Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế tổ CHỨC kế TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ và GIÁ THÀNH TRONG DOANH NGHIỆP sản XUẤT ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.54 KB, 194 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Từ năm 1995 trở về trước ở nước ta, trong lý luận về kế toán, cũng
như trong các văn bản pháp quy của Nhà nước ban hành và cả trong thực tiễn
chỉ sử dụng duy nhất một khái niệm "Kế toán" để nói về hệ thống kế toán của
doanh nghiệp. Khái niệm duy nhất này là do đặc trưng riêng có đối với một số
nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế mới hiện nay ở
nước ta việc thay đổi cơ chế quản lý sang cơ chế thị trường thì việc cung cấp
thông tin giữa doanh nghiệp với Nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp
khác và các trung tâm tài chính, các nhà cung cấp, các nhà đầu tư, khách hàng
và người lao động đòi hỏi kế toán không những phải cung cấp thông tin tổng
quát tình hình sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
bên ngoài doanh nghiệp mà còn phải cung cấp thông tin về chi phí, giá thành,
doanh thu và kết quả trong doanh nghiệp hàng ngày về quản lý để lãnh đạo
doanh nghiệp có thể kiểm tra, xác định và ra quyết định về giá cả, về đầu tư
và lựa chọn phương án sản xuất, quan hệ mua bán đảm bảo thế mạnh trong cơ
chế thị trường. Vì vậy việc chia kế toán thành hai bộ phận: Kế toán tài chính
và Kế toán quản trị là một tất yếu khách quan.
Kế toán quản trị là một tất yếu trong cơ chế thị trường.Việc xác định
nội dung, phạm vi của nó ở nước ta đang được nhiều người quan tâm nghiên
cứu xây dựng và hoàn thiện trên cả giác độ lý luận và thực tiễn.
Kế toán quản trị nói chung, kế toán quản trị chi phí và giá thành trong
các doanh nghiệp sản xuất nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc
thiết lập hệ thống thông tin một cách chi tiết, tỷ mỷ, phục vụ cho việc điều
hành và quản lý trong nội bộ doanh nghiệp với nhiều nội dung và ứng dụng
quan trọng đã được áp dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển.Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà kế toán



6

quản trị chi phí đặc biệt là KTQT chi phí sản xuất và giá thành vẫn còn là
những vấn đề mới mẻ đối với các DNSX nước ta. Chính vì vậy việc nghiên
cứu nhằm xây dựng, thiết kế mô hình kế toán quản trị chi phí và giá thành
trong các doanh nghiệp sản xuất là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tôi đã chọn đề tài "Tổ
chức kế toán quản trị chi phí và giá thành trong doanh nghiệp sản xuất ở
Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Về mặt lý luận
Nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận về kế toán quản trị, mối quan hệ
giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính, kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Góp phần làm sáng tỏ bản chất, nội dung và phương pháp của kế toán
quản trị chi phí (chủ yếu là CPSX) và giá thành trong các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
Giới thiệu một số mô hình kế toán quản trị chi phí và giá thành tiêu
biểu của một số nước trên thế giới.
Về mặt thực tiễn
+ Thông qua nghiên cứu thực tiễn, đánh giá thực trạng nguyên nhân
những vấn đề tồn tại trong việc tổ chức kế toán quản trị chi phí và giá thành ở
các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta.
+ Đề xuất các giải pháp chủ yếu để xây dựng, hoàn thiện kế toán quản
trị chi phí (chủ yếu là CPSX) và giá thành ở doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các doanh nghiệp sản xuất thuộc sở hữu nhà nước, từ đó
rút ra sự cần thiết cung cấp thông tin của kế toán quản trị.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của kế toán quản trị và kế toán
quản trị chi phí (chủ yếu là CPSX) và giá thành của doanh nghiệp sản xuất.



7

- Nghiên cứu thực trạng của kế toán quản trị chi phí (chủ yếu là
CPSX) và giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất.
- Xây dựng, hoàn thiện tổ chức hệ thống kế toán quản trị chi phí (chủ
yếu là CPSX) và giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
nghiên cứu các vấn đề một cách toàn diện, cụ thể, các mối quan hệ chung riêng một cách lô gíc.
- Dựa vào cơ sở lý luận của kinh tế chính trị học mácxít khi nghiên
cứu tính quy luật của các hiện tượng, quá trình kinh tế trong quá trình tái sản
xuất xã hội và đặc điểm riêng của từng đối tượng.
- Vận dụng các phương pháp cụ thể trong nghiên cứu như: Phân tổ,
tổng hợp, phân tích, kiểm chứng.
- Từ những vấn đề chung của kế toán quản trị, kế toán quản trị chi phí
và giá thành tiến hành phân tích so sánh, lựa chọn và rút ra những vấn đề tồn tại.
- Thông qua khảo sát thực tế để đánh giá thực trạng và rút ra những
vấn đề tồn tại để đưa ra các giải pháp giải quyết.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán quản trị chi phí và
giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức công tác kế toán quản trị chi phí và
giá thành ở các doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí và giá thành trong các
doanh nghiệp sản xuất hiện nay.



