Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nghi thức hôn lễ của đồng bào cờ ho tỉnh lâm đồng trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay (nghiên cứu trường hợp xã mê linh huyện lâm hà tỉnh lâm đồng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.12 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI VĂN TUẤN

NGHI THỨC HÔN LỄ CỦA ĐỒNG BÀO CỜ HO TỈNH LÂM ĐỒNG
TRONG BỐI CẢNH CNH – HĐH HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP XÃ MÊ LINH, HUYỆN LÂM HÀ,
TỈNH LÂM ĐỒNG)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS MAI VĂN HAI

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là
hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan và hoàn toàn không trùng lặp
với bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào.

Học viên

Mai Văn Tuấn



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hƣớng dẫn khoa học, PGS.TS. Mai
Văn Hai, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ không chỉ về mặt khoa học
mà còn cả về những vấn đề ngoài phạm vi luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Cơ sở Đào tạo sau đại học – Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng nhƣ chất lƣợng giảng dạy để
chúng tôi hoàn thành khóa học tại đây.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo - Các nhà khoa học đã trực tiếp
giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Xã hội học
cho bản thân Tôi trong những năm tháng qua.
Xin gửi tới toàn thể các hộ gia đình đồng bào Cờ Ho xã Mê Linh, huyện
Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng lời cảm ơn sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp chúng tôi thu thập đƣợc số liệu cũng nhƣ các tài liệu nghiên cứu
cần thiết liên quan đến đề tài tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những đóng góp quý
báu và nhiệt tình của các bạn học viên lớp Cao học Xã hội học đợt 1 năm
2014 trong quá trình học tập tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. Có
thể khẳng định sự thành công của luận văn này, trƣớc hết thuộc về công lao
của tập thể, của nhà trƣờng, và xã hội. Đặc biệt là quan tâm động viên
khuyến khích cũng nhƣ sự thông cảm sâu sắc của gia đình trong quá trình
làm luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tp. HCM ngày 20 tháng 7 năm 2016
Học viên
Mai Văn Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐÈ
NGHIÊN CỨU ........................................................................... 16
1.1. Các khái niệm làm việc của đề tài ...................................................... 16
1.2.Thao tác hóa khái niệm làm việc ......................................................... 23
1.3. Các tiếp cận lý thuyết của đề tài ......................................................... 24
1.4. Đặc điểm về địa bàn nghiên cứu và truyền thống của đồng bào
Cờ Ho ............................................................................................................. 30
Chƣơng 2: NGHI THỨC HÔN LỄ CỦA ĐỒNG BÀO CỜ HO XÃ
MÊ LINH QUA ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC .................................. 41
2.1. Các bƣớc thực hiện trong nghi lễ thực hành hôn lễ ............................... 41
2.2. Các hoạt động cụ thể của các giai đoạn thực hành nghi thức
hôn lễ. .............................................................................................................. 42
2.3. Tác động của quá trình CNH – HĐH tới việc thực hành nghi
thức hôn lễ và xu hƣớng biến đổi nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ
Ho .................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 80
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mô hình nghi thức hôn lễ của đồng bào Cơ Ho hiện nay............... 42
Bảng 2.2. Lễ vật trong lễ dạm ........................................................................ 44
Bảng 2.3. Số lần thực hiện lễ ăn dạm.............................................................. 46
Bảng 2.4. Thành phần tham dự lễ ăn hỏi ........................................................ 48
Bảng 2.5. Lễ vật trong lễ hỏi .......................................................................... 49
Bảng 2.6. Phƣơng tiện trong lễ rƣớc rể ........................................................... 53
Bảng 2.7. Thành phần tham dự lễ cƣới ........................................................... 55
Bảng 2.8. Hình thức mời cƣới ......................................................................... 56
Bảng 2.9. Trang phục cƣới của cô dâu chú rể ................................................. 59

Bảng 2.10. Tiệc đãi trong đám cƣới ................................................................ 61
Bảng 2.11. Đồ uống trong tiệc cƣới ................................................................ 63
Bảng 2.12. Loại hình văn nghệ trong đám cƣới.............................................. 65
Bảng 2.13. Quà mừng cƣới ............................................................................ 67


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm biến đổi không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế, mà còn diễn ra ở tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, trong đó có văn hóa và lối sống ở tất cả các vùng lãnh thổ của đất nƣớc.
Lâm Đồng là một tỉnh thuộc Tây Nguyên, nơi có số lƣợng ngƣời Cờ Ho
tập trung sinh sống đông nhất của Việt Nam. Khi chƣa diễn ra quá trình CNH
- HĐH, ngƣời Cờ Ho là những ngƣời chủ cao nguyên của núi rừng. Nhƣng
trong những thập niên gần đây, do ảnh hƣởng của quá trình CNH - HĐH,
cùng với sự ảnh hƣởng của làn sóng di dân từ các tỉnh khác đổ vào Tây
Nguyên ngày một nhiều, làm cho điều kiện tự nhiên và xã hội của khu vực
này có nhiều biến đổi. Dòng ngƣời di cƣ từ nơi khác tới, họ đến và mang theo
những nét văn hóa riêng của quê hƣơng mình, của dân tộc mình, làm cho nền
văn hóa bản địa không còn vận hành nhƣ cũ nữa. Đối với ngƣời Cờ Ho đây
vừa là cơ hội vừa là thách thức - cơ hội đối với sự phát triển và thách thức
trong việc duy trì và bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc.
Bên cạnh đấy, chính sách tái định canh định cƣ làm cho cuộc sống, phong
tục tập quán của đồng bào Cờ Ho cũng có nhiều thay đổi. Sống trong một xã
hội có nhiều biến đổi nhƣ thế thì đồng bào Cờ Ho cũng sẽ có những điều
chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh sống cũng nhƣ điều kiện xã hội của
mình. Về cơ bản, sự biến đổi đó không phải là làm mất đi bản sắc riêng, mà là
sự biến đổi có chọn lọc, chọn lọc cái mới cái tiến bộ nhƣng không làm mất đi
những bản sắc riêng của dân tộc mình.
Ngƣời Cờ Ho có rất nhiều nét văn hóa và phong tục độc đáo, mỗi một

phong tục lại có những ý nghĩa tinh thần riêng. Trong qúa trình tồn tại và phát
triển, ngƣời Cờ Ho đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật chất, tinh thần
phong phú, phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi cƣ trú và trình độ phát triển kinh
1


