nhau thông qua việc
nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ pháp luật.
Ý thức pháp luật luôn chứa đựng sự đánh giá hiện thực khách quan,
đánh giá hành vi xử sự, ý thức thức pháp luật dự báo xu hướng phát triển của
các quan hệ xã hội, các hiện tượng pháp lý và kết quả tác động của các quy
phạm pháp luật.
1.1.2. Những thành tố của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp vậy nên
có nhiều cách phân chia bộ phận cấu thành của ý thức pháp luật. Trong đó có
2 loại phân chia cơ bản. Loại thứ nhất cho rằng ý thức pháp luật gồm hai bộ
phận cấu thành là hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Loại thứ hai coi ý
thức pháp luật gồm ba bộ phận là hệ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật và

15


yếu tố hành vi. Về cơ bản theo loại thứ nhất tương đối đúng đắn hơn vì xuất
phát từ quan điểm triết học thì ý thức bao giờ cũng là cái đối lập với tồn tại, ý
thức phản ánh tồn tại và ý thức của con người được biểu hiện thông qua hành
vi cụ thể của con người, không thể đồng nhất hình thức thể hiện hay kết quả
của ý thức với nội dung của ý thức, chỉ có thể đánh giá được ý thức của con

người thông qua những hành vi của họ.
Thứ nhất, về hệ tư tưởng pháp luật. “Hệ tư tưởng pháp luật là những tư
tưởng, quan điểm, các khái niệm, ý niệm và học thuyết về pháp luật có tính
chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh ý chí, quyền lợi và nguyện
vọng của con người, giai cấp (trong chủ nghĩa xã hội nó phản ánh ý chí,
quyền lợi và nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động) trong
lĩnh vực pháp lý, phản ánh về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách
sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học. Đó chính là
sự hiểu biết về pháp luật, trình độ pháp luật” [19, tr.375-376]. Hoạt động thực
tiễn của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực pháp luật, bảo vệ pháp luật có ý
nghĩa quan trọng tạo ra những khả năng, điều kiện cần thiết cho sự hình thành
ý thức pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ
thống về các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp
luật trên lập trường của một giai cấp nhất định. Nó là cơ sở để sáng tạo các
giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn
trong xã hội.
Thứ hai, về tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật là một trong hai yếu tố
cấu thành nên ý thức pháp luật của mỗi người. Tâm lý pháp luật là sự phản
ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của con người với pháp luật
và quá trình điều chỉnh pháp luật, tinh thần và hành vi thực hiện pháp luật một
cách tự phát. Yếu tố tâm lý pháp luật bao gồm những rung cảm pháp luật, tình

16


cảm pháp luật và những thói quen pháp luật gắn bó con người với pháp luật.
Nếu yếu tố tư tưởng của ý thức pháp luật gồm các yếu tố thuộc phạm vi ý
thức hệ, thì yếu tố tâm lý thuộc lĩnh vực tình cảm pháp luật. Đối tượng mang
tâm lý pháp luật là con người với tư cách là một cá nhân, một thành viên tập

thể, thành viên cộng đồng dân tộc, tâm lý pháp luật là một bộ phận của tâm lý
xã hội.
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm
xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng
như những hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật
chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp
luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nó cũng như
yếu tố tâm lý vốn có của con người là sự phản ánh trực tiếp các sự kiện, hiện
tượng bên ngoài có liên quan đến pháp luật.
Tâm lý pháp luật chứa đựng trong nó những rung động về tâm hồn của
con người đối với những hành vi được điều chỉnh bằng những tiêu chuẩn
pháp lý như: niềm tin, sự trân trọng, định kiến, thù ghét, ác cảm.... Tâm lý
pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp
của chủ thể và góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, từ đó hình
thành trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia đình, lớn hơn nữa là
với quê hương, nhân loại.
Tâm lý pháp luật được thể hiện qua thái độ, tình cảm, tâm trạng, xúc
cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được hình thành một
cách tự phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện tượng pháp lý,
phản ứng một cách tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó. Trong
tâm lý pháp luật, thói quen pháp luật được coi là yếu tố quan trọng. Thói quen
của con người đối với pháp luật được hình thành trên cơ sở những tình cảm
của con người đối với pháp luật. Thói quen pháp luật là những hành vi tôn

