Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TIỂU LUẬN KIÊN TRÌ CHỦ NGHĨA mác lê NIN, tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH TRONG đấu TRANH PHÊ PHÁN NHỮNG QUAN điểm PHẢN mác xít HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.12 KB, 10 trang )

KIÊN TRÌ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
ĐẤU TRANH PHÊ PHÁN MỘT SỐ QUAN ĐIỂM PHẢN MÁC-XÍT
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã gây nên một sự
biến lịch sử to lớn: hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị phá vỡ, phong trào cách mạng xã
hội chủ nghĩa rơi vào bước thoái trào nghiêm trọng. Một số Đảng Cộng sản bị khủng
hoảng sâu sắc về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng sang Đảng Xã hội dân chủ. Không ít
người trước đây vốn tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vào chủ nghĩa xã hội nay cũng
bị ngả nghiêng, chao đảo, không đứng vững trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử.
Tình hình đó đã tạo lợi thế cho các thế lực chống cộng của chủ nghĩa đế quốc tấn công vào
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa xã hội. Chúng luôn luôn lấy sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu để cố chứng minh rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã
thật sự lỗi thời, chủ nghĩa xã hội chỉ là không tưởng, là một bước đi chệch hướng tạm thời
của lịch sử do sự áp đặt chủ quan của các Đảng Cộng sản nên không thể tồn tại; chỉ có chủ
nghĩa tư bản là có sức sống vì nó luôn luôn thích nghi với thời đại. Chúng còn cho rằng,
học thuyết về đấu tranh giai cấp, về bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin được các Đảng Cộng sản sùng bái, tin theo một cách mù quáng, nên đã
gây ra các cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu trong lịch sử. Khi các Đảng Cộng sản trở
thành đảng cầm quyền thì thiết lập nền chuyên chính vô sản độc tài, phản dân chủ; do đó,
phải đánh đổ chế độ một đảng cầm quyền và thay vào đó bằng chế độ đa đảng, đa nguyên
chính trị mới thiết lập được một xã hội thật sự dân chủ.
Ở nước ta cũng có một số người đưa ra những lập luận phản bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Vì vậy, chúng ta cần phê phán những quan điểm


phản mác-xít đó để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bảo vệ quan điểm,
đường lối đúng đắn của Đảng trong công cuộc đổi mới.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu có phải đã chứng minh cho
"sự đúng đắn" trong những luận điểm của bọn chống cộng và những kẻ phụ họa theo
chúng không? Hoàn toàn không phải. Sự kiện xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu do
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở đó sa
vào giáo điều, chủ quan, bảo thủ, sai lầm về đường lối, không đáp ứng được yêu cầu phát


triển của xã hội, dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng. Khi tiến
hành cải tổ, cải cách lại xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phạm phải sai lầm này đến sai lầm
khác, lúc tả khuynh, lúc hữu huynh, kể cả sự phản bội (ở Liên Xô) (1). Có quan điểm khá
phổ biến cho rằng, khủng hoảng kinh tế - xã hội là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nếu thế thì tại sao Trung Quốc, Việt
Nam cũng bị khủng hoảng kinh tế - xã hội và gặp rất nhiều khó khăn nhưng chẳng những
vẫn đứng vững mà còn có bước phát triển mới? Điều đó chỉ có thể được giải thích là, các
Đảng Cộng sản cầm quyền ở đó có đường lối đúng đắn, có đội ngũ cán bộ quyết tâm phấn
đấu lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới, giữ vững mục tiêu xã hội
chủ nghĩa, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Rõ ràng, ở đây nhân tố chủ quan - vai
trò của Đảng Cộng sản cầm quyền là vô cùng quan trọng, đặc biệt là cơ quan lãnh đạo cấp
cao và lãnh tụ của Đảng. Sở dĩ một đảng cầm quyền hùng mạnh nhất, với hơn 20 triệu
đảng viên, giàu truyền thống và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng như Đảng Cộng sản
Liên Xô, lại chịu sự thất bại nhanh chóng và thảm hại như vậy là bởi, Đảng Cộng sản Liên
Xô bị thoái hóa, biến chất, trước hết là trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng, đã hướng
công cuộc cải tổ của họ đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, phản lại chủ nghĩa Mác - Lê-