tế xã hội của mình. Trong đó, hôn nhân là một thành tố quan trọng, góp phần
tạo nên nét đặc sắc trong văn hóa của cộng đồng cƣ dân này. Hôn nhân của
ngƣời Cờ ho chứa đựng và hiển thị nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa, biểu hiện
qua các quan niệm, quy tắc, loại hình và các nghi lễ trong hôn nhân. Tuy nhiên
trong những thập niên qua, dƣới tác động của của sự chuyển biến kinh tế - văn
hóa - xã hội tại địa phƣơng, sự giao lƣu thoa văn hóa với các tộc ngƣời lân cận
cùng với sự du nhập của Kitô giáo… ngƣời ta có thể cảm nhận thấy sự biến đổi
về phong tục hôn nhân của ngƣời Cờ Ho. Nhƣng tần xuất của sự biến đổi đó
thế nào? Cƣơng độ mạnh yếu ra sao? Và, nhất là, những lý do xã hội cụ thể nào
dẫn đến sự biến đổi ấy? Những câu hỏi này, cho đến nay, dƣờng nhƣ vẫn còn
bỏ ngỏ. Nói cách khác, các nghiên cứu khoa học về biến đổi hôn nhân của
ngƣời Cờ Ho trong bối cảnh CNH, HĐH hiện nay vẫn còn thiếu vắng, chƣa
theo kịp với sự vận hành và phát triển của đời sống hiện thực.
Xuất phát từ những lý do trên, đồng thời là một ngƣời đang sinh sống trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng nên tác giả chọn đề tài: “Nghi thức hôn lễ của đồng
bào Cờ Ho tỉnh Lâm Đồng trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
hiện nay” (Nghiên cứu trƣờng hợp xã Mê Linh - huyện Lâm Hà - tỉnh Lâm
Đồng) làm đề tài luận văn thạc sỹ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Gia đình là một thiết chế xã hội cơ bản, là nơi bảo tồn và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc. Sự ra đời và sự phát triển của gia đình chính là sự thích
nghi với các giai đoạn tiến hóa của xã hội loài ngƣời. Trong lịch sử có các công
trình nghiên cứu về sự phát triển các hình thức hôn nhân của J.J Bachofen (Das

Mutterech, 1981) hay History of Human (E. Westermarck,1891). F. Engels
trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
(Engels, 1891). Ông đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các biến đổi trong hình

2


thái kinh tế xã hội đối với sự biến đổi trong nội dung các quan hệ hôn nhân và
gia đình.
Giai đoạn tiếp theo khi những nhà nghiên cứu về hôn nhân và gia đình đã
vận dụng những phƣơng pháp nghiên cứu và tính toán để áp dụng vào nghiên
cứu mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nhƣ là Ernest. W.
Burgess, một nhà xã hội học ngƣời Mỹ, đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm
về những chủ đề nhƣ điều chỉnh hôn nhân, quan hệ hôn nhân, tiêu chuẩn lựa
chọn bạn đời một cách có hệ thống.
Gắn liền với nghiên cứu thực nghiệm, giai đoạn tiếp theo là giai đoạn mà
các nhà nhiên cứu sử dụng rộng rãi các lý thuyết. Chẳng hạn, nghiên cứu về
sự hình thành và tan vỡ của gia đình, ngƣời ta cho rằng, sự lựa chọn bạn đời
vừa là mong muốn tìm đƣợc đối tƣợng tốt nhất cho mình vừa là tuân thủ theo
chuẩn mực của xã hội. Nhƣng sự lựa chọn đó không bao giờ là độc lập mà nó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể do gia đình hai bên, vị thế, danh vọng, tiền
bạc, sắc đẹp hay đạo đức. Đó là lý thuyết trao đổi và sự lựa chọn hợp lý. Bổ
sung cho lý thuyết trao đổi về sự lựa chọn bạn đời là lý thuyết các nhu cầu bổ
sung. Robert Winch (Mate-Selection, 1958) cho rằng ta thƣờng chọn cho
mình ngƣời bạn đời đáp ứng cho mình hơn là tìm ngƣời giống mình. Sau này
khi chỉnh sửa lại lý thuyết của mình, ông cho rằng sự bổ sung chỉ là một trong
các yếu tố hoạt động ở mức cao hơn của sự hấp dẫn. Còn theo Davis và
Kerchoff (1962) thì lựa chọn bạn đời bao gồm nhiều giai đoạn và trải qua một
số bƣớc lọc. Bernard Murstein xây dựng lý thuyết về sự lựa chọn, bao gồm ba
giai đoạn đó là: giai đoạn bị kích thích, giai đoạn tìm hiểu về các giá trị và

giai đoạn thử nghiêm.
Nhƣ vậy có thể nhận thấy rằng, xã hội học về hôn nhân vẫn chủ yếu xoay
quanh chủ đề lựa chọn bạn đời là chính. Ngƣời ta không kết hôn với một
ngƣời bất kỳ nào đó mà không bị tác động bởi các yếu tố khác.

3


Chủ đề tiếp theo là những biến đổi trong qui luật hôn nhân; mặc dù đồng
phối hay nội hôn là nội dung cơ bản của hôn nhân, nhƣng trong những hoàn
cảnh xã hội khác nhau điều đó thể hiện ra sao, cơ chế nội hôn (endogamy) hay
đồng phối (homogamy) có những biến đổi ra sao trong từng thời kỳ.
Rockwell (1976), chẳng hạn, sau khi nghiên cứu 443.520 cặp vợ chồng trong
cuộc tổng điều tra dân số Mỹ năm 1970 nhận xét rằng, mức độ đồng phối (liver
of homogamy) theo học vấn ở Mỹ trong những năm 60 - 70 giảm đi so với hồi
đầu thế kỉ. Kerchoff (1964) cũng cho rằng có nhiều bằng chứng cho thấy một xu
hƣớng chung là mức độ đồng phối trong một số khía cạnh nào đó tăng lên hoặc
giảm đi trong những khía cạnh khác. Cuộc nghiên cứu của viện dân số Pháp
(INED) năm 1983 – 1984 cho thấy những thay đổi lớn về địa điểm gặp gỡ của
các cặp vợ chồng tƣơng lai thuộc những thế hệ kết hôn khác nhau. Nếu từ hồi
đầu thế kỉ cho đến những năm 60 thanh niên Pháp thƣờng tìm đƣợc bạn trăm
năm trong các cuộc thăm viếng, vũ hội, hay nơi làm việc…thì sang thập kỉ 70,80
của thế kỷ XX ngƣời ta hay gặp nhau ở các nơi công cộng, ở câu lạc bộ, nhà hát,
sàn nhảy, hộp đêm… (M. Bozon và F. Heran,1984).
Từ nửa sau thế kỷ XX, giới khoa học xã hội phƣơng Tây đã dấy lên cuộc
tranh luận sôi nổi về hôn nhân hiện đại và cho đến nay vẫn chƣa ngã ngũ.
Trong công trình “Cách mạng thế giới và các mẫu hình gia đình”, Goode dựa
trên những cứ liệu ở nhiều nƣớc khác nhau, ông cho rằng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã đƣa đến kết quả là cá nhân có sự tự do lớn hơn, thoát khỏi uy
quyền của cha mẹ hay những nhóm anh em bà con. Sự độc lập kinh tế tạo cơ

