Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế tác ĐỘNG của NHÀ nước TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN KINH tế hộ NÔNG dân lên sản XUẤT HÀNG hóa ở TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.31 KB, 204 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian vừa qua, dưới tác động của cơ chế quản lý kinh tế
mới sản xuất nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc. Kinh tế hộ
nông dân (KTHND) đang ngày càng giữ vai trò chính trong việc phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) nông thôn và là một trong những tiền đề quan
trọng đưa đất nước ta chuyển sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Quá
trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội (CNXH) ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới rất khác so với
các quan niệm và cách làm cũ trong quản lý nhà nước đối với KTHND.
Thái Nguyên là tỉnh miền núi, có nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau,
có đặc điểm riêng về lịch sử hình thành và quá trình vận động của KTHND, là
một trong những tỉnh có nhiều dân tộc của nước ta. Cùng với sự phát triển
chung của cả nước, sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên đã có bước
tiến bộ đáng kể, KTHND từng bước được khôi phục và đạt được những
thành tựu bước đầu trong quá trình chuyển lên sản xuất hàng hóa (SXHH).
Tuy nhiên, trong vấn đề này cũng đang đặt ra nhiều yêu cầu phức
tạp và cấp bách. Tình trạng kinh tế hộ manh mún, sản xuất mang tính tự
cấp, tự túc là phổ biến; nông dân thiếu kiến thức, thiếu vốn; kết cấu hạ tầng
vừa thiếu vừa lạc hậu, chính sách xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số
ở vùng cao, vùng sâu còn bất cập đang là những lực cản đối với việc phát
triển lên SXHH của KTHND ở nước ta cũng như tỉnh Thái Nguyên. Vai trò
của Nhà nước, chính quyền địa phương trong việc phát triển KTHND phải
tiếp tục đổi mới và cần được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống để tìm
ra những giải pháp thích hợp.


Với mong muốn góp phần nghiên cứu để tìm ra các lời giải nhằm


phát triển KTHND ở Thái Nguyên, tác giả chọn đề tài: "Tác động của Nhà
nước trong quá trình chuyển kinh tế hộ nông dân lên sản xuất hàng hóa
ở tỉnh Thái Nguyên" làm đề tài nghiên cứu và viết luận án tiến sĩ chuyên
ngành kinh tế, quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về KTHND, vai
trò, vị trí của KTHND đối với nền kinh tế và những yếu tố ảnh hưởng cũng
như xu hướng vận động của hình thức KTHND. Chính phủ nhiều nước trên
thế giới đã đề ra chính sách phù hợp, tạo môi trường cho KTHND phát
triển nhằm tạo tiền đề cho CNH, HĐH đất nước.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học trên thế giới nhất là ở các nước đang
phát triển đã và đang tiếp tục nghiên cứu về KTHND trong nông nghiệp,
nông thôn. Ở nước ta, trong những năm gần đây có nhiều tác giả nghiên
cứu và đã có công trình được công bố dưới hình thức in sách, đăng trên tạp
chí, báo như:
- Tập thể các tác giả: "Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản
xuất hàng hóa", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1993.
- PTS Nguyễn Hữu Đạt: "Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông
dân phát triển kinh tế hộ gia đình", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- PTS Chu Văn Vũ (chủ biên): "Kinh tế hộ trong nông thôn Việt
Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
- PTS Nguyễn Xuân Nguyên (chủ biên): "Khuynh hướng phân hóa
hộ nông dân trong phát triển sản xuất hàng hóa", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.
- GS,VS Đào Thế Tuấn: "Kinh tế hộ gia đình nông dân", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.


- PTS Vũ Tuấn Anh và PTS Trần Thị Vân Anh: "Kinh tế hộ - Lịch
sử và triển vọng phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.

Nhiều luận văn thạc sĩ, luận án PTS, tiến sĩ nghiên cứu đề tài thuộc
lĩnh vực KTHND như: Luận án PTS Kinh tế của tác giả Vũ Văn Yên về
"Kinh tế hộ nông dân trong sự phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nước ta"
hoàn thành năm 1993; Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn
Chiển về "Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ trong kinh tế thị trường ở
đồng bằng sông Cửu Long" bảo vệ năm 2000.
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu ở các bộ, ngành và cấp
nhà nước về nông nghiệp, nông thôn và KTHND.
Các công trình nghiên cứu đã công bố đi sâu nghiên cứu về
KTHND ở nhiều vùng với các nội dung khác nhau. Nhưng, trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên, đề tài về tác động của Nhà nước đối với KTHND vẫn
đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu. Vì vậy, nghiên
cứu, làm rõ vai trò của Nhà nước đối với sự vận động và phát triển của
KTHND ở địa bàn một tỉnh miền núi như Thái Nguyên nhằm tìm ra giải
pháp thích hợp của Nhà nước để tác động phát triển KTHND lên SXHH là
cần thiết và có ích. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài: Tác động
của Nhà nước trong quá trình chuyển kinh tế hộ nông dân lên sản xuất hàng
hóa ở tỉnh Thái Nguyên, tác giả có tiếp thu, kế thừa các công trình khoa học
nêu trên và các công trình khoa học khác nhưng có nội dung độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: góp phần hệ thống hóa về lý luận vai trò và
tác động của Nhà nước đối với KTHND trong quá trình chuyển lên SXHH.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp đổi mới, hoàn
thiện các chính sách, biện pháp tác động của Nhà nước nhằm phát triển
KTHND ở tỉnh Thái Nguyên theo hướng SXHH.


Nhiệm vụ của luận án:
- Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề mới của lý luận về vai trò
của các hộ nông dân (gọi tắt là nông hộ) trong lĩnh vực nông nghiệp, nền

kinh tế quốc dân và vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển KTHND.
- Phân tích thực trạng và quá trình phát triển KTHND của tỉnh
Thái Nguyên.
- Phân tích những tác động của Nhà nước và chính quyền địa
phương trong quá trình phát triển KTHND ở tỉnh Thái Nguyên.
- Trên cơ sở những phân tích trên, tác giả đề xuất phương hướng,
giải pháp trên góc độ tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước nhằm tác
động, hỗ trợ KTHND ở Thái Nguyên phát triển lên SXHH.
4. Giới hạn của luận án
Do nhiều lý do như: tháng 1-1997, Quốc hội quyết định chia tách
tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn; năng lực nghiên
cứu, điều kiện công tác còn hạn chế, vì vậy tác giả luận án xin phép nghiên
cứu đề tài trong giới hạn: Tác động của nhà nước trong quá trình chuyển
kinh tế hộ nông dân lên sản xuất hàng hóa ở tỉnh Thái Nguyên.
Về thời gian: Tác giả luận án khảo sát, nghiên cứu sự vận động,
phát triển của KTHND của tỉnh Thái Nguyên chủ yếu trong giai đoạn đổi
mới, từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị tới nay, vì đây là khoảng
thời gian Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách làm cho KTHND được
thừa nhận và phát triển; để làm rõ những vấn đề KTHND hiện nay ở Thái
Nguyên tác giả có đề cập đến những giai đoạn trước để so sánh và làm đối
chứng.
Về định hướng hoàn thiện tác động của Nhà nước đối với KTHND
ở tỉnh Thái Nguyên, thời gian chủ yếu xem xét đến năm 2010, phù hợp với