8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

1.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP

Kế toán, trước hết và chủ yếu là một công cụ quản lý kinh tế tài chính
là "ngôn ngữ của kinh doanh". Các khái niệm, nguyên tắc, chuẩn mực và
phương pháp kế toán phát triển nhất và hoàn thiện nhất trong lĩnh vực sản
xuất và kinh doanh ở các doanh nghiệp. Kế toán là công cụ để thu nhận, xử lý
và cung cấp thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp, thông tin này cung
cấp cho tất cả các đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán
giám sát các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị bằng những phương pháp
riêng.
Kế toán doanh nghiệp là công cụ quản lý, điều hành và quản lý sản
xuất kinh doanh. Căn cứ vào nội dung, phạm vi tính chất, mục đích cung cấp
thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng của các đối tượng, kế toán doanh
nghiệp được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị.
1.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
Hiện nay, có nhiều quan điểm và quan niệm khác nhau về kế toán
quản trị:
- Theo định nghĩa của Hiệp hội kế toán viên Hoa Kỳ thì kế toán quản
trị là: "Quy trình định dạng, đo lường, tổng hợp phân tích, lập báo biểu, giải trình
và thông đạt các số liệu tài chính cho ban giám đốc để lập kế hoạch, đánh giá theo
dõi việc thực hiện trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp và để đảm bảo việc
sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này" [55, tr. 261].



9

Theo cuốn Từ điển thuật ngữ kế toán Mỹ thì kế toán quản trị được
định nghĩa như sau: "Kế toán quản trị là lĩnh vực kế toán liên quan đến việc
thu thập và xử lý các thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ những nhà quản lý trong
việc đưa ra các quyết định tài chính, đặc biệt trong việc hoạch định kế hoạch
và quản lý giá thành" [53, tr. 98].
Hiện nay giữa các nước trên thế giới hai lĩnh vực kế toán tài chính và
kế toán quản trị có những cách gọi khác nhau như: Kế toán đại cương (Kế
toán tổng quát) và kế toán phân tích; kế toán cơ bản và kế toán nội bộ. Như
vậy có nhiều quan điểm khác nhau về kế toán quản trị, nhưng theo chúng tôi
đứng trên góc độ tiếp cận về sử dụng thông tin của kế toán cho hoạt động
quản trị để ra các quyết định trong quản lý doanh nghiệp có thể định nghĩa kế
toán quản trị như sau:
Kế toán quản trị là hệ thống ghi chép, đo lường, thu thập, tổng hợp xử
lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp một cách cụ thể,
phục vụ cho các nhà quản lý trong việc quản trị tài sản, lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt
động kinh tế tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói: Kế toán quản trị là loại kế toán dành cho những
người làm công tác quản lý, nó được coi như một hệ thống trợ giúp cho các
nhà quản lý ra quyết định, là phương tiện để thực hiện kiểm soát quản lý trong
doanh nghiệp.
Từ khái niệm trên có thể rút ra bản chất của kế toán quản trị:
- Kế toán quản trị chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động kinh tế
tài chính trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Mục đích
của kế toán quản trị là cung cấp thông tin cho nhu cầu quản trị doanh nghiệp.
- Kế toán quản trị phục vụ chủ yếu cho việc quản trị tài sản, ra các

quyết định quản trị. Kế toán quản trị không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính thực sự phát sinh và hoàn thành


10

mà còn cung cấp các thông tin phục vụ cho việc ra các quyết định tương lai
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Kế toán quản trị là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp nói chung
là công cụ quan trọng trong công tác quản lý nội bộ của doanh nghiệp.
1.1.2. Chức năng của kế toán quản trị
Trách nhiệm của các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp là điều
hành và quản lý các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Các chức năng cơ bản
của kế toán quản trị theo chúng tôi, đó là:


Chức năng quản trị tài sản:

Đối tượng của kế toán nói chung là tài sản và sự vận động của tài sản
đó trong doanh nghiệp. Kế toán quản trị cũng phản ánh tài sản nhưng ở dạng
chi tiết, tỷ mỷ từng loại tài sản, nhằm cung cấp thông tin hàng ngày về số hiện
có và tình hình biến động của từng chi tiết tài sản để điều hành và quản lý
SXKD.
• Chức

năng hoạch định:

Hoạch định là việc lập các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn của doanh
nghiệp, là việc xây dựng các mục tiêu và vạch ra các bước thực hiện để đạt
được những mục tiêu đó. Kế hoạch mà người quản lý đưa ra thường có dạng

dự toán để liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách huy động, sử dụng nguồn lực
để đạt được các mục tiêu đề ra.
• Chức

năng tổ chức điều hành và quản lý doanh nghiệp:

Nhà quản trị trong quá trình điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch
phải biết liên kết tốt nhất giữa các yếu tố, tổ chức, con người và các nguồn lực
sao cho kế hoạch thực hiện tốt nhất. Để thực hiện chức năng này nhà quản trị
có nhu cầu rất lớn về thông tin KTQT. Chẳng hạn, nhà quản trị doanh nghiệp
cần được kế toán cung cấp thông tin để ra quyết định trong quá trình điều


11

hành, chỉ đạo hàng ngày các quyết định ngắn hạn (quyết định loại bỏ hoặc
tiếp tục duy trì kinh doanh một bộ phận nào đó; quyết định tự sản xuất hay
mua ngoài). Ngoài ra các quyết định dài hạn trong quá trình thực hiện các kế
hoạch đầu tư dài hạn cũng cần phải có các thông tin cần thiết và đầy đủ.
• Chức

năng kiểm tra, đánh giá:

Nhà quản lý sau khi lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện
kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá thực hiện kế hoạch. Phương pháp
thường dùng là so sánh số liệu thực hiện với số liệu của kế hoạch và dự toán,
xác định những sai biệt giữa kết quả đạt được với các mục tiêu đã đề ra nhằm
nhận diện những vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của quản lý.
1.1.3. Nội dung cơ bản của kế toán quản trị
Kế toán quản trị có nội dung và phạm vi khác với KTTC. Xác định

nội dung và phạm vi của KTQT cần xuất phát từ mục tiêu nhiệm vụ của
KTQT ở từng doanh nghiệp, yêu cầu kiểm soát, quản lý hoạt động SXKD và
chức năng của KTQT. Theo chúng tôi có thể xác định nội dung cơ bản của kế
toán quản trị.
- Theo nội dung các thông tin mà kế toán quản trị cung cấp có thể
khái quát kế toán quản trị doanh nghiệp, bao gồm:
+ Kế toán quản trị các yếu tố sản xuất kinh doanh (bao gồm: Hàng tồn
kho, tài sản cố định, lao động tiền lương).
+ Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm dưới góc độ
kiểm soát chi phí, tìm các biện pháp quản lý chi phí có hiệu quả.
+ Kế toán quản trị thu nhập, chi phí kinh doanh và xác định kết quả
gắn liền với trách nhiệm của các bộ phận cá nhân trong nội bộ doanh nghiệp.
+ Kế toán quản trị các hoạt động khác.


12

Trong các nội dung nêu trên thì trọng tâm của kế toán quản trị ở các
doanh nghiệp là kế toán quản trị chi phí. Vì vậy một số tác giả cho rằng kế
toán quản trị là kế toán chi phí.
- Theo quá trình kế toán quản trị trong mối quan hệ với chức năng
quản lý kế toán doanh nghiệp bao gồm các khâu:
+ Chính thức hóa các mục tiêu của doanh nghiệp thành các chỉ tiêu
kinh tế.
+ Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết.
+ Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.
+ Lập và phân tích các báo cáo KTQT, cung cấp các thông tin phục
vụ cho việc lập kế hoạch, dự toán chi phí, doanh thu theo yêu cầu quản trị
của doanh nghiệp. Như vậy thông tin của kế toán quản trị không chỉ là thông
tin quá khứ, thông tin thực hiện mà còn bao gồm các thông tin dự đoán

tương lai.
- Nội dung cơ bản của kế toán quản trị chi phí và giá thành trong
các doanh nghiệp sản xuất
Kế toán quản trị CPSX và giá thành là một nội dung chủ yếu và quan
trọng nhất trong KTQT doanh nghiệp. Những nội dung cơ bản của nó là:
- Xác định các chỉ tiêu kinh tế trong quản lý CPSX và giá thành sản
phẩm, thực chất là xác định các loại chi phí và giá thành cần quản lý.
- Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo nhiều tiêu thức
khác nhau để phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
- Xác định đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành phù
hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Tổ chức các
phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí vận dụng các phương pháp tính giá
thành sản phẩm.


13

- Tổ chức thu thập thông tin: Bao gồm thu thập thông tin thực hiện và
thông tin tương lai.
+ Thông tin thực hiện: Tổ chức công tác hạch toán ban đầu, vận dụng
hệ thống chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản kế toán, tổ chức tập hợp và
phân bổ chi phí theo từng đối tượng cần tính giá đã xác định và vận dụng các
phương pháp tính giá thành sản phẩm thông qua tổ chức kế toán chi tiết chi
phí sản xuất và giá thành.
+ Tổ chức dự đoán thông tin tương lai: Lập dự toán chi phí (dự toán
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung), cung cấp thông tin để lập kế hoạch về chi phí sản xuất và giá thành.
- Tổ chức phân tích, cung cấp thông tin và tư vấn cho nhà quản trị
trong việc quản lý, kiểm soát chi phí và ra quyết định quản lý.
- Tổ chức lập các báo cáo về CPSX và giá thành của doanh nghiệp.

1.1.4. Phương pháp của kế toán quản trị
1.1.4.1. Đặc điểm vận dụng các phương pháp kế toán trong KTQT
Về nguyên tắc kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống kế toán
cho nên nó cũng phải sử dụng các phương pháp kế toán nói chung như:
Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp
tính giá, phương pháp tổng hợp cân đối kế toán. Tuy nhiên việc vận dụng các
phương pháp này có đặc điểm khác so với kế toán tài chính.
• Phương

pháp chứng từ kế toán

Ngoài việc sử dụng những thông tin về nghiệp vụ kinh tế tài chính
phát sinh và thực sự hoàn thành trên các chứng từ bắt buộc, mang tính pháp lý
kế toán còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hướng dẫn để phản ánh các
nghiệp vụ kinh tế trong nội bộ của doanh nghiệp, các chứng từ này được lập