sở cho sự thực hiện các giá trị tự do cá nhân trong hôn nhân (Goode, 1963).
Không đồng tình với quan điểm của Goode, hơn bốn mƣơi năm sau trong
công trình “Giữa Tình dục và Quyền lực” dựa trên những bằng chứng mới,
Therborn đã bác bỏ nhận định của Goode về tính đồng nhất mô hình hôn nhân
trên toàn thế giới do tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

4


ông cho rằng mô hình hôn nhân sẽ trở nên đa dạng và khác nhau do khác biệt
của các xã hội (Therborn, 2004).
Đặc biệt, dƣới tác động của CNH, HĐH, các nghi thức hôn lễ cũng có sự
thay đổi rất mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nghiên cứu của
mình, nhà nghiên cứu ngƣời Pháp là M. Ségalen cho biết: từ những năm
1960, ở Pháp cũng nhƣ ở châu Âu nói chung, việc thực thi các nghi thức
phong tục hôn nhân là cách để công khai cuộc hôn nhân của mình, qua đó
nhận đƣợc sự công nhận của cộng đồng. Nhƣng trong các đám cƣới ngày nay,
tức là trong thế kỷ XXI, các nghi thức hôn nhân không còn mang các ý nghĩa
xã hội nhƣ trƣớc nữa. Ngày nay ở Pháp, khi xã hội đã ở giai đoạn CNH cao,
bƣớc đầu đã bƣớc vào thời kỳ hậu hiện đại, nghi thức cƣới xin mang tính chất
biểu diễn và hội hè nhiều hơn là củng cố mối quan hệ cộng đồng. Để có đƣợc
điều đó, những ngƣời kết hôn nhiều khi phải chuẩn bị kỹ lƣỡng hàng tháng
trƣớc đó. Tác giả này cho biết, trong hai mƣơi năm qua, có rất nhiều thủ tục,
nghi thức mới đã đƣợc tạo ra. Chẳng hạn, đó là tiệc rƣợu mừng, sự tập hợp tối
đa số khách mời, lễ tiễn đƣa đời thiếu nữ, dod là chƣa kể việc chụp ảnh, quay
video, làm đĩa DVD về buổi lễ mà ngƣời ta cầu lƣu giữ, v.v… (Martin
Ségalen, 2014: 160 – 161). Tất cả những điều đó đã nói lên rằng các nghi thức
cƣới xin đã có nhiều thay đổi, mà biểu hiện tập trung nhất là nó đã bị thƣơng
mại hóa quá đáng, trở thành một lĩnh vực của kinh doanh và đƣơng nhiên là
chi phí cho cƣới hỏi bị đẩy lên khá cao không chỉ cho cô dâu chú rể, mà cho

cả số khách mời.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Cũng giống nhƣ trên thế giới, ở Việt Nam từ trƣớc đến nay cũng đã có
nhiều tác giả nghiên cứu về hôn nhân, trong đó có các nghi thức về cƣới hỏi.
Chẳng hạn, trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, đã có nhiều tác giả đề cập đến
các vấn đề của hôn nhân ở Việt Nam nhƣ Phan Kế Bính, Đào Duy Anh,

5


Nguyễn Văn Huyên, Toan Ánh… Đặc điểm chung của các nhà nghiên cứu
này là họ đều xuất phát từ các góc nhìn sử học, văn hóa học và dân tộc học để
mô tả và bình luận về các thủ tục và nghi lễ hôn nhân cổ truyền nói chung,
nghĩa là những mô hình hôn nhân đã đƣợc định hình trong lịch sử.
Còn việc khảo sát Xã hội học về hôn nhân, nghĩa là bao gồm cả hai
phƣơng pháp định tính và định lƣợng thì đến cuối những năm 70, đầu những
năm 80 của thế kỷ trƣớc mới đƣợc tiến hành. Chẳng hạn, đó là nghiên cứu về
hộ gia đình, các quan hệ về hôn nhân, địa vị ngƣời phụ nữ của F. Houtart
trong công trình về Hải Vân, một xã ở Việt Nam. Rồi những nghiên cứu về
tiêu chuẩn lựa chọn ngƣời bạn đời trong Những định hướng việc hôn nhân
của thanh niên của tác giả Mai Kim Châu, những nghiên cứu về hôn nhân và
gia đình của Mai Huy Bích, Vũ Mạnh Lợi, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Thị Thanh
Tâm… công bố trên các tạp chí Xã hội học, Nghiên cứu Gia đình và Giới
trong những năm gần đây.
Trong số những nghiên cứu về hôn nhân ở Việt Nam thì vấn đề vai trò của
cha mẹ và họ hàng về quyền quyết định hôn nhân, cũng nhƣ các tiêu chuẩn
trong việc lựa chọn ngƣời bạn đời đƣợc nhiều ngƣời quan tâm hơn cả. Chẳng
hạn, đó là tác giả Bình Minh với Về quan hệ hôn nhân trong gia đình nông
thôn hiện nay, Phạm Thanh Vân với Một vài ý kiến về thực trạng hôn nhân va
gia đình ở Hà Nội. Bên cạnh đấy, nhiều tác giả cũng nhấn mạnh đến chủ đề

hôn nhân và gia đình truyền thống dƣới ảnh hƣởng của Nho giáo hay hôn
nhân và gia đình trong công cuộc CNH, HĐH hiện nay. Chẳng hạn, đó là Đỗ
Thái Đồng với Gia đình truyền thống và những biến thái ở Nam Bộ Việt Nam,
Trần Đình Hƣợu với Về gia đình truyền thống ở Việt Nam, hay Vũ Tuấn Huy
(chủ biên) với Xu hướng gia đình ngày nay…
Cùng với những nghiên cứu về hôn nhân từ các cách tiếp cận xã hội học,
văn hóa học là những nghiên cứu từ các góc nhìn nhân học và dân tộc học,