định hướng chiến lược và chính sách phát triển KT-XH của nước ta và
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI (năm 2000).
Về không gian: Tác giả luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu
KTHND và vai trò của Nhà nước ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên; để làm rõ
KTHND của tỉnh, tác giả có tham khảo và đề cập đến KTHND trong khu

vực và một số nội dung trên phạm vi toàn quốc.
Về vấn đề nghiên cứu: Chủ đề của luận án chỉ nghiên cứu vai trò và
tác động của Nhà nước đối với sự phát triển của KTHND lên SXHH trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong tổng thể quá trình chuyển sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước
ta.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Luận án được tác giả trình bày trên cơ sở của lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết và
các chủ trương, chính sách của Nhà nước; đồng thời tác giả tham khảo lý
luận về KTHND và vai trò quản lý của Nhà nước đối với KTHND của một
số nhà khoa học trong nước và quốc tế.
Tư liệu dùng nghiên cứu bao gồm: Những công trình nghiên cứu
của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến KTHND và vai
trò của Nhà nước đối với kinh tế và KTHND. Các báo cáo và niên giám
thống kê của Chính phủ, các bộ, ngành, liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Các báo cáo và tổng kết thực tiễn của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân
(HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) và các sở, ban, ngành thuộc tỉnh Thái
Nguyên.


Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận trong tiếp cận các vấn
đề nghiên cứu là vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, kiến thức khoa học kinh tế hiện
đại, kinh nghiệm thực tiễn. Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng
trong quá trình nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, trừu tượng hóa, kết hợp
lôgíc và lịch sử, thống kê, tổng kết thực tiễn, đối chiếu so sánh để làm sáng
tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.

6. Đóng góp mới về khoa học của tác giả luận án
- Hệ thống hóa các quan điểm của các nhà khoa học về vị trí của
nông hộ và KTHND trong quá trình phát triển KT-XH, vai trò của Nhà
nước đối với quá trình vận động, phát triển của KTHND.
- Phân tích, làm rõ thực trạng của KTHND và vai trò của Nhà nước,
chính quyền địa phương trong quá trình vận động phát triển của KTHND ở
tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất những giải pháp trong chính sách vĩ mô của Nhà nước và
các giải pháp của chính quyền địa phương có tính khả thi nhằm đẩy mạnh
phát triển KTHND theo hướng SXHH.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Phần mở đầu, ba chương, bảy tiết (mục), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN

1.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nói chung và KTHND nói riêng đã xuất hiện rất sớm
trong lịch sử và tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất, nhiều chế độ xã
hội. Tuy nhiên, các khái niệm "gia đình", "hộ", "kinh tế hộ gia đình", vẫn
còn những cách hiểu khác nhau. Việc xác định đúng ranh giới của những
khái niệm này sẽ là điều kiện để phân định phạm vi, nội dung nghiên cứu
và cách tiếp cận vấn đề. Gia đình với tư cách là tế bào của xã hội đã tồn tại
rất sớm trong lịch sử. Cơ sở của gia đình là các mối quan hệ hôn nhân,

huyết thống và thân tộc. Hộ là một khái niệm đã tồn tại từ lâu và cũng được
coi là một tế bào của xã hội nhưng không phải bao giờ cũng trùng khớp với
gia đình. Khái niệm hộ thường tồn tại trong hệ thống hành chính - pháp lý,
dùng để chỉ những người cùng sống chung dưới một mái nhà, có kinh tế
chung. Người ta thường đưa ra ba tiêu thức để phân biệt hộ và gia đình: 1Quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc. 2- Cư trú chung. 3- Có chung
cơ sở kinh tế. Khái niệm gia đình được dựa trên tiêu thức thứ nhất, hai tiêu
thức sau không bắt buộc phải có vì các thành viên trong gia đình khi đã
trưởng thành có thể sinh sống ở nhiều địa điểm khác nhau và họ thành lập
những gia đình mới độc lập về kinh tế nhưng vẫn được coi là người trong
một gia đình. Khái niệm hộ có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho
rằng hộ bao gồm những người cùng sống dưới một mái nhà. Khái niệm này
thường được dùng trong quản lý nhân khẩu. Một số người khác lại cho


rằng, hộ là một đơn vị gồm những người sống chung và ăn chung. Tổng
cục Thống kê đã đưa ra khái niệm hộ làm căn cứ tiến hành cuộc tổng điều
tra dân số năm 1989 như sau: "Hộ gồm những người có quan hệ hôn nhân
hoặc ruột thịt, hoặc nuôi dưỡng, có quỹ thu chi chung và cùng chung sống
lâu dài" [2, tr. 17]. Đồng thời còn đưa ra khái niệm "hộ tập thể" gồm những
thành viên cùng làm việc ở một cơ quan, sống xa gia đình hoặc sống độc
thân, không có quỹ thu chi chung. Viện Kinh tế học thuộc Trung tâm Khoa
học xã hội và Nhân văn Quốc gia đã đưa ra bốn tiêu chí của một hộ là: 1Hộ là một nhóm người cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc. 2- Họ
cùng sống chung hay không cùng sống chung một mái nhà. 3- Có chung
một nguồn thu nhập và ăn chung. 4- Cùng tiến hành sản xuất chung [83, tr.
11]. Như vậy có thể nói vẫn còn những cách hiểu khác nhau về hộ. Thực tế
cho thấy khái niệm hộ có những đặc điểm thay đổi theo thời gian. Khi trình
độ phát triển của xã hội còn thấp, gia đình với kinh tế tự túc, tự cấp là nhân
tố cơ bản tạo nên hộ, việc cùng sống chung một mái nhà, cùng làm chung,
ăn chung là tất yếu. Khi xã hội đã phát triển, các thành viên của hộ có thể
không làm chung, ăn chung nữa nhưng vẫn cùng sống chung và chỉ góp

một phần thu nhập vào hoạt động chung của hộ. Xã hội càng phát triển,
tính độc lập của mỗi thành viên trong hộ càng cao, cho nên tiêu thức cơ bản
nhất để xác định hộ là sự cư trú chung.
Ở Việt Nam có tới 54 dân tộc cư trú đan xen với nhau và có sự khác
nhau giữa hộ ở một số dân tộc hoặc nhóm dân tộc. Người Kinh chiếm 80%
dân cư, sống chủ yếu ở vùng đồng bằng, ven biển, trung du với mô hình gia
đình truyền thống gồm ba thế hệ: ông bà, vợ chồng và con cái. Khi con cái
trưởng thành, lập gia đình thì tùy theo điều kiện và khả năng kinh tế mà có
thể tách ra ở riêng thành một hộ độc lập. Hầu hết các hộ người Kinh đều
chỉ gồm những người cùng huyết thống, có quan hệ thân tộc. Vì vậy, trong
lịch sử khái niệm hộ ở Việt Nam thường được hiểu đồng nghĩa với gia