14

theo yêu cầu quản lý cụ thể theo các chỉ tiêu phục vụ trực tiếp cho việc thu
thập, xử lý, và cung cấp thông tin nội bộ ở doanh nghiệp. Việc kiểm tra, xử lý,
và luân chuyển chứng từ được xác lập theo cách riêng nhằm đảm bảo cung
cấp các thông tin cụ thể nhanh chóng kịp thời và thích hợp với việc ra các
quyết định quản lý.
• Phương

pháp tài khoản kế toán

Để có số liệu một cách chi tiết tỷ mỷ phục vụ quản trị nội bộ, kế toán
quản trị phải sử dụng những tài khoản chi tiết đáp ứng yêu cầu quản lý từng

chỉ tiêu cụ thể để mở các tài khoản cấp 2, cấp 3, cấp 4 và chi tiết các tài khoản
theo từng địa điểm phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
hoặc từng đơn đặt hàng.
• Phương

pháp tính giá

Trong KTTC tính giá phải tuân thủ nguyên tắc, chuẩn mực quy định
thống nhất của mỗi quốc gia. Đối với KTQT việc tính giá tài sản mang tính
linh hoạt cao hơn và gắn với mục đích sử dụng thông tin về giá theo yêu cầu
quản trị doanh nghiệp. Các dữ liệu để tính giá không chỉ căn cứ vào chi phí
thực tế mà còn dựa vào các thông tin về chi phí thích hợp cho từng quyết
định.
• Phương

pháp tổng hợp cân đối kế toán

Các báo cáo kế toán là hình thức biểu hiện của phương pháp này.
Trong kế toán quản trị là các bảng báo cáo bộ phận được lập ngắn hạn theo
các chỉ tiêu tiền tệ, hiện vật và thời gian lao động, không những lập cho quá
khứ mà còn lập cho tương lai (kế hoạch dự toán).
• Các

phương pháp khác sử dụng trong kế toán quản trị

Ngoài các phương pháp kế toán, KTQT còn sử dụng các phương pháp
khác như: Phương pháp thống kê, phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh,


15


phương pháp hạch toán nghiệp vụ kinh tế kỹ thuật và các phương pháp toán
để thu nhận được các thông tin chi tiết, cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý.
1.1.4.2. Thiết kế các mẫu biểu cung cấp thông tin KTQT
Thông tin của kế toán quản trị chủ yếu nhằm phục vụ cho quá trình ra
quyết định của các nhà quản trị, các thông tin này thường không có sẵn do
vậy kế toán quản trị phải vận dụng một số phương pháp nghiệp vụ để xử lý
chúng thành dạng phù hợp. Các phương pháp thường được sử dụng là:
• Thiết

kế thông tin thành dạng so sánh được

Thông tin sẽ vô dụng nếu thiếu các tiêu chuẩn so sánh với nó. Từ các
số liệu thu thập được, KTQT sẽ phân tích và thiết kế chúng thành dạng có thể
so sánh được. Chẳng hạn KTQT phải cung cấp các thông tin thực hiện để so
sánh với kế hoạch, định mức hoặc dự toán chi phí, các giá phí, giá thành, mức
lợi nhuận của các phương án đang được lựa chọn. Quá trình quyết định của nhà
quản trị phải dựa trên sự phân tích, so sánh này để đánh giá và ra quyết định.


Thiết kế mẫu biểu phân loại chi phí theo các tiêu thức phân loại

khác nhau nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho các yêu cầu quản trị kinh
doanh ở doanh nghiệp
Các thông tin chi phí thích hợp cho từng loại quyết định là căn cứ để
phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận, một trong những nội
dung quan trọng khi xem xét quyết định về sản xuất kinh doanh.
• Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán theo dạng phương trình

Dạng phương trình rất tiện dụng cho việc tính và dự đoán một số quá

trình chưa xảy ra, căn cứ vào các dữ kiện đã có và mối quan hệ ràng buộc
giữa các biến số trong phương trình. Phương pháp này là căn cứ để tính toán
lập kế hoạch và phân tích dự báo trong kế toán quản trị.
• Trình

bày các thông tin dưới dạng đồ thị


16

Phương pháp này cũng được KTQT sử dụng khá thông dụng. Đồ thị là
cách thể hiện dễ thấy và rõ ràng nhất mối quan hệ và xu hướng biến thiên
mang tính quy luật của các thông tin do kế toán quản trị cung cấp và xử lý.
1.1.5. Phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trị
Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều là những bộ phận của hệ
thống kế toán doanh nghiệp, giữa chúng có quan hệ mật thiết và có những sự
giống nhau và khác nhau cơ bản sau:
1.1.5.1. Những điểm giống nhau giữa KTTC và KTQT
Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều nhằm vào việc phản ánh các
kết quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ
phải trả, chi phí, thu nhập, kết quả và quá trình lưu chuyển tiền tệ của doanh
nghiệp. Một bên phản ánh tổng quát, một bên phản ánh chi tiết tỷ mỷ của các
vấn đề đó.
- Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều dựa trên hệ thống ghi chép
ban đầu của kế toán. Từ hệ thống ban đầu này là cơ sở để kế toán tài chính
soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ cung cấp cho các đối tượng ở bên
ngoài. Kế toán quản trị cũng dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu để vận dụng,
xử lý nhằm cung cấp các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định của các
nhà quản trị. Kế toán quản trị sử dụng rộng rãi số liệu ghi chép hàng ngày của
kế toán tài chính có khai triển nhằm tăng thêm nội dung của các thông tin đó.