6


nhất là đối với các dân tộc thiểu số trên đất nƣớc ta. Tiêu biểu cho hƣớng
nghiên cứu này là các tác giả Đỗ Thị Bình, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Thị
Thanh Nga, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Sĩ Giáo, Nguyễn Thị Song Hà, v.v… Từ
các góc nhìn này, các tác giả đã khảo sát, mô tả và phân tích nhiều khía cạnh
khác nhau trong việc hôn nhân của nhiều dân tộc khác nhau trong cộng đồng
các dân tộc ở Việt Nam.
Chẳng hạn, trong công trình Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người
Mường ở Hòa Bình, tác giả Nguyễn Thị Song Hà (2011) đã mang lại cho
chúng ta một sự hiểu biết khá toàn diện và có hệ thống về sự biến đổi hôn
nhan của ngƣời Mƣờng trong bối cảnh CNH, HĐH từ tuổi kết hôn đến phạm
vi không gian và xã hội trong việc kết hôn, từ tiêu chuẩn lựa chọn ngƣời bạn
đời đến quyền quyết định hôn nhân đang chuyển dần từ bố mẹ, họ hàng sang
cho đôi trẻ. Về nghi thức hôn lễ của ngƣời Mƣờng cũng có sự thay đổi rất
quan trọng: đó là bên cạnh các nghi thức cƣới xin theo phong tục, ngày nay
hôn nhân của ngƣời Mƣờng còn theo nghi thức pháp lý, mà biểu hiện cụ thể là
trƣớc ngày cƣới hầu hết các cặp uyên ƣơng đều lên Ủy ban Nhân dân xã lấy
giấy đăng ký kết hôn, với con trai ít nhất là 20 tuổi và con gái ít nhất là 18
tuổi. Về nghi thức phong tục thì vai trò của ông mối bà mối không còn quan
trọng nữa, tục thách cƣới không còn quá nặng nề, lễ vật cƣới hỏi thì bánh kẹo

đóng sẵn thay dần cho bánh chƣng, bánh dầy theo phong tục. Thời gian cƣới
trƣớc đây kéo dài 2 - 3 ngày, nay rút xuống còn 1 ngày. Quà mừng cƣới thì
thay cho rƣợu, thịt, gạo… thì nay do sự chi phối của kinh tế thị trƣờng nên
khách mời đều mừng bằng tiền (trong phong bì), vừa nhẹ nhõm vừa tiện lợi
cho gia chủ.
Trong các nghiên cứu về hôn nhân ở Việt Nam, chúng ta cũng cần đặc biệt
nhắc đến luận văn và luận án của các học viên cao học và nghiên cứu sinh tiến
sĩ, nhất là ở các trƣờng đại học hay các học viện khoa học xã hội ở nƣớc ta. Do

7


trang viết có hạn, ở đây chúng tôi chỉ xin dừng lại ở các luận án tiến sĩ. Chẳng
hạn, trong luận án Các mô hình hôn nhân ở đồng bằng sông Hồng từ truyền
thống đến hiện đại, Khuất Thu Hồng đã chọn ba khía cạnh cơ bản để khảo sát
và phân tích, đó là: 1) Những ngƣời tham gia vào việc lựa chọn và quyết định
hôn nhân; 2) Tiêu chuẩn lựa chọn ngƣời bạn đời và 3) Các thủ tục lễ nghi trong
hôn nhân. Trong khi đó Ngô Thị Thanh Quí, trong luận án Biến đổi mô hình
phong tục hôn nhân ở một làng Việt thuộc châu thổ sông Hồng nửa cuối thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX, lại phân chia hôn nhân của ngƣời Việt thành 3 giai đoạn:
1945 - 1959; 1960 - 1985 và 1986 - 2013, với sự vận hành và biến đổi của 5
tiêu chí là: tuổi kết hôn, phạm vi không gian kết hôn, tiêu chuẩn lựa chọn ngƣời
bạn đời, quyền quyết định hôn nhân và nghi thức hôn lễ.
Riêng ở nghi thức hôn lễ, trong luận án của cả hai tác giả đều cho thấy
trong bối cảnh CNH, HĐH đất nƣớc, các nghi thức hôn lễ ở Việt Nam đều
vận hành theo khuynh hƣớng vừa cởi mở, tiếp nhận cái mới, song cũng vừa
cố gắng giữ gìn, bảo lƣu các giá trị truyền thống của dân tộc. Cụ thể là, trong
các cuộc hôn nhân một mặt ngƣời ta ngày càng thực thi các nghi thức pháp lý,
đổi mới trang phục cô dâu chú rể, giảm bớt các lễ thức (từ lục lễ giảm dần chỉ
còn lễ ăn hỏi và lễ cƣới), đón dâu bằng ô tô, xe máy, quay phim, chụp ảnh,

làm đĩa DVD và album kỷ niệm, song mặt khác ngƣời ta cũng không quên
làm lễ gia tiên ở cả bên nam và bên nữ, trong việc hôn nhân dù do đôi trẻ
quyết định là chính, nhƣng bao giờ các con cũng tham khảo ý kiến của cha mẹ
và những ngƣời cao tuổi, v.v. và v.v…
Nhìn chung, việc điểm lại nghiên cứu về hôn nhân của các tác giả đi trƣớc,
cả ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới, đã đem lại cho tác giả luận văn này một
sự hiểu biết khá toàn diện và có hệ thống không chỉ về nội dung, mà còn cả về
phƣơng pháp và các cách tiếp cận nghiên cứu. Chúng tôi tự biết, nghi thức hôn
nhân của đồng bào Cờ Ho là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, dƣờng nhƣ chƣa