17


trọng pháp luật được lặp đi lặp lại nhiều lần, mà con người không cần thiết
phải nhận ra nó bằng lý trí.
Tâm lý pháp luật ngoài vấn đề nhận thức pháp luật còn do cách tự nhìn

nhận sự việc, tình huống của mỗi người và hoàn toàn mỗi chúng ta có thể tự
rèn luyện, tu dưỡng để tâm lý, nhận thức của mình được nâng cao. Trước mỗi
sự việc, tình huống, cần bình tĩnh để suy xét cách ứng xử, lối hành động của
bản thân. Có thể ngày hôm nay nhận thức thấy hành động của mình trước sự
việc này chưa thật đúng nhưng ngày hôm sau, chúng ta có thể điều chỉnh ý
thức, hành vi của mình theo chiều hướng tích cực, hợp lý hơn. Mỗi người
trong chúng ta cần có trách nhiệm học hỏi, rèn luyện để xây dựng tâm lý pháp
luật, từ đó có ý thức pháp luật tốt và làm chủ mọi tình huống trong cuộc sống.
Tâm lý pháp luật bị chi phối bởi hệ tư tưởng pháp luật, nó phụ thuộc rất
nhiều vào đặc điểm và trình độ nhận thức, lý luận của cá nhân. Ngược lại, tâm
lý pháp luật là tiền đề thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển các tư tưởng,
quan điểm pháp luật phù hợp. Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc
thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp của chủ thể.
So với hệ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền vững, bảo
thủ hơn, gắn bó chặt chẽ với những truyền thống, tập quá, lối sống, thói quen
văn hóa của con người. Tâm lý pháp luật được hình thành, phát triển chậm
chạp và ít biến đổi. Giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối
quan hệ biện chứng. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân ảnh
hưởng tới trình độ tư tưởng pháp luật của cá nhân đó. Ngược lại, sự phát triển
của hệ tư tưởng pháp luật cũng chi phối tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật và
hệ tư tưởng pháp luật là tiền đề của nhau, tạo thành một thể thống nhất của ý
thức pháp luật.
Căn cứ vào cấp độ giới hạn của sự nhận thức thì ý thức pháp luật gồm
có ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lý luận và ý
thức pháp luật mang tính nghề nghiệp.
18


Thứ nhất, ý thức pháp luật thông thường, là kinh nghiệm của chủ thể về
pháp luật, chỉ phản ánh được các mối liên hệ bên ngoài của pháp luật mà chưa

phản ánh được bản chất của pháp luật. Ý thức pháp luật được hình thành một
cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện và kinh nghiệm cuộc sống
cá nhân. Trong cơ cấu ý thức pháp luật thông thường, yếu tố tâm lý pháp luật
có vai trò rất quan trọng. Ở mức độ này, ý thức pháp luật được thừa nhận và
tiếp thu một cách trực tiếp, tức là quy phạm pháp luật được thể hiện thế nào
thì hành vi của con người thể hiện như thế. Người có ý thức pháp luật thông
thường nghĩa là người đó chưa có kiến thức sâu sắc có tính khoa học, lý luận,
tính hệ thống về pháp luật, tuy nhiên người đó có hiểu biết nhất định trong xử
lý các vụ việc pháp lý cụ thể.
Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính lý luận, là hệ thống các học thuyết,
tư tưởng, quan điểm, quan niệm về pháp luật, phản ánh được mối quan hệ bên
trong, bản chất của pháp luật. Nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật,
đồng thời nó cũng là cơ sở khoa học cho hoạt động pháp lý thực tế. Như vậy,
nếu ý thức pháp luật thông thường mới chỉ phản ánh mối liên hệ bên ngoài,
chưa đi vào bản chất bên trong của pháp luật thì ý thức pháp luật mang tính lý
luận phản ánh những vấn đề bản chất, mối liên hệ của nó với các hiện tượng
khác như: chính trị, đạo đức, kinh tế...
Thứ ba, ý thức pháp luật mang tính nghề nghiệp là ý thức pháp luật của
các luật gia, của các nhà chức trách mà trong hoạt động của mình thường
xuyên vận dụng sáng tạo pháp luật. Cho nên, ý thức pháp luật mang tính nghề
nghiệp không chỉ có riêng ở thẩm phán, cán bộ kiểm sát, điều tra, thanh tra
mà còn có ở cả cán bộ quản lý nhà nước. So với ý thức pháp luật thông
thường và ý thức pháp luật mang tính lý luận, ý thức pháp luật mang tính
nghề nghiệp đặc trưng bởi sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tư tưởng và yếu tố
tâm lý. Ý thức pháp luật ở mức độ nghề nghiệp không chỉ đặc trưng bởi trình