đình, bao gồm những người trong gia đình cùng ăn chung, ở chung, cùng
góp chung những nguồn thu nhập và chi tiêu chung. Tuy nhiên, trường hợp
những gia đình giàu có trước đây có nuôi người làm công, những người
này cùng ăn, ở trong nhà chủ có khi suốt đời, thậm chí sang cả đời con
cháu họ, về thực chất họ là những nô lệ của gia đình giàu có. Ngoài ra ở
một số hộ làm nghề thủ công có nuôi thợ học việc, trong một chừng mực
nhất định họ có kinh tế riêng, nhưng về cơ bản vẫn phụ thuộc vào "nồi cơm
chung" của nhà chủ. Trong quan niệm dân gian thì tất cả những người cùng
ở chung, ăn chung như vậy đều là người trong một nhà, đều là thành viên
của gia đình. Một số dân tộc sống ở miền núi phía Bắc như Thái, Mường,
Mông... quan hệ gia đình, dòng họ có những sắc thái riêng. Dòng họ là một
thiết chế xã hội nhưng lại có vai trò quyết định về kinh tế như: Đất đai
thuộc sở hữu của dòng họ, trưởng họ đứng tên và phân chia cho các hộ
trong dòng họ, các hộ có quyền sử dụng nhưng không có quyền sở hữu đất
đai, kinh tế gia đình phụ thuộc dòng họ... Một số dân tộc sống ở Tây
Nguyên còn tồn dư chế độ mẫu hệ, hộ được hình thành theo huyết thống
lấy theo người phụ nữ cho nên khái niệm gia đình và hộ cũng có những

điểm khác biệt. Gia đình mẫu hệ ở Tây Nguyên mang đậm nét của phương
thức tổ chức KT-XH theo dạng công xã nguyên thủy. Tuy nhiên, những
trường hợp trên chỉ là cá biệt, về cơ bản hộ ở Việt Nam được hiểu là một
đơn vị mà trong đó các thành viên "ở chung, làm chung, ăn chung". Do sự
gắn bó và gần như đồng nhất giữa hộ và gia đình ở Việt Nam, nên khái
niệm hộ thường được dùng theo khái niệm kép "hộ - gia đình".

Kinh tế hộ gia đình cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhà nông
học A.V.Traianốp đã nói "Khái niệm hộ, đặc biệt trong đời sống nông
thôn không phải bao giờ cũng tương đương với khái niệm sinh học làm
chỗ dựa cho nó, mà nội dung còn có cả một loạt những phức tạp về đời
sống kinh tế và đời sống gia đình" [60]. Hộ và gia đình có những tiêu


thức chung để nghiên cứu như cơ sở kinh tế, quan hệ huyết thống và hôn
nhân, tình trạng cư trú. Song, gia đình được xem xét trong mối tương
quan về xã hội, còn hộ là những đơn vị kinh tế nhỏ trong nền kinh tế. Vì
vậy, gia đình được coi là hộ khi các thành viên của nó có chung một cơ
sở kinh tế. Ngược lại, hộ được coi là gia đình khi các thành viên của nó
có quan hệ huyết thống và hôn nhân. Khi nói kinh tế hộ gia đình thì đó là
khái niệm biểu thị các thành viên của nó có chung huyết tộc và quan hệ
hôn nhân và có chung một cơ sở kinh tế. Như vậy, kinh tế hộ gia đình
là mô hình kinh tế lấy gia đình làm đơn vị và tổ chức sản xuất kinh
doanh chủ yếu trên quy mô gia đình. Kinh tế hộ gia đình bao gồm
nhiều loại hình như KTHND, kinh tế hộ tiểu thủ công nghiệp, kinh tế hộ
thương mại v.v... Luận án tập trung vào nghiên cứu chủ yếu là KTHND.
Kinh tế hộ nông dân đã xuất hiện và tồn tại từ lâu, song đến nay vẫn còn
những cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng, KTHND là một
hình thức kinh tế phức tạp, xét từ các góc độ kinh tế - tổ chức, là sự kết
hợp những ngành, những công việc khác nhau trong quy mô hộ gia đình

nông dân. Có ý kiến cho rằng KTHND bao gồm toàn bộ các khâu của
quá trình tái sản xuất mở rộng: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Kinh tế hộ thể hiện ra thành các loại hộ hoạt động kinh tế trong nông
thôn như hộ nông nghiệp, hộ nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ, thương mại. Từ những phân tích trên, có thể nêu lên
quan niệm: Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp, dựa trên cơ sở sức lao động của gia đình là
chính và quyền sử dụng hoặc sở hữu lâu dài phần ruộng đất mà hộ
canh tác và các tư liệu sản xuất khác.
Trong các phương thức sản xuất trước tư bản chủ nghĩa (TBCN),
KTHND đồng nghĩa với kinh tế nông dân cá thể của nền sản xuất tiểu
nông. Nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế tiểu nông từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến đa dạng, C. Mác đã nhận xét về đặc điểm chung của nó: "Mỗi gia


đình nông dân (nông hộ) riêng lẻ, gần như tự túc hoàn toàn, tự mình sản
xuất ra đại bộ phận những cái mình tiêu dùng. Do đó họ kiếm cho mình
những tư liệu sản xuất bằng cách trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn là trao
đổi với xã hội" [41, tr. 207-208]. Ph.Ăngghen lại cho rằng tiểu nông là:
Người chủ ruộng đất hoặc người tá điền và nhất là người
chủ một mảnh ruộng không lớn hơn mảnh ruộng mà họ thường
có thể cày cấy với gia đình họ, cũng không bé hơn mảnh ruộng
cần thiết để nuôi gia đình họ. Cũng như người tiểu thủ công,
người tiểu nông này là người lao động, anh ta khác người vô sản
hiện đại ở chỗ anh ta sở hữu những tư liệu sản xuất [3, tr. 11].
Trong những xã hội dựa trên sản xuất nhỏ bảo thủ, trì trệ như xã hội
phong kiến thì KTHND bị kìm hãm, vai trò của nó cũng bị giới hạn trong
những bức tường tự cấp, tự túc đơn điệu. Nhưng về bản chất, bản thân
KTHND luôn năng động, có khả năng tiết kiệm, khai thác các tiềm năng
một cách có hiệu quả. Vì vậy, bước đi tất yếu và tự phát của hộ tự cấp, tự