8


khai phá, trong khi đó bản thân tác giả luận văn vẫn còn ở giai đoạn học nghề.
Nhƣng bằng cách trang bị cho mình các tri thức và kinh nghiệm của những
ngƣời đi trƣớc, chúng tôi thêm tin tƣởng để đi vào nghiên cứu lĩnh vực còn khá
mới mẻ này, qua đó góp phần vào việc xây dựng gia đình và phát triển xã hội
bền vững trên mảnh đất Tây Nguyên yêu quí của chúng ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mô tả những biến đổi trong nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho trƣớc
và trong thời kỳ CNH - HĐH. Từ đó đề tài sẽ phân tích những sắc thái và giá
trị văn hóa xã hội của ngƣời Cờ Ho đƣợc chứa đựng và hiển thị trong các nghi
thức hôn lễ hiện nay.
- Việc nghiên cứu cũng giúp hiểu sâu, hiểu sát, hiểu đúng và toàn diện
hơn về nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc quy hoạch, ra nghị định, nghị quyết, chính sách phù hợp với thực tại
văn hóa, đời sống của đồng bào Cờ Ho, nhằm xây dựng gia đình và phát triển
xã hội một cách bền vững trong bối cảnh CNH, HĐH đất nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ:
- Thực hiện nghiên cứu hồi cố để có thể chỉ ra đƣợc những biến đổi trong
nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho hiện nay. Để thực hiện nghiên cứu này,
chúng tôi chọn năm 1986 để chia nghiên cứu ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn
từ 1985 trở về trƣớc, tức là giai đoạn trƣớc Đổi mới. Giai đoạn hai từ năm
1986 cho tới nay, tức là giai đoạn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Làm nhƣ vậy để có cơ sở so sánh và làm rõ hơn về những biến đổi
trong nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho thời kỳ thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
- Xây dựng cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận để nghiên cứu, trong đó

9


bao gồm: Định nghĩa các khái niệm làm việc (nhƣ nghi thức hôn lễ, đồng bào
Cơ Ho, CNH - HĐH); thao tác hóa khái niệm “Nghi thức hôn lễ”, lựa chọn
cách tiếp cận lý thuyết (tác giả dự kiến lựa chọn hai lý thuyết: Lý thuyết sự
lựa chọn hợp lý và lý thuyết sự tiếp biến văn hóa)
- Điều tra, khảo sát, xử lý số liệu và viết luận văn theo nội dung đã đƣợc
đƣa ra từ mục tiêu nghiên cứu.
- Phân tích, bình luận và đánh giá các vấn đề đƣợc đặt ra trong quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu xem ảnh hƣởng của CNH - HĐH tới nghi thức hôn lễ
của đồng bào Cờ Ho và những định hƣớng giải quyết.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự vận hành và biến đổi nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho tỉnh Lâm
Đồng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Là các hộ ngƣời Cờ Ho(Vì ngƣời Cờ Ho có năm nhóm nên trong nghiên
cứu này chúng tôi chỉ đi sau vào nghiên cứu nhóm Cờ Ho-Cil) hiện đang sinh

sống trên địa bàn xã Mê Linh -Lâm Hà - Lâm Đồng. Trong đó chú ý đến
những ngƣời đã lập gia đình, những ngƣời đã kết hôn trƣớc và sau năm 1986,
những ngƣời có hiểu biết về hôn nhân
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Phạm vi không gian
Là xã Mê Linh - huyện Lâm Hà - tỉnh Lâm Đồng. Tác giả chọn Mê Linh
làm địa bàn nghiên cứu vì các lý do sau:
Mê Linh là xã có nhiều ngƣời Cờ Ho sinh sống, trong xã có chín thôn
nhƣng có bốn thôn bản là ngƣời Cờ Ho sinh sống. Vì vậy nó có thể đại diện
cho ngƣời Cờ Ho ở những nơi khác.
Do nguồn lực còn hạn chế đối với một học viên cao học, chính vì vậy tác

10


giả chọn xã Mê Linh là nơi tác giả sinh sống để thực hiện đề tài, nhằm giảm
chi phí nhờ tích tũy đƣợc sự hiểu biết cũng nhƣ nhờ mối quan hệ với ngƣời
dân và đội ngũ những nhà lãnh đạo ở địa phƣơng sẽ giúp ích rất nhiều cho tác
giả thực hiện đề tài này.
4.3.2. Phạm vi thời gian
Thời gian nghiên cứu là một năm, từ khi tác giả nhận đƣợc quyết định
giao đề tài cho tới khi hoàn thành luận văn. Còn thời gian tìm hiểu về nghi
thức hôn lễ ngƣời Cờ Ho đƣợc mở rộng thêm khoảng 9 – 10 năm trƣớc đó.
4.3.3. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Nghi thức hôn lễ bao gồm nhiều nghi tiết, trong nghiên cứu này chúng tôi
chỉ tập trung vào những nghi tiết quan trọng nhất, chẳng hạn: lễ ăn hỏi; lễ gia
tiên bên chồng, bên vợ; lễ cƣới bên chồng, bên vợ; tiệc cƣới; quà cƣới; lễ lại mặt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho trong bối cảnh CNH - HĐH hiện nay đang

diễn ra nhƣ thế nào? Tần suất và cƣờng độ của các nghi tiết đƣợc thể hiện ra sao?
Quá trình CNH - HĐH hiện nay có ảnh hƣởng nhƣ thế nào tới việc thực
hành nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho xã Mê Linh hay không?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Từ những câu hỏi nghiên cứu nêu trên chúng tôi đƣa ra giả thuyết nghiên
cứu nhƣ sau:
Giả thuyết thứ nhất: Nội dung hôn lễ của đồng bào Cờ Ho hiện nay về nội
dung nhìn chung vẫn còn chứa đựng những nghi thức truyền thống cốt lõi
trƣớc đây, nhƣng về hình thức và cách thức thực hiện đã có nhiều biến đổi.
Một số hủ tục lạc hậu đƣợc loại bỏ, thay vào đó là những yếu tố mang tính
hiện đại hơn. Có thể nói đó là sự hội nhập giữa nghi thức cƣới của đồng bào
Cờ Ho và dân tộc Kinh.