19


độ hiểu biết cao về pháp luật, mà còn đặc trưng bởi khả năng thực tế cao như

thành thói quen trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật trong thực tế.
Căn cứ vào chủ thể gồm có ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật
nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
Thứ nhất, ý thức pháp luật cá nhân, là những nhận thức, hiểu biết,
tâm trạng, tình cảm pháp luật của mỗi con người cụ thể, phụ thuộc vào
trình độ, văn hóa, lối sống, môi trường xã hội, môi trường hoạt động, nghề
nghiệp của họ...
Thứ hai, ý thức pháp luật nhóm, là ý thức pháp luật của một nhóm xã
hội bao gồm những quan điểm, nhận thức tư tưởng, tình cảm pháp luật của
một nhóm người nhất định. Do sự giống nhau về điều kiện kinh tế, vị thế xã
hội và lợi ích đã tạo cho những thành viên của nhóm đó những nhận thức,
quan niệm, thái độ, tình cảm tương đối thống nhất đối với pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật xã hội, là ý thức của bộ phận tiên tiến trong xã
hội, phản ánh xu thế phát triển của xã hội. Nó thể hiện tính khoa học cao gồm
những khái niệm, phạm trù khoa học về sự xuất hiện, bản chất giai cấp, giá trị
xã hội, vai trò, các đặc trưng, chức năng, nguyên tắc, nhiệm vụ của pháp luật
và được hình thành dưới tác động trực tiếp của khoa học luật học. Ý thức
pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân có tác động qua lại lẫn nhau,
nhưng ý thức pháp luật xã hội có tác động chi phối rất lớn đối với ý thức pháp
luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
1.2. Giáo dục ý thức pháp luật
1.2.1. Khái niệm về giáo dục ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng - pháp lý thiết yếu đối với quá trình
quản lý xã hội bằng pháp luật. Có nhiều biện pháp để nâng cao ý thưc pháp
luật, trong đó, giáo dục pháp luật là biện pháp, hoạt động cơ bản. Xét về bản
chất, giáo dục pháp luật là quá trình hoàn thiện nhân tố xã hội - pháp lý của

20



con người, nâng cao khả năng sáng tạo của con người trong đời sống thực
tiễn. Tóm lại, giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục
đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi
người trình độ, kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có nhận thức đúng về
pháp luật, có thái độ tôn trọng, tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
Giáo dục ý thức pháp luật có mục đích: Nhận thức (làm hình thành và
nâng cao hiểu biết về pháp luật của người dân); mục đích tình cảm (làm hình
thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật); mục đích hành vi (làm hình
thành động cơ, hành vi, thói quen xử sự hợp pháp). Tuy nhiên, kết quả cuối
cùng của giáo dục pháp luật phải được biểu hiện ở hành vi xử sự và giáo dục
pháp luật hướng tới hình thành động cơ và hành vi tích cực đối với pháp luật.
Chủ thể của giáo dục pháp luật gồm chủ thể chuyên nghiệp như: công
tác giáo dục pháp luật của cơ quan tư pháp, giáo viên giảng dạy pháp luật
trong nhà trường, cán bộ chỉ đạo thực hiện công tác giáo dục pháp luật, và chủ
thể không chuyên nghiệp nhưng gắn với mục đích của hoạt động chuyên môn
như: đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ các cơ quan hành
pháp, tư pháp, luật sư, công chứng viên.
Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân, công dân, hay nhóm
cộng đồng công dân tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp tác động của hoạt động
giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục pháp luật tiến hành.
Nội dung của việc giáo dục pháp luật là: những vấn đề về lý luận nhà
nước và pháp luật; những quy định pháp luật cụ thể (pháp luật thực định); tình
hình thực hiện pháp luật và vi phạm pháp luật; kỹ năng thực hiện pháp luật và
áp dụng pháp luật.
Giáo dục ý thức pháp luật là hoạt động có mục đích, có hệ thống và có
định hướng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các tập thể lao
động để hình thành và nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý cho mọi

21



×