túc là tiến lên hộ hàng hóa giản đơn mà biểu hiện trước tiên của nó là từng
bước đi vào chuyên môn hóa phát triển chăn nuôi, trồng trọt và ngành
nghề. Nghiên cứu lịch sử phát triển KTHND, có thể thấy nó đã trải qua các
hình thái cơ bản sau:
- Nhóm kinh tế hộ sinh tồn: Đây là dạng phát triển rất thấp của kinh
tế hộ. Họ sản xuất một vài nông sản chủ yếu để duy trì sự sống còn của gia
đình, còn lại phần chính là khai thác từ tự nhiên, họ có ít vốn, công cụ sản
xuất thô sơ, phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất lao động thấp. Hiện nay, ở
nước ta nhóm này vẫn còn tồn tại ở một số vùng dân tộc ít người, xa xôi,
hẻo lánh, các vùng núi cao biệt lập với xã hội. Thiếu lương thực, thực
phẩm, bệnh tật... là nỗi lo lắng thường xuyên của họ.
- Nhóm kinh tế hộ tự cấp, tự túc: Nhóm này gắn với nền nông nghiệp
sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán. Đặc điểm của nhóm này là sản xuất để tự


cung cấp lương thực, thực phẩm và một số loại nông sản cần thiết khác đáp
ứng yêu cầu tiêu dùng cho gia đình, ít tiếp xúc với thị trường. Trong quá
trình phát triển, nhóm hộ tự cấp, tự túc là bước phát triển cao hơn so với
nhóm hộ sinh tồn. Hiện nay ở nước ta nhóm hộ này đang tồn tại ở rất nhiều
nơi, đặc biệt là các tỉnh trung du, miền núi, với đặc điểm chung là bảo thủ,
chậm phát triển.
- Nhóm hộ sản xuất hàng hóa nhỏ: Trong quá trình phát triển sản xuất,
nông hộ luôn muốn sản xuất hướng ra ngoài, một bộ phận nông dân làm ăn
khá giả, ngoài phần tiêu dùng cho gia đình, còn để ra một ít sản phẩm đưa
ra thị trường. Khi sản xuất cung đã vượt cầu, họ đem những sản phẩm thừa
trao đổi trên thị trường và họ trở thành những hộ SXHH nhỏ. Nếu các yếu tố
khách quan và chủ quan thuận lợi như: ruộng đất nhiều, giá nông sản cao, thời
tiết thuận lợi, vốn nhiều, giao thông, tiêu thụ thuận lợi những hộ này có cơ hội
để trở thành những hộ SXHH lớn. Ngược lại, nếu gặp rủi ro lại không có
một sự trợ giúp nào trong sản xuất, họ có thể trở lại nhóm hộ tự cấp, tự túc.


- Nhóm hộ sản xuất hàng hóa lớn: Như trên đã đề cập, nếu gặp
thuận lợi nhóm hộ SXHH nhỏ sẽ phát triển thành nhóm hộ SXHH lớn,
thành các trang trại gia đình. Đây là trình độ phát triển cao của KTHND,
song mỗi hộ vẫn độc lập, sử dụng chủ yếu lao động gia đình, thuê mướn
nhân công ít hoặc thuê lao động thời vụ.
Như vậy, sự vận động của kinh tế hộ nông dân đã trải qua các giai
đoạn từ thấp lên cao, từ sinh tồn đến tự cấp tự túc rồi tiến lên SXHH. Xu
thế tiến lên SXHH là xu thế tất yếu của phát triển kinh tế hộ. Nhưng dù ở
mức độ nào, KTHND cũng có những đặc điểm cơ bản sau:
- KTHND là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các thành viên
có mối quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế cũng như về huyết thống.
- Đất đai là yếu tố quan trọng nhất trong các tư liệu sản xuất
(TLSX) của nông hộ. Cuộc sống của họ gắn liền với ruộng đất. Giải quyết


mối quan hệ giữa nông dân và đất đai là giải quyết vấn đề cơ bản của
KTHND.
- KTHND chủ yếu sử dụng lao động gia đình, việc thuê mướn lao
động mang tính chất thời vụ, không thường xuyên hoặc là thuê mướn chỉ là
để đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình.
- Sản xuất của nông hộ là tập hợp các mục đích kinh tế của các
thành viên, các nhóm thành viên trong gia đình, thường nằm trong một hệ
thống sản xuất lớn hơn của cộng đồng. KTHND là tế bào kinh tế của sản
xuất nông nghiệp, KTHND tất yếu có quan hệ với thị trường, song có thể ở
những mức độ cao thấp khác nhau, không gắn chặt với thị trường, nếu tách
họ ra khỏi thị trường họ vẫn tồn tại.

- KTHND vận động qua các giai đoạn từ thấp đến cao: từ sinh
tồn đến tự cấp, tự túc lên SXHH... Nhưng ngược lại nó cũng có thể tụt

hậu trở lại từ cao xuống thấp như từ hộ SXHH có thể thành hộ tự cấp tự
túc... Đây là một nét rất đặc thù trong phát triển KTHND.
Thực tế của sản xuất hiện nay vô cùng phong phú và vận động hết
sức mau lẹ, KTHND đang được nghiên cứu để định hướng phát triển, vấn
đề này sẽ còn gây nhiều tranh luận về mặt lý luận và thực tiễn ở nước ta.

1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ nông dân
1.1.2.1. Nhận thức về vai trò kinh tế hộ nông dân
Cơ sở kinh tế của KTHND là chế độ tư hữu nhỏ. Thủ tiêu chế độ tư
hữu là thủ tiêu KTHND và vai trò của nó. Những năm 50 của thế kỷ XIX,
người ta vẫn tưởng rằng, con đường phát triển nông nghiệp sẽ diễn ra như
trong công nghiệp. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp có hiệu quả
được xem là các điền trang theo kiểu TBCN, có thuê mướn công nhân.
Cũng như sau này, các nước đi lên CNXH cũng chủ trương đưa ngay nông


nghiệp lên sản xuất lớn dựa trên chế độ công hữu, bỏ qua hình thức KTHND.
Nghiên cứu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở nước Anh thế kỷ XIX một nước đã tiến hành cuộc cách mạng "đã dọn sạch" nông dân, địa chủ,
quý tộc khỏi mặt đất để nhanh chóng hình thành các điền trang đại kỹ nghệ
TBCN... C.Mác khi đó đã dự đoán rằng con đường phát triển của CNTB
trong nông nghiệp sẽ diễn ra cùng kiểu như sự phát triển CNTB trong công
nghiệp. Nhưng, thực tiễn ở một số nước TBCN và ở ngay nước Anh, nơi đã
biến họ thành người vô sản làm thuê trong các đồn điền trang trại kinh
doanh theo lối TBCN, đã không diễn ra như dự đoán ban đầu của C.Mác.
Các hình thức kinh tế hộ gia đình vẫn tồn tại và phát triển ngay bên cạnh
các xí nghiệp kinh doanh nông nghiệp theo phương thức TBCN. Nông hộ
không sử dụng lao động làm thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình vẫn tồn tại
phổ biến ở các nước TBCN và cung cấp đại bộ phận nông phẩm cho thị
trường với giá rẻ, có lãi hơn hẳn các đồn điền sử dụng lao động làm thuê
theo kiểu kinh doanh TBCN. Trước thực tế đó, C.Mác thấy cần phải nhận