- Kế toán tài chính và kế toán quản trị đều biểu hiện trách nhiệm quản
lý, kế toán tài chính biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cấp cao toàn
doanh nghiệp. Còn kế toán quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý
các cấp bên trong nội bộ doanh nghiệp.
1.1.5.2. Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
Hai loại kế toán này có rất nhiều sự khác nhau dựa trên các căn cứ
phân biệt sau đây:


17

Một là: Đối tượng sử dụng thông tin
Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán tài chính chủ yếu là những
người ở bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, cho vay, khách hàng,
nhà cung cấp, các cơ quan chính phủ như: thuế, cơ quan quản lý tài chính.
Còn kế toán quản trị cung cấp thông tin cho các nhà quản trị bên trong doanh
nghiệp như các chủ sở hữu, ban giám đốc, quản lý viên, giám sát viên, các
quản đốc. Các nhà quản trị cần phải có được thông tin phục vụ việc ra các
quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là: Nguyên tắc trình bày và cung cấp thông tin
Thông tin của kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn
mực và chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia, kể cả các nguyên tắc
chuẩn mực quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận. Trái lại, trong
nền kinh tế thị trường do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội
kinh doanh đa dạng nên thông tin của kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh
chóng và thích hợp với từng quyết định cụ thể của người quản lý, không buộc
phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung, các quy định của nhà
nước về kế toán quản trị (nếu có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn.
Ba là: Tính pháp lý của kế toán
Kế toán tài chính có tính pháp lệnh phải tuân thủ theo các nguyên tắc

và chuẩn mực kế toán được thừa nhận. Các sổ kế toán, các báo cáo tài chính
phải được lập theo chế độ thống nhất bắt buộc. Kế toán quản trị mang tính nội
bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp tùy theo yêu cầu quản lý, điều
kiện và khả năng, đặc thù quản lý cụ thể từng doanh nghiệp
Bốn là: Đặc điểm thông tin
+ Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu dưới hình thái giá trị. Còn
thông tin của kế toán quản trị được biểu hiện cả hình thái giá trị, hiện vật và
cả thời gian lao động.


18

+ Thông tin của KTTC là những thông tin quá khứ, đã được thực hiện.
Trong khi đó thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương
lai trong việc lựa chọn các phương án, đề án hoặc sự kiện chưa xảy ra.
+ Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu là thông tin kế toán thuần
túy được thu thập từ các chứng từ ban đầu của kế toán. Trong kế toán quản trị
thông tin được thu thập nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định quản lý
thường không có sẵn cho nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu
còn phải kết hợp với nhiều ngành khoa học khác để tổng hợp phân tích và xử
lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được.
Năm là: Phạm vi và kỳ báo cáo
Báo cáo của KTTC phản ánh tình hình chung của doanh nghiệp được
soạn thảo theo định kỳ thường là quý, năm (Bảng CĐKT, Báo cáo KQHĐKD,
Báo cáo LCTT và TMBCTC). Còn báo cáo của kế toán quản trị phản ánh
từng mặt cụ thể, từng bộ phận, từng khâu hoạt động của doanh nghiệp và
được soạn thảo một cách thường xuyên theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp
(Báo cáo CPSX và giá thành, Báo cáo chi phí theo các khoản mục cụ thể, Báo
cáo tình thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh)
1.1.6. Kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết trong mối quan hệ với kế

toán tài chính và kế toán quản trị
Tùy thuộc vào mức độ tổng hợp hay chi tiết của việc ghi chép phản
ánh các đối tượng kế toán vào các tài khoản kế toán cũng như yêu cầu quản lý
cụ thể, kế toán được chia thành kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
• Kế

toán tổng hợp

Là việc ghi chép, phản ánh một cách tổng hợp, khái quát trên các tài
khoản kế toán, sổ kế toán tổng hợp và báo cáo tài chính theo chỉ tiêu giá trị.
Kế toán tổng hợp cung cấp các chỉ tiêu tổng hợp như tình hình nhập, xuất, tồn


19

nguyên vật liệu, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình thanh toán với
người mua và người bán.
• Kế

toán chi tiết

Là việc ghi chép, phản ánh một cách chi tiết tỷ mỷ, cụ thể các đối
tượng, các nghiệp vụ cần quản lý đối với các đối tượng của kế toán đã được
kế toán tổng hợp phản ánh. Kế toán chi tiết sử dụng cả 3 loại thước đo: hiện
vật, lao động và giá trị, sử dụng chi tiết các tài khoản cấp 3, cấp 4,... và các sổ
chi tiết. Hai loại kế toán tổng hợp và chi tiết phải tiến hành đồng thời với nhau
và theo nguyên tắc là tổng số phát sinh ở kế toán tổng hợp phải bằng tổng số
phát sinh ở kế toán chi tiết.
• Kế


toán tổng hợp và kế toán tài chính

Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm trình bày
các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, vốn, nợ, doanh
thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh trong một kỳ kế toán vào một thời
điểm nhất định.
• Kế

toán chi tiết và kế toán tài chính

Kế toán chi tiết cũng là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm
chứng minh các số liệu ghi trong các tài khoản tổng hợp, các sổ kế toán tổng
hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo tài chính. Thuật ngữ
thông thường gọi là đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
• Mối

quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán chi tiết

Tính đồng nhất và khả năng liên hệ, so sánh giữa kế toán quản trị và
kế toán chi tiết. Nhìn chung kế toán quản trị sử dụng phổ biến số liệu của kế
toán chi tiết trên các báo cáo, ngoài ra còn phải sử dụng các phương pháp
khác để thu thập, xử lý và cung cấp thông tin trong quá trình ra quyết định
như phương pháp thống kê, toán, phân tích.