nin. Đó là bài học quý giá mà các Đảng Cộng sản, đặc biệt là các Đảng Cộng sản cầm
quyền, cần rút ra về công tác xây dựng Đảng. Nếu Đảng Cộng sản cầm quyền thật sự trong
sạch, vững mạnh, biết vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với
thực tiễn cách mạng của nước mình thì các thế lực thù địch không thể thực hiện được chiến
lược "diễn biến hòa bình" của chúng.
Như vậy, có thể rút ra kết luận: sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là
sự thất bại của việc xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không phải là sự lỗi thời của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội, như bọn chống cộng và những kẻ theo đuôi
chúng lập luận. Tất nhiên, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, bên cạnh tính ưu việt như
chúng ta đã biết, cũng có những nhược điểm, khuyết tật. Những nhược điểm, khuyết tật đó,
xét cho cùng, là do những điều kiện lịch sử sản sinh ra nó. Do đó, các Đảng Cộng sản cầm
quyền cần có nhận thức đúng, có những biện pháp khắc phục những nhược điểm, khuyết

tật đó và phát huy những ưu điểm vốn có của nó, đổi mới nó, làm cho nó ngày càng hoàn
thiện và đứng vững, như Trung Quốc và Việt Nam đã làm.
Có phải chủ nghĩa tư bản sẽ tồn tại vĩnh viễn vì nó luôn luôn biết thích nghi với thời đại
không? Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đã làm
cho lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao, dẫn đến quá trình toàn cầu hóa kinh
tế dưới dự chi phối của các tập đoàn tư bản lũng đoạn xuyên quốc gia. Bản thân quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng có những biến đổi để thích nghi với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, làm nẩy sinh những nhân tố trái với chính nó như là những mầm mống của
xã hội tương lai (chế độ "sở hữu cổ phần", "dân chủ hóa" quản lý và "tham dự lợi nhuận"
của những người lao động làm thuê...). Thực tế đó đã được phản ánh dưới hình thức méo


mó, xuyên tạc trong các mô hình xã hội của các nhà tương lai học phương Tây như "chủ
nghĩa tư bản nhân dân", "chủ nghĩa tư bản của người lao động", "xã hội hậu công
nghiệp"...
Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa biến đổi, giai cấp công nhân cũng biến đổi theo.
Trước kia, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí thì ngày nay,
nền sản xuất tự động hóa và sự ra đời của nền kinh tế tri thức đã làm cho họ chuyển hóa
dần thành giai cấp công nhân trí thức (sự hòa nhập giữa lao động trí óc và lao động chân
tay). Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn thích nghi với lực lượng sản xuất
đạt đến trình độ xã hội hóa rất cao và giai cấp công nhân trí thức đã trưởng thành, thì họ sẽ
gánh lấy sứ mệnh lịch sử của mình là đưa chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tất nhiên, sự biến đổi của giai cấp công nhân sẽ khiến cho đội tiền phong của nó là Đảng
Cộng sản cũng phải phát triển lên một trình độ cao hơn về tri thức, đạo đức cách mạng và
phong cách lãnh đạo; có như vậy mới lãnh đạo được giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình. Trong điều kiện lịch sử mới, chủ nghĩa xã hội được xây dựng cũng
có nhiều cái mới, phong phú hơn mà học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học, do bị hạn
chế bởi những điều kiện lịch sử sản sinh ra nó, chưa thể đề cập đến. Do đó, các Đảng Cộng
sản cần vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết ấy để nó luôn luôn trở thành ngọn cờ lý
luận soi đường cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới.

Có phải các Đảng Cộng sản sùng bái, tin theo một cách mù quáng học thuyết về đấu tranh
giai cấp, về bạo lực cách mạng nên đã gây ra cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu trong lịch
sử? Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, đấu tranh giai cấp chỉ là một giai đoạn nhất định
trong lịch sử phát triển xã hội loài người. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính


vô sản. Chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ tiến lên xóa bỏ mọi giai cấp. Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin coi bạo lực cách mạng không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện, là "bà
đỡ" để đưa xã hội mới ra đời trong lòng xã hội cũ. Trong cuộc đấu tranh giai cấp, sở dĩ giai
cấp vô sản phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của giai cấp
tư sản cầm quyền là bởi giai cấp tư sản đã sử dụng bộ máy bạo lực phản cách mạng khổng
lồ (quân đội và cảnh sát) để đàn áp đẫm máu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng đề cập đến khả
năng dùng biện pháp hòa bình nếu giai cấp tư sản tự nguyện rút lui khỏi vũ đài chính trị,
nhưng khả năng này rất hiếm. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh tội ác của giai cấp tư sản
thống trị trong việc đàn áp giai cấp vô sản và nhân dân lao động; bởi vậy, không thể "đổi
trắng thay đen", đổ tội cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin được.
Phải chăng nền chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân được thiết lập sau khi giành
được chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo là độc tài, phản dân chủ? Trong xã hội có
giai cấp và đối kháng giai cấp, chế độ dân chủ bao giờ cũng có hai mặt là dân chủ và
chuyên chính. Ở đây cần hiểu vấn đề là dân chủ với ai và chuyên chính với ai. Chế độ dân
chủ trong xã hội nô lệ thực hiện dân chủ với giai cấp chủ nô và chuyên chính với giai cấp
nô lệ. Chế độ dân chủ trong xã hội tư bản thực hiện dân chủ với giai cấp tư sản và chuyên
chính với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến
lịch sử so với chế độ dân chủ chủ nô và chế độ chuyên chế phong kiến, nhưng thực chất
vẫn là chế độ dân chủ của thiểu số giai cấp tư sản thống trị. Phải chăng giai cấp tư sản xây
dựng bộ máy quyền lực nhà nước khổng lồ là để thực thi dân chủ trong toàn xã hội? Không
phải như vậy. Bộ máy ấy dùng để đàn áp các lực lượng chống đối khi chế độ tư bản bị đe
dọa, nhằm bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Mặc dù luật pháp tư sản ghi



nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân, nhưng trên thực tế, các quyền đó lại bị nhà
nước tư sản vi phạm. Điển hình là vụ đàn áp người da đen nổi dậy chống tệ phân biệt
chủng tộc ở thành phố Lốt-an-giơ-lét của Mỹ. Trong vụ đàn áp đó, Tổng thống Mỹ (Bu-sơ
cha) và chính quyền địa phương đã huy động 6.000 vệ binh quốc gia, trên 9.000 cảnh sát,
3.000 lính của sư đoàn 7 và 1.300 lính thủy đánh bộ đàn áp, làm 58 người chết (hầu hết là
người da đen), trên 2.000 người bị thương, 2.500 người bị bắt.
Kế thừa và phát triển tư tưởng chuyên chính vô sản của C. Mác, V.I. Lê-nin đề cập nhiều
mặt, nhiều khía cạnh của chuyên chính vô sản. Nhưng vấn đề cốt lõi của nó, theo V.I. Lênin, là giai cấp vô sản nắm quyền thống trị chính trị với ý thức là chỉ một mình mình nắm,
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản, giai cấp vô sản nắm quyền thống trị chính trị là nắm lấy nhà nước. Tất nhiên, đó
phải là một nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao
động) và chuyên chính kiểu mới (chống lại giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng luôn luôn tìm
cách khôi phục lại địa vị thống trị của mình). Do đó, V.I. Lê-nin gọi chuyên chính vô sản
là dân chủ vô sản. Giai cấp vô sản sử dụng chính quyền nhà nước của mình để thực thi và
bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của đại đa số nhân dân; giáo dục, động viên và tổ chức họ
tham gia quản lý nhà nước, tham gia công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội; đồng thời, kiên quyết trấn áp các thế lực thù địch vi phạm pháp luật, gây bạo
loạn hòng lật đổ nhà nước vô sản và chế độ xã hội mới.
Như vậy, chuyên chính vô sản là phương tiện tất yếu để giai cấp vô sản thực hiện sự quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản văn minh, xóa bỏ
các giai cấp, xây dựng xã hội mới không còn áp bức, bóc lột. Rõ ràng, về bản chất, chuyên


chính vô sản luôn mang tính nhân đạo cao cả. Chuyên chính vô sản là một hình thức dân
chủ kiểu mới, chưa từng có trong lịch sử trước đây, do đó, trong quá trình thực hiện, nó
không tránh khỏi những biểu hiện sai lầm, thiếu sót về mặt này, mặt khác. Những sai lầm,
thiếu sót mang tính độc đoán, chuyên quyền của một số nhà lãnh đạo trong các Đảng Cộng
sản cầm quyền vì động cơ địa vị và quyền lực cá nhân, xa rời nguyên tắc tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số trong hoạt động chính trị, đó không phải là sản

phẩm của nền chuyên chính vô sản như các thế lực chống cộng và bọn theo đuôi chúng đã
xuyên tạc.
Chuyên chính vô sản có nhiều hình thức chính trị khác nhau, phù hợp với đặc điểm của
mỗi nước và trong từng thời kỳ lịch sử. Ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đang
xây dựng hệ thống chính trị dân chủ, bao gồm Đảng lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội. Vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
hiến định. Điều đó chính là sự xác nhận một thực tế lịch sử: chỉ có Đảng Cộng sản Việt
Nam là người lãnh đạo duy nhất cách mạng Việt Nam và đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác - Cách mạng Tháng Tám, hai cuộc kháng chiến thần thánh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử
trong thời kỳ đổi mới được dư luận thế giới đồng tình và khâm phục. Đảng lãnh đạo Nhà
nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm và thực thi các quyền của
công dân và nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước cũng như đối với xã hội. Đảng, Nhà
nước và công dân đều hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Đảng cố gắng đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước, vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -


xã hội đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên và công chức trong bộ
máy công quyền.
Đảng và Nhà nước ta đã làm được nhiều việc để thực hiện chế độ dân chủ của đại đa số
nhân dân, đồng thời đề cao trật tự, kỷ cương xã hội, nhằm chống lại những hành động vi
phạm pháp luật và những hoạt động chống đối của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn
định chính trị và môi trường hòa bình để nhân dân an cư lạc nghiệp, cùng nhau đoàn kết,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những đường
lối, chủ trương lớn của Đảng, những dự án luật quan trọng của Nhà nước đều đưa ra để
Mặt trận Tổ quốc thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội và nhân dân tham gia ý kiến; qua
đó, chúng được chỉnh lý, sửa đổi trước khi ban hành hợp với "ý Đảng, lòng dân". Đảng và
Nhà nước từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi đó vừa là

mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng có những thiếu
sót, khuyết điểm, như tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, ức hiếp
nhân dân còn xảy ra ở không ít cán bộ, công chức. Đặc biệt, nạn tham nhũng, lãng phí còn
xảy ra nghiêm trọng. Đó là cái ung nhọt trong bộ máy công quyền cần kiên quyết cắt bỏ.
Các thế lực thù địch và những kẻ theo đuôi chúng đã thổi phồng những thiết sót, khuyết
điểm đó để phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, công kích Đảng Cộng sản Việt Nam là
độc tài, phản dân chủ. Chúng làm như vậy nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta,
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, hòng thực hiện chiến lược và âm mưu "diễn biến hòa
bình", gây bạo loạn và lật đổ, xóa bỏ chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chế độ dân
chủ đa nguyên, đa đảng kiểu phương Tây. Chúng ta cần làm cho nhân dân thấy rõ âm mưu


đen tối của chúng, kiên quyết bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ mà chúng ta đã tốn bao
xương máu mới gây dựng nên. Đảng ta vẫn kiên trì khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của
mình; kiên trì xây dựng và chỉnh đốn Đảng để Đảng luôn xứng đáng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Chúng ta khẳng định chắc chắn rằng, còn chủ nghĩa tư bản, còn đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa thì chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn còn giữ nguyên
giá trị, chưa có một học thuyết nào khác thay thế được. Đúng như sự đánh giá của Đại hội
quốc tế về C. Mác năm 1995: "Chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng
của nó trong thế giới hiện đại..." (2), và chủ nghĩa Mác "vẫn luôn luôn là một căn cứ quyết
định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, cho các Đảng Cộng sản
chân chính đề ra đường lối chiến lược và sách lược của mình"(3).

(1) Về sự phản bội của những người lãnh đạo cấp cao ở Liên Xô đã được chính Goóc-bachốp, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, tự phơi bày trong diễn văn đọc ở
Trường đại học Tổng hợp Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói: "Mục đích của tôi là tiêu diệt chủ
nghĩa cộng sản... Khi đích thân làm quen với phương Tây, tôi hiểu ra rằng mình không thể

nào rời bỏ mục tiêu đã đề ra. Để thực hiện mục tiêu này, tôi cần phải giành lấy toàn bộ sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Liên Xô, cũng như lãnh đạo tất cả các
nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Tôi đã tìm được chiến hữu để thực hiện mục tiêu này,
trong số đó A.N. Ia-cốp-lép và E.A. Sê-vát-nát-de giữ vai trò đặc biệt. Trong sự nghiệp
chung của chúng tôi, không thể nào đánh giá hết công lao của họ" (xem Tạp chí Thông tin
công tác tư tưởng, số 9, năm 2000, tr 45)
(2) Đại hội quốc tế về C.Mác diễn ra từ ngày 27 đến ngày 30-9-1995, nhân kỷ niệm 100
năm ngày ra đời chủ nghĩa Mác, với 500 viện nghiên cứu, tạp chí mác-xít và 30 trường đại
học đến từ 22 nước trên thế giới
(3) Tuần báo Giải phóng, tiếng nói của hàng vạn chiến sĩ cách mạng các nước Mỹ La-tinh
cư trú ở Thụy Điển, số ra ngày 7-7-1995


Tạp chí cộng sản, số 107 tháng 05/2006.



×