11


Giả thuyết thứ hai: Quá trình CNH - HĐH diễn ra làm biến đổi nhiều mặt
của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ
Ho. Những yếu nhƣ kinh tế, chính sách của nhà nƣớc, thƣơng mại và dịch vụ,
cơ sở hạ tầng giao thông, truyền thông - thông tin có tác động một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đến sự biến đổi trong việc thực hành nghi thức hôn lễ. Tuy
nhiên những biến đổi này không làm mất đi toàn bộ bản sắc văn hóa mà đó
chỉ là sự giao lƣu và tiếp biến trong việc thực hành nghi thức hôn lễ của đồng
bào Cơ Ho đáp với dân tộc khác cùng sinh sống trên đại bàn. Trong đó có
những tập tục không hề bị ảnh hƣởng bởi quá trình CNH - HĐH nhƣ tập tục
mai mối, lễ vật, chuỗi hạt cƣờm, v.v…
5.3. Lƣợc đồ phân tích

Bối cảnh KT – XH:
- Công nghiệp hóa

- Hiện đại hóa
- Nền kinh tế thị
trƣờng
- Mở cửa, hội nhập
- Chính sách văn hóa
của Đảng và Nhà nƣớc
- Phong tục văn hóa
cổ truyền

Nghi thức
hôn lễ
của ngƣời
Cờ Ho

Xu hướng biến đổi:
- Tiếp thu cái mới
- Bảo tồn bản sắc
- Những biểu hiện
tích cực
- Những biểu hiện
tiêu cực
- Vấn đề đặt ra

Chú thích:
Chiều tác động của bối cảnh kinh tế - xã hội
Chiều tác động của sự biến đổi và vấn đề đặt ra.

12



5.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài là một cuộc khảo cứu thực nghiệm xã hội học, vì vậy chúng tôi
chọn một số phƣơng pháp nghiên cứu chuyên nghành đã đƣợc đào tạo để áp
dụng trong đề tài, cụ thể nhƣ sau.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin, tư liệu sẵn có: Phƣơng pháp này
xuất phát từ việc tìm đọc và chắt lọc các tƣ liệu thông qua sách báo, internet,
tạp chí, các báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc,
các thống kê, báo cáo tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của địa bàn nghiên cứu.
Các tƣ liệu này đƣợc chúng tôi tổng thuật. lƣợc thuật theo các chủ đề
thông qua phần tổng quan tài liệu để thấy rõ những mặt mạnh, mặt yếu của
các nghiên cứu trƣớc, đồng thời nắm bắt đƣợc những phƣơng pháp mà các tác
giả khác đã sử dụng để rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình triển
khai nghiên cứu trên thực địa. Từ đó có một cái nhìn tổng quát và toàn diện
cho quá trình nghiên cứu của mình.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi: Chúng tôi sử dụng 120
bảng hỏi, trong đó 60 bảng hỏi cho những ngƣời đã kết hôn trƣớc năm 1986
và 60 bảng hỏi cho những ngƣời kết hôn sau năm 1986.
Số liệu thu về đƣợc chúng tôi sẽ đƣợc xử lý bằng chƣơng trình xử lý số
liệu SPSS.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu 20
trƣờng hợp, bao gồm cán bộ lãnh đạo và ngƣời dân về hôn lễ của ngƣời Cờ
Ho dƣới tác động của sự thay đổi cảnh quan môi trƣờng địa lý, sự tác động
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình, cũng nhƣ những đặc điểm về tâm lý, văn hóa và lối sống cổ truyền của
các cƣ dân trên địa bàn khảo sát, v.v…

13



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ khái niệm nghi thức hôn lễ, cụ thể ở đây là
nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho, cũng nhƣ những biến đổi trong nghi
thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa
hiện nay. Việc sử dụng các lý thuyết xã hội học cũng góp phần làm sáng tỏ
tính phổ biến của các lý thuyết này trong đời sống thực tiễn xã hội Việt Nam,
nhất là xã hội của các tộc ngƣời ở Tây Nguyên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp các luận cứ khoa học cho những nhà
làm văn hóa trên địa bàn hoạch định chính sách để lƣu giữ và phát huy những
nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào Cờ ho. Ngoài ra nghiên cứu cũng
là tƣ liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cũng nhƣ tất cả những ai quan
tâm tới nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ ho hiện nay.
6.3. Những hạn chế của đề tài
Do bị hạn chế về dung lƣợng mẫu, về phạm vi nghiên cứu, cũng nhƣ hạn
chế về nguồn lực, nên không thể đề cập đến tất cả những vấn đề liên quan đến
nghi thức hôn lễ của đồng bào Cờ Ho xã Mê Linh trong bối cảnh CNH –
HĐH hiện nay. Để làm đƣợc điều đó cần những nghiên cứu với quy mô lớn
hơn. Nghi thức hôn lễ chỉ đo lƣờng trong những năm gần đây, nên cũng chỉ
đƣa ra một phần nào đó về sự biến đổi của nghi thức hôn lễ, chứ chƣa thực sự
đạt đƣợc những điều mà tác giả mong muốn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn đƣợc chia thành 2
chƣơng với các nội dung có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Chƣơng 1 tập trung
vào việc xây dựng cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận và thực tiễn vấn đề
nghiên cứu, trong đó có việc làm rõ các khái niệm có liên quan; thao tác hóa

14



khái niệm làm việc, cách tiếp cận lý thuyết của đề tài và giới thiệu về địa bàn
nghiên cứu, trong đó nhấn mạnh đến truyền thống văn hóa của ngƣời Cờ Ho.
Chƣơng 2 dành cho việc mô tả và phân tích sự vận hành và biến đổi nghi thức
hôn lễ của ngƣời Cờ Ho dƣới tác động của tiến trình CNH, HĐH hiện nay của
đất nƣớc.