20

1.2. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH TRONG
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT


1.2.1. Bản chất của chi phí sản xuất
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp có
thể khái quát bằng các giai đoạn cơ bản, có mối quan hệ mật thiết sau đây:
- Quá trình mua sắm, chuẩn bị, dự trữ các yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất kinh doanh như đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động.
- Quá trình vận động, biến đổi nội tại các yếu tố đầu vào một cách có
ý thức và có mục đích thành sản phẩm cuối cùng.
- Quá trình bán hàng (thực hiện giá trị và giá trị sử dụng) của các sản
phẩm (công việc, lao vụ) cuối cùng.
Như vậy, thực chất quá trình hoạt động của doanh nghiệp là sự vận
động, kết hợp, chuyển đổi nội tại các yếu tố sản xuất đã bỏ ra để sản xuất và
thực hiện giá trị của quá trình sản xuất đó tạo ra.
Để tiến hành hoạt động sản xuất cần thiết phải có ba yếu tố cơ bản, đó
là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động của con người. Sự
tham gia của từng yếu tố vào quá trình hoạt động sản xuất có sự khác nhau
hình thành nên các hao phí tương ứng: Hao phí về đối tượng lao động, hao phí
về khấu hao tư liệu lao động hình thành nên hao phí về lao động vật hóa, chi
phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động và những khoản chi
phí khác gắn liền với người lao động hình thành nên chi phí về lao động sống.
Trong nền sản xuất hàng hóa các hao phí trên được biểu hiện bằng tiền gọi là
chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí
lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một
thời kỳ nhất định.


21

Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên quan đến việc sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm.Vì vậy, chỉ những chi phí có liên quan đến việc sản
xuất chế tạo sản phẩm (hoặc lao vụ, dịch vụ) mới được gọi là chi phí sản xuất
Vì vậy: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí lao
động sống và lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh
nghiệp đã chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm hay
thực hiện các lao vụ dịch vụ trong thời kỳ nhất định.
Chi phí sản xuất luôn biểu hiện ở hai mặt định tính và định lượng.
- Mặt định tính của chi phí sản xuất được biểu hiện là các chi phí mà
doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất bằng tiền hay hiện vật.
- Mặt định lượng của chi phí sản xuất thể hiện ở mức độ tiêu hao cụ
thể của từng loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất để cấu tạo nên sản
phẩm (lao vụ dịch vụ) của doanh nghiệp và được biểu hiện bằng tiền. Độ lớn
của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố: khối lượng lao động, tư liệu lao động
đối tượng lao động tiêu hao và giá cả của tư liệu lao động, đối tương lao động,
tiền lương của một đơn vị.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp kinh doanh với mục
đích là lợi nhuận. Xác định đúng đắn và khách quan bản chất kinh tế của chi
phí và chi phí sản xuất giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở lý luận vững vàng
trong quản lý và sử dụng chi phí. Kế toán là công cụ quản lý kinh tế, được các
doanh nghiệp sử dụng theo các yêu cầu khác nhau. Kế toán quản trị giúp cho
các doanh nghiệp: Phân tích, đánh giá và xác định chi phí theo nhiều phương
pháp, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ kiểm
soát chi phí, tìm biện pháp quản lý chi phí có hiệu quả, tính toán được kết quả
của từng sản phẩm, kiểm soát được toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất


22


Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung
kinh tế, công dụng kinh tế và yêu cầu quản lý khác nhau. Để phục vụ cho
công tác quản trị, chi phí cần phải phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
1.2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế
- Đặc điểm của cách phân loại này là căn cứ vào tính chất, nội dung
kinh tế và hình thái nguyên thủy ban đầu của chi phí để tập hợp sắp xếp
những chi phí có cùng tính chất, nội dung vào một yếu tố chi phí mà không
phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu và nơi nào chịu chi phí.
- Theo cách phân này toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được
chia thành năm yếu tố sau:
+ Chi phí vật liệu: Đó là toàn bộ chi phí về: Vật liệu chính (kể cả nửa
thành phẩm) mua ngoài; chi phí vật liệu phụ mua ngoài; phụ tùng thay thế
mua ngoài; công cụ dụng cụ mua ngoài xuất dùng cho sản xuất chế tạo sản
phẩm trong doanh nghiệp.
+ Chi phí nhân công: Bao gồm chi phí về tiền lương phải trả cho công
nhân sản xuất, nhân viên quản lý phân xưởng, các khoản trích theo tiền lương.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Đó là chi phí khấu hao TSCĐ trong lĩnh
vực sản xuất như máy móc thiết bị sản xuất, các tài sản cố định khác dùng
chung ở phân xưởng, bộ phận khác của toàn doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Đó là những chi phí trả cho các đơn vị
bên ngoài về các lao vụ, dịch vụ mà các đơn vị này cung cấp cho doanh
nghiệp phục vụ cho sản xuất.
+ Chi phí bằng tiền khác: Là các chi phí ngoài các khoản chi phí đã
ghi ở các yếu tố trên.
- Tác dụng: Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế có tác
dụng cho biết những chi phí nào đã dùng vào quá trình sản xuất sản phẩm và
tỷ trọng của từng loại đó chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng số chi phí sản xuất.