thức lại vai trò của nông hộ mà dự đoán ban đầu của ông tỏ ra không thích
hợp. Vì vậy trong quyển III, bộ Tư bản, C.Mác đã viết:
Ngay cả nước Anh siêu công nghiệp... cho đến nay đã
khẳng định hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp
hóa mà là nông trại gia đình thực tế không sử dụng lao động làm
thuê. Ở những nước còn giữ hình thức tư hữu, chia đất thành
khoảnh nhỏ, giá lúa mì rẻ hơn ở những nước có phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa... [42, tr. 190-635].
C.Mác còn cho rằng nông nghiệp hợp lý mâu thuẫn với phương
thức kinh doanh TBCN.
Đến những thập niên cuối thế kỷ XIX, khi bàn về nông dân châu
Âu, C.Mác, Ph.Ăngghen đã đề cập đến "nông hộ châu Âu", coi đó là mầm


mống phát triển các quan hệ kinh tế tư bản và hai ông cũng cho rằng nhờ tự
do khai thác nguồn lao động gia đình mà hộ có sức sống bền vững. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển giữa các nông hộ có sự phân hóa làm xuất
hiện những người làm công và người thuê lao động...
Kế thừa và phát triển sâu sắc các quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, khi nghiên cứu CNTB ở nước Nga, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng:
"Không thể phát triển nông nghiệp nước Nga theo con đường "đại điền trang
kiểu Phổ" vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả mà phải là kiểu một chủ trại tự
do - nghĩa là mảnh đất được dọn sạch những tàn tích thời trung cổ. Đó là kiểu
Mỹ" [37, tr. 182]. Khi phân tích kết cấu xã hội nông dân nước Nga,
V.I.Lênin đã lưu ý rằng, hộ khai thác triệt để năng lực sản xuất để đáp ứng
những nhu cầu đa dạng của gia đình và xã hội. Dựa trên cơ sở tư liệu kinh tế
ở một số vùng, V.I.Lênin đã chứng minh, xu thế phát triển TBCN của nông
dân nước Nga và chỉ ra năng lực tự quyết định quá trình sản xuất của các
hộ trong nền kinh tế tự cung, tự cấp là mầm mống của những chiều hướng
phát triển sản xuất hàng hóa khác nhau. Chính nó sẽ tự phá vỡ các quan hệ

kinh tế khép kín của hộ dẫn đến phá vỡ kết cấu kinh tế công xã nông thôn.
Song, nếu để tự nó sẽ là quá trình lâu dài, do vậy cần phải có sự tác động từ
bên ngoài. Trong những năm đầu của chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã
phác thảo những định hướng về cải tạo, phát triển sản xuất nông nghiệp ở
nước Nga Xô viết. V.I.Lênin rất coi trọng KTHND thể hiện trong "Cương
lĩnh ruộng đất" (lần thứ 2) "Bàn về chế độ hợp tác" đặc biệt là trong "Chính
sách kinh tế mới". Tuy nhiên, để đi đến những nhận thức khoa học đó, bản
thân Người đã từng trải qua thử nghiệm không thành công trong thời kỳ
"chính sách cộng sản thời chiến" với chủ trương nhanh chóng xóa bỏ hoàn
toàn KTHND để tiến thẳng lên sản xuất lớn XHCN. Chính sách đó đã làm
cho tình hình KT-XH trở nên rối ren, bi đát. Sản lượng nông nghiệp chỉ
bằng 50% trước chiến tranh, nông sản hàng hóa giảm 2,5 lần, khả năng


cung cấp nguyên vật liệu, việc ứng dụng các thành tựu khoa học mới vào
sản xuất của các tổ chức kinh tế rất chậm trễ, kém hiệu quả. Nhận thức
được thực trạng đó, V.I. Lênin khẳng định không thể một sớm một chiều có
thể nhanh chóng cải tạo nền nông nghiệp sản xuất nhỏ tiến thẳng lên
CNXH bằng con đường xã hội hóa trực tiếp, bằng lối "đánh trực diện" mà
phải bằng những bước đi trung gian, quá độ, gián tiếp, phù hợp với nông
dân, nông thôn, nông nghiệp nước Nga. Người chỉ rõ: "Chúng ta có nhiệm
vụ phải làm tất cả những gì có thể làm được cho việc khuyến khích nền sản
xuất tiểu nông" [38, tr. 424]. Trên cơ sở nhận thức đúng sự tồn tại và vai
trò của KTHND trong việc ổn định và phát triển KT-XH, V.I.Lênin cho
rằng "chưa nên xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội" mà cần phải chuyển
sang chính sách kinh tế mới. V.I.Lênin đã viết: "Chúng ta đang sửa chữa cả
một chuỗi những sai lầm của chúng ta, chúng ta đang học tập xem nên tiếp tục
công cuộc xây dựng cái tòa nhà xã hội chủ nghĩa trong một nước tiểu nông
như thế nào mà không phạm những sai lầm ấy nữa" [39, tr. 188]. V.I.Lênin
nghiêm khắc phê phán việc cưỡng bức nông dân vào hợp tác xã (HTX),

xóa bỏ triệt để tư hữu nhỏ bất chấp hiệu quả và nguyện vọng của nông dân.
Người rất coi trọng lời căn dặn của Ph.Ăngghen: Cần phải để cho nông dân
suy nghĩ trên mảnh đất của mình.... phải làm gương, giáo dục, thuyết phục
chứ không thể bằng tước đoạt và bạo lực. V.I.Lênin cho rằng, ý định dùng
sắc lệnh, luật lệ để thiết lập chế độ canh tác tập thể, tước mất vai trò
KTHND trong đời sống hiện thực là ngu xuẩn, ở đâu mà dùng bạo lực thì
có nghĩa là nguy hại đến toàn bộ sự nghiệp, điều cần phải làm là công tác
giáo dục lâu dài và không bao giờ được dùng mệnh lệnh [40, tr. 421-423].
Nhưng tiếc thay, những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về con đường cải tạo
nông dân, nông thôn, sau khi Người qua đời đã không được những người
kế tục thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Nhân danh CNXH, họ đã tiến
hành cải tạo nông nghiệp một cách nóng vội, chủ quan bằng con đường hợp