15


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm làm việc của đề tài
1.1.1. Nghi thức hôn lễ
Có thể định nghĩa nghi thức hôn lễ là các khuôn mẫu ứng xử đƣợc lập đi
lập lại và cử hành vào một thời điểm thích hợp trong hôn nhân để chính thức
công nhận hai ngƣời đã là vợ chồng. Mỗi một quốc gia đều có quy định về
nghi thức kết hôn khác nhau, có quốc gia theo nghi thức pháp lý, có quốc gia
theo nghi thức phong tục, có quốc gia thực hiện cả hai nghi thức trên. Ở nƣớc
ta trong việc hôn nhân ngƣời ta thƣờng thực hành đồng thời cả hai loại nghi
thức đó là nghi thức pháp lý và nghi thức phong tục. Sự khác nhau giữa hai
nghi thức này đƣợc biểu hiện nhƣ sau:
Trƣớc hết, hãy nói về nghi thức pháp lý. Nghi thức này thƣờng rất đơn
giản, ngƣời ta chỉ cần đến cơ quan hành chính cơ sở khai báo các điều kiện về
chế tài hôn nhân nhƣ tuổi đời, tình trạng hôn nhân, các điều kiện kinh tế - xã
hội theo quy định, sau đó chính quyền công nhận bằng cách cấp cho họ giấy
đăng ký kết hôn, là đủ. Nhà nghiên cứu Đoàn Văn Chúc cho biết, về điều kiện
hôn nhân của nam giới, sách Lễ ký của Trung Quốc có viết: “Ngƣời ta 20 tuổi
còn yếu nhƣợc, đến tuổi ấy thì làm lễ đội mũ; đến 30 tuổi thì mạnh mẽ, có gia
thất”. Còn với nữ giới: “Con gái đến 15 tuổi làm lễ cài trâm và 20 tuổi thì lấy

chồng”. Ở Việt Nam, sách Thiên nam dư hạ tập, dƣới tiêu đề Hồng Đức hôn
giá lễ nghi (thời nhà Lê) cũng quy định về lễ nghị hôn (tức lễ ăn dạm) nhƣ
sau: “Con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi trở lên, mới có thể đƣợc thành
hôn; ngoài ra hai bên trai gái và ngƣời chủ hôn (cha mẹ hay trƣởng tộc) phải
không có tang từ một năm trở lên” (Đoàn Văn Chúc, 1997: 181).
Nhƣ vậy, trong thực tế, nghi thức pháp lý trong hôn lễ đã tồn tại từ lâu trong
lịch sử. Đến thời hiện đại, trong Luật HN - GĐ của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng

16


hòa (1960) và tiếp đó, lần lƣợt vào các năm 1986 và 2000, trong các bộ luật của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các nghi thức hôn nhân cũng đƣợc
chuẩn hóa qua hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc. Chẳng hạn, về thủ tục kết hôn,
Điều 8 của Luật HN - GĐ viết: “Việc hôn nhân do UBND xã, phƣờng, thị trấn
nơi thƣờng trú của một trong hai ngƣời kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn
theo nghi thức do Nhà nƣớc quy định (…). Mọi nghi thức kết hôn khác đều
không có giá trị pháp lý” (Luật HN - GĐ, 1986). Nhƣ vậy, chỉ cần thực thi các
nghi thức kết hôn theo luật định là việc thành hôn đã có hiệu lực, không cần đến
bất kỳ một thủ tục hay nghi thức nào khác nữa. Tuy nhiên, trong đời sống hiện
thực, bên cạnh các nghi thức pháp lý thì ngƣời dân, dù thuộc bất kỳ nhóm xã hội
nào, vẫn không quên thực thi các nghi thức phong tục.
Vậy nghi thức phong tục là gì? Ở nƣớc ta, hai tác giả là Phan Kế Bính trong
Việt Nam phong tục và Toan Ánh trong Nếp cũ đã mô tả chi tiết hàng loạt các
nghi thức hôn nhân theo phong tục của các thời kỳ phong kiến trƣớc đây. Chẳng
hạn, các lễ nghị hôn (lễ ăn dạm), vấn danh (ăn hỏi), thân nghênh (đón dâu), các
tục nộp cheo cho làng, tục lan nhai (căng dây cản đƣờng), mừng cƣới, rồi việc
lạy sống ông bà, bố mẹ hai bên, lễ tơ hồng tạ ơn nguyệt lão xe duyên, v.v… Đến
thời kỳ đƣơng đại, ngƣời ta còn bổ sung thêm nhiều phong tục mới nữa - nhƣ
sau ngày cƣới đôi trẻ đi thắp hƣơng ở nghĩa trang liệt sỹ, viếng lăng Chủ tịch Hồ

Chí Minh, trồng cây lƣu niệm ở địa phƣơng, v.v…
Có điều cần lƣu ý là, trong thực tế có những nghi thức hôn lễ đƣợc các thế
hệ nối tiếp nhau coi là phong tục cổ truyền, song kỳ thật, ở một thời điểm nào
đó, chúng vốn là những điều luật của nhà nƣớc. Chẳng hạn, trong sách Hồng
Đức thiện chính thư thời Lê, lễ vật dẫn cƣới đã đƣợc quy định rất cụ thể nhƣ
tiền bao nhiêu quan, lụa mầu mấy tấm, rƣợu mấy vò, bao nhiêu mâm cau tƣơi,
trầu lá, v.v… Những điều luật này lúc đầu mang tính bắt buộc, song do đƣợc
thực thi lâu ngày nên dần dần chúng đã trở thành những chuẩn mực chung của

17


cộng đồng, đƣợc ngƣời dân thực thi một cách tự nguyện và trở thành phong
tục. Thuật ngữ “nghi thức hôn lễ” mà chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này
đƣợc hiểu theo nghĩa đó.
Tóm lại, trong hôn nhân, nếu nghi thức pháp lý là một hệ thống thể chế
chung, phản ánh mối quan hệ giữa công dân với nhà nƣớc hay giữa công dân
với công dân, thì các nghi thức phong tục là hệ thống thể chế quy định cách
ứng xử của các vai trò xã hội trong hoạt động sinh tồn đƣợc lặp đi lặp lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác, ở mỗi nhóm hay mỗi cộng đồng ngƣời. Thực
chất đây cũng là một thứ luật, dẫu là bất thành văn, nhằm bổ sung cho luật
pháp của Nhà nƣớc. Đối với việc cƣới hỏi ở cộng đồng, dù đã có sự đảm bảo
đầy đủ về pháp lý, nhƣng nếu chƣa thực thi các nghi thức phong tục, thì trong
thâm tâm ngƣời ta vẫn cảm thấy có gì đó chƣa ổn, dƣờng nhƣ việc kết hôn
vẫn chƣa đƣợc hoàn tất. Trạng thái tâm lý này không chỉ có ở cô dâu chú rể
hay họ hàng hai bên, mà còn ở tất cả bà con lối xóm, nơi đôi tân lang và tân
nƣơng đang sống.
Đây cũng chính là lý do để chúng tôi lựa chọn các nghi thức hôn lễ theo
phong tục cổ truyền làm đối tƣợng của nghiên cứu này. Các thành tố cơ bản
của nghi thức hôn lễ sẽ đƣợc làm rõ ở phần thao tác hóa khái niệm.