23


Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng định mức vốn
lưu động, nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, trong việc lập các dự toán
chi phí sản xuất và kiểm tra các dự toán đó trong quá trình sản xuất. Phân loại
chi phí theo tính chất kinh tế còn là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ để xác
định định mức tiêu hao vật chất và tính thu nhập quốc dân theo từng ngành.
Ngoài ra còn là căn cứ để lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố.
1.2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế
Đặc điểm của cách phân loại này là căn cứ vào công dụng kinh tế của
chi phí, mục đích sử dụng của chi phí, nơi phát sinh và nơi chịu chi phí để sắp
xếp những chi phí có cùng công dụng vào một khoản mục. Theo chế độ kế
toán tài chính hiện hành thì toàn bộ chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm được
chia làm ba khoản mục sau đây:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: đó là toàn bộ chi phí về nguyên vật
liệu chính (kể cả nửa thành phẩm), vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế
xuất dùng trực tiếp để sản xuất sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Đó là các chi phí về tiền lương, tiền
công phải trả, các khoản bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế
trích theo tiền lương, tiền công của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung: Đó là các chi phí liên quan đến việc tổ chức
sản xuất và quản lý sản xuất trong phạm vi một phân xưởng (đội, bộ phận).
Chi phí sản xuất chung theo qui định hiện nay bao gồm các nội dung:
+ Chi phí nhân viên: Phản ánh các chi phí trả cho các nhân viên phân
xưởng về tiền lương, tiền công các khoản phụ cấp, trích BHXH, BHYT, kinh
phí công đoàn như quản đốc, nhân viên kế toán thống kê, thủ kho, công nhân
vận chuyển, sửa chữa tại phân xưởng.


24


+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật
liệu để sửa chữa, bảo quản TSCĐ, vật liệu sử dụng ở văn phòng và vật liệu
dùng chung ở phân xưởng khác.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Phản ánh chi phí công cụ dụng cụ dùng
chung ở phân xưởng: như khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp, dụng cụ cầm tay, bảo
hộ lao động, ván khuôn...
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao
TSCĐ hữu hình, vô hình, thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng như: khấu hao
máy móc thiết bị sản xuất phương tiện vận tải, truyền dẫn, nhà xưởng, cây lâu
năm, súc vật cơ bản, súc vật làm việc và nhà làm việc tại phân xưởng...
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh những lao vụ dịch vụ mua từ
bên ngoài như điện, nước, chi phí sửa chữa tài sản cố định...
+ Chi phí khác bằng tiền phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài
những chi phí đã nêu ở trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ
cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức; Cung cấp số liệu cho
công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá
thành sản phẩm dịch vụ; Làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản
xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm kỳ sau.
1.2.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi
phí sản xuất vào các đối tượng chịu chi phí
- Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp
được chia thành: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
+ Chi phí trực tiếp: là những chi phí sản xuất có liên quan trực tiếp với
một đối tượng chịu chi phí (như một loại sản phẩm, một đơn đặt hàng, một


25

giai đoạn công nghệ, một phân xưởng). Những chi phí này có thể căn cứ vào

số liệu từ các chứng từ gốc để ghi trực tiếp.
+ Chi phí phân bổ gián tiếp: là những CPSX có liên quan đến nhiều
đối tượng chịu chi phí, do vậy cần phải tiến hành phân bổ các chi phí đó cho
các đối tượng bằng phương pháp gián tiếp thông qua các tiêu chuẩn phân bổ
hợp lý. Những chi phí này về phương diện kế toán chi phí gián tiếp không thể
căn cứ vào chứng từ gốc để ghi vào từng đối tượng mà phải tập hợp riêng sau
đó tính toán phân bổ.
- Cách phân loại này có tác dụng trong việc xử lý các nghiệp vụ, kỹ
thuật hạch toán để xác định được phương pháp tập hợp CPSX vào các đối tượng
cần tính giá phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
1.2.2.4. Phân loại chi phí sản xuất theo phương diện đầu vào của
quá trình sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được chia
thành: Chi phí ban đầu và chi phí luân chuyển nội bộ.
- Chi phí ban đầu: Là những chi phí mà doanh nghiệp phải tự lo liệu
mua sắm chuẩn bị từ lúc đầu để tiến hành sản xuất kinh doanh, các chi phí
này được chia làm các yếu tố:
+ Chi phí nguyên vật liệu
+ Chi phí nhân công
+ Chi phí khấu hao TSCĐ
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Chi phí khác bằng tiền


26

- Chi phí luân chuyển nội bộ: là các chi phí phát sinh trong quá trình
hợp tác và phân công lao động trong nội bộ doanh nghiệp, những chi phí này
đã phát sinh lần thứ hai.
1.2.2.5. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ

của chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất
sản phẩm (đối với doanh nghiệp sản xuất) hay quá trình mua hàng hóa về để
bán ra (đối với doanh nghiệp thương mại). Trong doanh nghiệp sản xuất chi
phí sản phẩm bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đây là những chi phí cấu thành nên giá
thành sản xuất của sản phẩm.
Nếu sản phẩm, hàng hóa chưa được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ
nằm trong giá thành (trị giá vốn) của hàng tồn kho trên Bảng cân đối kế toán.
Nếu sản phẩm, hàng hóa được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ trở thành chi phí
của "giá vốn hàng bán" trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Chi phí thời kỳ: Là các chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ,
những chi phí này gắn liền với doanh thu bán ra trong kỳ kế toán. Nó không
tạo nên giá trị của hàng tồn kho mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của
kỳ mà nó phát sinh. Đây cũng là những chi phí cấu thành nên giá thành
toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. Theo hệ thống kế toán hiện hành chi phí thời
kỳ bao gồm: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Như vậy: Chi phí thời kỳ của kỳ nào thì kết chuyển hết cho kỳ đó và
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ mà chúng phát sinh (xem sơ đồ 1.1)