tác hóa (HTH) cưỡng bức, quá độ trực tiếp... điều mà lúc sinh thời V.I.
Lênin đã chứng minh là không thể được và phản đối quyết liệt. Chế độ
HTH trái với tinh thần của V.I.Lênin là một bước thụt lùi vì
vai trò của kinh tế hộ, thủ tiêu sản xuất hàng hóa trong

nó đã xóa bỏ

nông nghiệp, thực

hiện chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa... Thực tế ở Việt Nam, trong
thời kỳ HTX kiểu cũ, KTHND được quan niệm là "kinh tế phụ gia đình"
hay "kinh tế phụ xã viên". Nhưng chính kinh tế phụ chủ yếu trên đất 5% ấy
cũng đã chiếm 48% giá trị sản lượng nông nghiệp, 95% sản lượng chăn
nuôi, 93% sản lượng rau quả. Trong cơ cấu thu nhập, "kinh tế phụ gia đình"
chiếm từ 50%-60% tổng thu nhập của hộ. Như vậy, trong thời kỳ đó chính
KTHND (được gọi là kinh tế phụ gia đình) lại là cơ sở bảo đảm cho kinh tế

tập thể tồn tại [48, tr. 130].
Trong quá trình nghiên cứu, V.I.Lênin đã đánh giá cao nhà nông học
A.V.Traianốp khi ông coi "kinh tế nông dân là một phương thức sản xuất tồn
tại trong mọi chế độ xã hội, từ nô lệ qua phong kiến đến tư bản chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất này có những quy luật phát triển riêng của nó và trong
mỗi chế độ xã hội nó tìm cách thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành" [72, tr.
12]. Tư tưởng về KTHND của A.V.Traianốp được dư luận xã hội đánh giá
là "Các Mác của nông dân". A.V.Traianốp cho rằng: Trong mỗi nông hộ,
sau khi một cặp vợ chồng cưới nhau và ra ở riêng, đẻ con thì số người tiêu
dùng tăng lên, gia đình gặp khó khăn, nhưng dần dần con cái lớn lên, số
lao động tăng thêm, gia đình trở nên khá hơn. Con cái lớn lên lập gia đình
mới thì chu kỳ bắt đầu lại từ đầu. A.V. Traianốp là người đầu tiên rút ra kết
luận: hình thức KTHND có khả năng thích ứng và tồn tại trong mọi phương
thức sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát triển KT-XH [81, tr. 34]. Ông
thừa nhận hình thái gia đình nông dân không có bóc lột lao động làm thuê,
chỉ sử dụng sức lao động của gia đình là một hình thức mang lại hiệu quả
kinh tế cao, một phát hiện vượt xa tầm nhận thức lúc đó [69, tr. 68].


Sau này, trong nền kinh tế hiện đại, các công trình nghiên cứu của
Vergopoulos (1978), Tuossig (1978) đã khẳng định ở các nước TBCN nông
trại nhỏ gia đình sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn nông trại lớn TBCN, khai
thác được cao nhất thặng dư lao động ở nông thôn, giữ được giá nông sản
thấp và kết luận: KTHND vẫn tồn tại phát triển ngay trong lòng CNTB [30, tr.
15].
Hiện nay KTHND được thừa nhận là hình thức kinh tế có hiệu quả
nhất trong sản xuất nông nghiệp. Sự tồn tại của nó trong suốt lịch sử phát
triển ngành nông nghiệp là tất yếu khách quan do những nguyên nhân chủ
yếu sau đây:
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, các cơ thể

sống, quá trình chuyển hóa về vật chất và năng lượng thông qua quá trình
sinh trưởng của cây trồng, con gia súc, đây là quá trình liên tục không
ngừng đòi hỏi phải có sự chăm sóc thường xuyên của con người. Quá trình
này khác hoàn toàn với các công đoạn, các sản phẩm có thể phân chia rõ
ràng trong sản xuất công nghiệp. Đặc thù của sản xuất nông nghiệp rất
thích hợp với trách nhiệm và chất lượng lao động của gia đình, nó cũng phù
hợp với kiểu tổ chức sản xuất gia đình, sản xuất trang trại. Nhà nông học
nổi tiếng của Liên Xô trước đây, A.V.Traianốp đã rút ra kết luận: "Càng
gần, càng gắn với quá trình sinh học thì sản xuất càng mang tính hộ gia
đình, càng xa quá trình sinh học, càng có nhu cầu liên kết lại, tập trung
hóa và chuyên môn hóa" [67].
- Về tổ chức sản xuất, nông hộ là một tế bào bền vững của xã hội, là
đơn vị tổ chức sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Tính đa dạng, tính phân
tán, phức tạp của nghề nông, sự phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lao động,
đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp phù hợp với sản xuất của hộ
gia đình hơn bất kỳ tổ chức sản xuất nào khác. Sự phát triển của công cụ


lao động từ thô sơ thủ công như chiếc gậy chọc lỗ gieo hạt đến máy móc cơ
khí ngày nay vẫn không làm mất đi vai trò của KTHND. Bởi đối tượng sử
dụng các công cụ sản xuất ấy là lao động gia đình. Thực tiễn ở nước ta cho
thấy, KTHND có sức sống riêng của nó, tuy trong một thời gian dài ít được
quan tâm, thậm chí còn hạn chế và ngăn cản sự phát triển nhưng nó vẫn tồn
tại khách quan và có sức sống rất mạnh mẽ thể hiện rõ nét ở tính hiệu quả
của việc sản xuất trên đất 5% của gia đình. Đối với nông nghiệp, không ở
đâu, không một tổ chức nào sản xuất có hiệu quả như ở khu vực gia đình.
Sự thay đổi công cụ lao động chỉ nhằm trợ giúp cho các quá trình biến đổi
sinh học diễn ra trong sản xuất chứ không làm thay đổi bản chất của quá
trình, nhằm khai thác tốt hơn các điều kiện tự nhiên phục vụ cho con người.
Chính đặc điểm này quy định sự tồn tại khách quan của KTHND.

- Về mặt xã hội, hộ không chỉ là một đơn vị kinh tế mà còn là một
tế bào của xã hội. Do đời sống xã hội ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng,
các thành viên trong gia đình cư trú theo một hay nhiều đơn vị hộ và có thể
xen với một số người không thuộc gia đình. Vì vậy về thực chất gia đình
mới là tế bào của xã hội, nhưng trên thực tế thì hộ lại trở thành những đơn
vị tế bào của xã hội. Trên các hộ gia đình là các cộng đồng lớn hơn như dòng
họ (lấy quan hệ huyết thống làm cốt lõi), làng xã (lấy quan hệ cùng chung
nơi cư trú làm cốt lõi). Những cộng đồng này có những thiết chế chặt chẽ.
Ưu điểm nổi trội của cộng đồng dòng họ, làng xã là đã phát huy được tính
tích cực của nó trong đấu tranh với thiên nhiên để duy trì sự sống còn, trong
chống ngoại xâm để bảo tồn cộng đồng và truyền thống văn hóa... Những ưu
điểm đó được chính các hộ gia đình kiến tạo nên và nhờ đó mà tạo nên các
quan hệ thân thuộc theo kiểu "trong họ ngoài làng", "tình làng nghĩa xóm".
Đây chính là cơ sở tạo địa vị xã hội của hộ trong cộng đồng, tạo sức mạnh
của cộng đồng, khẳng định sự tồn tại tất yếu về mặt xã hội của hộ gia đình.