1.1.2. Đồng bào Cờ Ho
Theo Đặng Nghiêm Vạn trong Dân tộc học đại cương: “Tộc ngƣời là một
tập hợp ngƣời ổn định dựa trên những mối quan hệ chung về địa vực cƣ trú,
tiếng nói, sinh hoạt kinh tế, các đặc điểm sinh hoạt - văn hóa, trên cơ sở
những mối liên hệ đó, mỗi tộc ngƣời có một ý thức về thành phần tộc ngƣời
và tên gọi riêng của mình” [Đặng Nghiêm Vạn, 1999: 20].
Còn theo Bùi Minh Đạo trong Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu
số Việt Nam thì “Tộc ngƣời là một tập đoàn ngƣời ổn định hoặc tƣơng đối ổn định,
đƣợc hình thành trong lịch sử dựa trên những mối liên hệ chung về ngôn ngữ, sinh

18


hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân tộc” [Dẫn theo Ngô Văn Lệ 2004:41]. Chúng
tôi nghĩ rằng dân tộc Cờ Ho cũng là một tập hợp ngƣời nhƣ vậy.
Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi “kơho”, là tộc danh để
chỉ một số nhóm địa phƣơng đƣợc xếp chung vào một dân tộc (tộc ngƣời)
trong thành phần 54 dân tộc ở Việt Nam. Ngoài Cờ Ho còn có một số cách
viết khác nhƣ Cơ ho, K’ ho, Ka Ho,… nhƣng tựu trung không có sự khác biệt
lớn, chỉ có cách giải thích về tên gọi là có nhiều ý kiến khác nhau.
Cho đến nay vẫn tồn tại hai thuyết giải thích ý nghĩa của dân tộc Cờ Ho.
Thuyết thứ nhất do hai học giả ngƣời Pháp là G.Brochet và J. Dournes
khởi xƣớng vào năm 1953, cho rằng tộc danh Cờ Ho là một từ do ngƣời
Chăm đặt ra lúc đầu “dùng để chỉ toàn bộ các sắc dân khác ngƣời Chăm, cƣ
trú ở miền núi, vùng cao, về sau chuyển sang chỉ sắc dân lớn nhất vùng, là tộc
ngƣời đang nói đến”. Tác giả trên cho rằng thuyết này đƣợc một số ấn phẩm
của Nha công tác miền thƣợng của chế độ Sài Gòn cũ tán đồng và cũng đƣợc
chia sẻ bởi tác giả Mạc Đƣờng trong quyển sách Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng.
Thuyết thứ hai do các tác giả Nguyễn Văn Diệu và Phan Ngọc Chiến
cũng đƣợc đƣa ra trong cuốn sách trên, cho rằng theo truyền thuyết của ngƣời

Xrê thì Cờ Ho vốn là tên ngƣời chủ nƣơng đầu tiên đã khai khẩn vùng đất của
nhóm Xrê, về sau trải qua một thời kỳ dài trong lịch sử từ tên ngƣời Cờ Ho
mới chuyển thành tộc danh. Thực ra trong vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Mạc
Đƣờng cũng chia sẻ ý kiến với các học giả ngƣời Pháp, nhƣng nội dung đƣa
ra có sự khác biệt với Bùi Minh Đạo đƣa ra ở trên. Mạc Đƣờng viết rằng:
“căn cứ trên những tài liệu điền dã dân tộc học từ những năm 50 của thế kỷ
này, các nhà nghiên cứu đã nhận định tộc danh Cờ Ho bắt nguồn từ một khái
niệm trong tiếng Chăm cổ có nghĩa tƣơng ứng là ngƣời ở “phía trên”, “ngƣời
miền núi”. Tộc danh Cờ Ho đƣợc đặc trƣng cho các nhóm dân tộc có chung
một ngôn ngữ ở vùng núi Lâm Viên, là một tộc danh có tính tập hợp cao

19


nhóm tộc ngƣời cùng ngôn ngữ trong một vùng địa lý dân cƣ cụ thể”…
Nhƣ vâỵ, nguồn gốc danh xƣng Cờ Ho đã rõ phần nào, nó bắt nguồn từ
cách gọi của ngƣời Chăm để chỉ những ngƣời thuộc ngữ hệ Môn-Khmer sống
gần với họ và không cùng ngôn ngữ với họ. Những tộc ngƣời đó không chỉ là
ngƣời Xrê, ngƣời Cil, ngƣời Lạch, Ngƣời Nộp( hiện nay đƣợc gộp chung và
tộc ngƣời Cờ Ho) mà cả ngƣời Mạ, ngƣời Mnông, ngƣời Xtiêng… cũng có
thể đƣợc ngƣời Chăm gọi là ngƣời Cơ Ho. Ngƣời Chăm gọi những tộc ngƣời
nói tiếng Môn - Khơmer là “Kơho”
1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo cuốn Từ điển chính trị, đƣợc biên soạn dƣới sự chỉ đạo của giáo sƣ
ngƣời Nga là B. N. Ponamarép thì công nghiệp hóa hóa là sự xây dựng và phát
triển nền đại công nghiệp hóa, trƣớc hết là những ngành sản xuất công cụ và tƣ
liệu sản xuất. Tuy nhiên, công nghiệp hóa hóa có sự khác nhau ở các nƣớc tƣ bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa, công nghiệp hóa
hóa tiến hành dựa vào sự bóc lột công nhân làm thuê và sự phá sản của nông dân
trong nƣớc, cũng nhƣ dựa vào sự cƣớp bóc nhân dân lao đọng của các nƣớc

khác, nhất là các nƣớc thuộc địa và còn dựa vào chiến tranh nữa. Trong khi đó,
công nghiệp hóa hóa xã hội chủ nghĩa là do sự cần thiết phải đảm bảo những tiền
đề vật chất để xây dựng chủ nghĩa xã hội, để làm cho năng suất lao động xã hội
phát triển không ngừng, để nâng cao không ngừng phúc lợi vật chất và trình độ
văn hóa của toàn dân (Từ điển chính trị, 1962: 135 - 136).
Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi
cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học - công nghệ. Do
đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của
nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút ra những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và từ thực tiễn công

20


×