27

Loại chi phí

Bảng cân đối kế toán

Chi phí nguyên

vật liệu trực
tiếp

Chi
phí

BC KQHĐKD

Chi phí

Doanh thu
thuần
của
hàng bán

sản xuất
dở dang

sản
Chi phí nhân
công trực tiếp

phẩm

Nhập
kho
Thành

Chi phí
sản xuất chung


Giá vốn
hàng bán

phẩm

Bán
Lãi gộp

Chi phí
thời kỳ

Chi phí bán
hàng và chi
phí QLDN

Lãi thuần

Sơ đồ 1.1: Mô hình vận động của chi phí trong doanh nghiệp sản xuất
1.2.2.6. Phân loại chi phí sản xuất căn cứ vào mối quan hệ của chi
phí với qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm:


28

- Chi phí cơ bản: Là các chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình
công nghệ sản xuất sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; chi phí
nhân công trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm.
- Chi phí quản lý và phục vụ: Là các chi phí dùng vào tổ chức, quản lý

và phục vụ sản xuất có tính chất chung. Thuộc loại này có chi phí quản lý ở
các phân xưởng (đội, trại) sản xuất và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được
phương hướng và các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đối
với chi phí cơ bản là các chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình công nghệ
sản xuất sản phẩm, thiếu chúng thì không thể sản xuất, chế tạo được sản
phẩm, vì vậy không thể cắt bỏ một loại chi phí cơ bản nào mà phải phấn đấu
giảm thấp các định mức tiêu hao vật liệu, lao động, khấu hao... hoặc cải tiến
công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, tìm kiếm vật liệu thay thế v.v... Ngược lại,
đối với chi phí quản lý và phục vụ sản xuất cần phải triệt để tiết kiệm, hạn chế
và thậm chí loại trừ các chi phí không cần thiết, tăng cường quản lý chi phí
quản lý và phục vụ sản xuất theo dự toán tiêu chuẩn và chế độ chi tiêu.
1.2.2.7. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ của chi phí với
khối lượng hoạt động
Trường hợp này chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành: Chi phí
biến đổi, chi phí cố định và chi phí hỗn hợp.


Chi phí biến đổi (biến phí)

Biến phí là các chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ thuận với sự thay đổi
của khối lượng hoạt động (mức độ hoạt động, số lượng sản phẩm hoàn thành,
số giờ máy hoạt động...).
Về phương diện lý thuyết, sự biến động của chi phí trong mối quan hệ
với khối lượng hoạt động có thể xẩy ra ba trường hợp, tương ứng sẽ có có ba
loại chi phí biến đổi sau đây:


29


+ Tổng biến phí tỷ lệ thuận trực tiếp với khối lượng hoạt động thực
hiện, còn biến phí trung bình của một đơn vị khối lượng hoạt động thì không
thay đổi. Biến phí trong trường hợp này gọi là biến phí tỷ lệ. Thuộc loại này
có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí khấu
hao tài sản cố định theo sản lượng.
+ Tổng biến phí tăng nhanh hơn tốc độ tăng khối lượng hoạt động
thực hiện, vì vậy biến phí trung bình một đơn vị khối lượng hoạt động cũng
tăng lên. Trường hợp này có thể được lý giải là khi cường độ lao động vượt
quá giới hạn bình thường, hiệu lực của các yếu tố sản xuất sẽ giảm sút; hoặc
có sự gia tăng khối lượng sản xuất, đòi hỏi phải tăng nhiều hơn các CPSX.
+ Tổng biến phí tăng chậm hơn khối lượng hoạt động và biến phí
trung bình cho 1 đơn vị khối lượng hoạt động giảm xuống. Hiện tượng này
xảy ra khi khối lượng hoạt động gia tăng tạo nên các điều kiện để sử dụng có
hiệu quả hơn các yếu tố của quá trình sản xuất.


Chi phí cố định (định phí)

Định phí là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi
về khối lượng hoạt động thực hiện. Có 4 loại định phí sau:
+ Định phí tuyệt đối: là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có
sự thay đổi khối lượng hoạt động, còn định phí trung bình thì giảm đi.
+ Định phí tương đối (còn gọi là định phí cấp bậc): Trong trường hợp
khả năng của các yếu tố sản xuất tiềm năng đã khai thác tối đa, muốn tăng
được khối lượng hoạt động cần phải bổ sung đầu tư các khả năng sản xuất
tiềm tàng mới. Trong trường hợp này, khối lượng sản xuất sản phẩm không
phải là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến độ lớn của định phí mà quy mô sản
xuất cần thiết phải thay đổi khả năng, trữ lượng và năng lực sản xuất.
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không thể thay đổi được một cách
nhanh chóng vì chúng thường xuyên liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức

cơ bản của một doanh nghiệp. Định phí bắt buộc có bản chất sử dụng lâu dài,


×