- Trong sản xuất nông nghiệp cũng diễn ra quá trình xã hội hóa sản
xuất mạnh mẽ. Nhưng do đặc điểm của ngành nông nghiệp với đối tượng
của nó là các cơ thể sống, kết quả sản xuất là các sản phẩm nông nghiệp đòi
hỏi quá trình sản xuất liên tục không thể phân chia dứt khoát thành các bán
thành phẩm. Vì vậy, người bắt đầu quy trình sản xuất và cho đến sản phẩm
cuối cùng tốt nhất vẫn là do các nông hộ đảm nhận. Hơn ai hết họ gắn liền
cuộc sống của gia đình họ với đất đai, với sản phẩm cuối cùng mà họ sản
xuất ra. Điều này có thể cho phép rút ra kết luận, do đặc thù của quá trình
sản xuất nông nghiệp đã quyết định sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ
nông dân.
Mặt khác, sự tồn tại khách quan của KTHND còn thể hiện ở tính tự
chủ của nó trong nền kinh tế. Nội dung tính tự chủ của KTHND thể hiện
trên các mặt sau đây:


- Quan hệ sở hữu về TLSX: Nông hộ phải có quyền sử dụng về
ruộng đất và sở hữu các TLSX khác. Ở nước ta, chỉ từ khi giao quyền sử
dụng đất ổn định và lâu dài cho các nông hộ thì lúc đó nông hộ mới có
quyền tự chủ trong sản xuất. Việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho
nông hộ còn bao gồm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp và thừa kế. Đây là những quyền cơ bản bảo đảm cho nông hộ được
tự chủ thực sự theo quy định của pháp luật.
- Quan hệ về quản lý: từ chỗ làm chủ về TLSX dẫn đến nông hộ
cũng làm chủ trong quản lý sản xuất. Hộ là người đề ra các chỉ tiêu, định
hướng sản xuất, định kế hoạch và thực hiện kế hoạch sản xuất. Về mặt
pháp lý, nông hộ là đơn vị kinh tế độc lập do chủ hộ hoặc một người có
năng lực, uy tín trong gia đình đứng ra quản lý. Trong thực tế, về hình thức
quản lý cũng có những hộ liên doanh theo kiểu 2, 3 hộ tự nguyện hợp nhất
trong một hộ lớn hơn với tư cách pháp nhân mới để có thêm năng lực về
vốn, đất đai, kỹ thuật... từ đó có thêm sức mạnh trong cạnh tranh, dạng hộ


này thường xuất hiện ở một số ngành sản xuất tương đối đặc biệt như nuôi
tôm, cá ở ven biển, sản xuất tiểu thủ công nghiệp... các ngành cần nhiều
vốn và kỹ thuật hơn các ngành sản xuất truyền thống.
- Quan hệ về phân phối: Nông hộ có toàn quyền quyết định phân
phối các sản phẩm đầu ra, các chi phí đều được tính từ đầu vụ, người nông
dân được kích thích sản xuất bằng vật chất do chính họ làm ra không bị lãng
phí hoặc bị chiếm đoạt sản phẩm trong khâu phân phối. Sau khi dành cho
tiêu dùng họ có thể tự do mang ra trao đổi sản phẩm của mình trên thị trường.
Nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ cho nên họ chịu trách nhiệm về
những rủi ro trong sản xuất, buộc họ phải tính toán trước khi quyết định sản
xuất cái gì, tiêu thụ sản phẩm ra sao... Điều này đã làm cho các hộ năng
động hơn trong kinh doanh, TLSX, sức lao động được sử dụng hiệu quả

hơn, từ đó làm tăng thêm vị trí, vai trò của KTHND trong nền kinh tế.
Thừa nhận và khẳng định sự tồn tại khách quan của KTHND tự nó
đã nói lên vai trò to lớn của KTHND trong nền kinh tế.

1.1.2.2. Vai trò của kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn
KTHND là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp, phổ
biến trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, có khả năng chuyển
nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang SXHH theo cơ chế thị trường và giữ
vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho nền kinh
tế. Vai trò của KTHND được thể hiện trên một số nội dung sau đây:

Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế
Để là một đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế, đòi hỏi phải có
hai điều kiện: Một là, phải được pháp luật thừa nhận. Hai là, phải trực tiếp
hoạt động kinh doanh, tồn tại trong sự phân công lao động xã hội. Trước


đây, ở nước ta kinh tế hộ cá thể đã từng tồn tại và bị coi là mảnh đất hằng
ngày, hằng giờ đẻ ra CNTB nên không được pháp luật thừa nhận và là đối
tượng cải tạo. Vì vậy KTHND không thể khẳng định vị trí, vai trò của mình
và không được xem là đơn vị kinh tế cơ sở. Thực tế những năm qua cho
thấy, từ khi thừa nhận nông hộ là đơn vị kinh tế cơ sở thì sức sống của
kinh tế hộ trỗi dậy và khởi sắc, đã có những đóng góp quan trọng trong nền
kinh tế. Vai trò đơn vị kinh tế cơ sở của hộ gia đình là xu hướng được
khẳng định.

Hộ gia đình nông dân là một đơn vị tích tụ vốn
Quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa chỉ có thể diễn ra khi có sự tích tụ vốn trong từng hộ

gia đình ở những mức độ nhất định. Sự tích tụ này sẽ làm cho những
khoản tiền dư thừa do hoạt động kinh tế của hộ tạo nên được sử dụng
đúng mục đích, hạn chế việc tích trữ của cải hoặc lãng phí vào các công
việc khác nhằm mục đích sản xuất tăng sản phẩm cho xã hội. Trong chế
độ kinh tế tập thể, các HTX trước đây không trở thành đơn vị tích tụ vốn
có hiệu quả, không huy động được các nguồn vốn trong các hộ gia đình
vào sản xuất kinh doanh, với tính cách là một đơn vị tự hạch toán, tự trang
trải, có khả năng thích ứng cao với môi trường để phát triển sản xuất
kinh doanh. Điều đó mặc nhiên đã dẫn đến KTHND trở thành một đơn
vị tích tụ vốn. Cùng với sự phát triển sản xuất mức độ tích lũy vốn càng
cao, kinh tế hộ càng có điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển ngành nghề, mở rộng sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng
nhiều cho xã hội.
Nông hộ là một đơn vị để thực hiện phân công lao động xã hội
Trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất của các hộ gia đình chủ yếu là
để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của gia đình, chỉ có sản phẩm dư thừa mới


trở thành hàng hóa nhưng mang tính ngẫu nhiên. Do vậy, lao động của từng
hộ gia đình chưa trở thành lao động xã hội. Với tư cách là một đơn vị tích
tụ vốn, KTHND có điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch
lao động và trở thành đơn vị kinh tế cơ sở thực hiện sự phân công lao động
xã hội. Thực tế cho thấy, nhờ có tích tụ vốn nhiều hộ gia đình đã phát triển
các hình thức sản xuất kinh doanh rất đa dạng: Kinh doanh nông - lâm ngư nghiệp, mở mang ngành nghề, kinh doanh tổng hợp... Trên cơ sở đó đã
xuất hiện những hộ chuyên sản xuất một loại sản phẩm hàng hóa cung cấp
cho thị trường. Đó chính là biểu hiện cụ thể của phân công lao động xã hội
diễn ra từ các hộ gia đình - một đơn vị kinh tế cơ sở.

Kinh tế hộ nông dân tham gia vào giải quyết quan hệ cung - cầu
của thị trường và là đơn vị tiêu dùng xã hội

Với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh hàng
hóa, hộ gia đình phải căn cứ vào nhu cầu thị trường để có phương án sản
xuất kinh doanh loại sản phẩm gì, khối lượng, chất lượng ra sao, giá cả thế
nào, tiêu thụ ở đâu và cần phải mua những vật tư gì cho sản xuất kinh
doanh... Ở góc độ đó, mỗi hộ gia đình đã mặc nhiên trở thành một đơn vị
cân đối cung - cầu theo yêu cầu của thị trường và là một đơn vị tiêu dùng
của xã hội. Nhờ ưu thế của một đơn vị sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ, tự
tích lũy vốn, chủ động lựa chọn và ứng dụng KH-CN... nên KTHND rất
năng động trong việc nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thị trường và thích ứng
được với mọi sự biến đổi của thị trường. Việc tiến hành tổ chức lại sản xuất
một cách dễ dàng, chủ động, việc nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh
doanh mặt hàng mà thị trường đang cần chứng minh khả năng thích ứng
cao của kinh tế hộ gia đình với mọi nhu cầu của thị trường mà ít có hình
thức tổ chức kinh doanh nào có ưu thế hơn. Ngày nay, ở hầu khắp các quốc
gia trên thế giới, KTHND bảo đảm phần lớn lương thực, thực phẩm, rau
quả tươi sống, nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến... Thực


tế đó càng khẳng định vai trò quan trọng của KTHND trong việc đáp ứng
nhanh nhạy nhu cầu thị trường, đồng thời lại tiêu thụ ngày càng nhiều các
mặt hàng công nghệ phẩm và dịch vụ của công nghiệp, khu vực thành thị;
do đó trở thành hàng triệu đơn vị tiêu dùng xã hội trải rộng trên địa bàn
nông thôn rộng lớn, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ nền
kinh tế.

Kinh tế hộ nông dân không chỉ có vai trò to lớn về kinh tế mà còn
có vai trò rất to lớn về mặt xã hội
KTHND phát triển sẽ làm gia tăng sản phẩm hàng hóa và hiệu quả
kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải
thiện và nâng cao đời sống. Đó là cơ sở kinh tế vững chắc để giải quyết các

vấn đề xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu mạnh. Từ thực tiễn
phát triển của nông thôn cho thấy, ở đâu kinh tế phát triển thì đời sống văn
hóa, xã hội nông thôn cũng phát triển. Từ sản xuất đi lên, từ sự phồn thịnh
về kinh tế ngay trong từng hộ gia đình sẽ là điều kiện đảm bảo cho xã hội
phát triển bền vững cả về kinh tế và văn hóa, xã hội.

Những vấn đề trình bày trên cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của
KTHND trong sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội.
1.1.2.3. Những ưu thế và hạn chế của kinh tế hộ nông dân
a) Ưu thế của kinh tế hộ nông dân
Ngoài vai trò của KTHND đã được trình bày trên, thực tiễn phát
triển nông nghiệp, nông thôn cho thấy, KTHND còn có những ưu thế nổi
bật sau đây:

Kinh tế hộ nông dân là đơn vị sản xuất quy mô nhỏ nhưng vẫn
đảm bảo hiệu quả


Thông thường, người ta quan niệm đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ
đồng nhất với trình độ sản xuất thấp kém, lạc hậu, phân tán, manh mún, tự
phát, vô chính phủ, dẫn đến sự phá sản bần cùng. Vì vậy, cần phải cải tạo
sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn bằng con đường HTH. Thực tế đã chứng
minh việc nóng vội đưa nông dân vào HTX đã không mang lại kết quả
mong muốn. Trong thực tiễn, sản xuất nhỏ hay lớn không phải được đánh
giá chủ yếu ở quy mô sản xuất kinh doanh mà chủ yếu phải nhìn nhận,
đánh giá ở trình độ công nghệ, tính chất xã hội hóa của sản xuất và hiệu
quả kinh tế của nó. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp do đặc thù
của đối tượng sản xuất và lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi
trường. Thực tế đã chứng minh sản xuất quy mô lớn đại trà thuê mướn lao
động làm thuê hay lao động tập thể ồ ạt không phải bao giờ cũng mang lại

hiệu quả mà nhiều khi còn gây ra những thiệt hại to lớn. Tổ chức sản xuất
kinh doanh quy mô hộ gia đình và do gia đình chủ động là rất thích hợp vì
các thành viên có sự thống nhất cao về lợi ích, trong định hướng phát triển
và có trách nhiệm cao trong thực hiện nên năng suất lao động cao hơn, tiết
kiệm hơn. Vì vậy, KTHND có hiệu quả ngay cả trong điều kiện khoa học
và công nghệ sinh học hiện đại được áp dụng và phổ cập đến từng hộ gia
đình thì sản xuất nông nghiệp sẽ đạt năng suất cao, hiệu quả lớn ngay trên
quy mô nhỏ.

Kinh tế hộ nông dân có quy mô nhỏ nên hoạt động năng động có
khả năng thích ứng nhanh nhạy với thị trường
KTHND được tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu trên quy mô gia
đình cho nên việc tổ chức điều hành quá trình sản xuất kinh doanh được
thực hiện rất năng động. Chủ hộ vừa là người tổ chức điều hành vừa là
người trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, từ ý
đồ chỉ đạo đến việc thực thi trên thực tế diễn ra rất nhanh chóng không phải
thông qua nhiều tầng nấc trung gian. Khi cần điều chỉnh hoặc thay đổi


×