Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận chỉnh thể trong câu tiếng việt (qua khảo sát ngữ liệu sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.29 KB, 57 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................... 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu .................................................... 6
4.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
4.2. Nguồn ngữ liệu ............................................................................................... 6
5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................... 7
6. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................... 8
1.1. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phương diện từ vựng ngữ
nghĩa ...................................................................................................................... 8
1.2. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phương diện cụm từ ...... 11
1.3. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phương diện cú pháp .... 12
1.4. Phân loại các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể ................................ 16
1.4.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận – chỉnh thể ........... 16
1.4.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 16
1.4.1.2. Đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận – chỉnh thể .............................. 17
1.4.2. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể với những quan hệ có liên
quan ..................................................................................................................... 17
1.4.2.1. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể với quan hệ cấp loại
(hyponymie) ......................................................................................................... 17
1.4.2.2. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể với quan hệ sở hữu ................. 25
1.5. Khái niệm vị tố và các tiêu chí cơ bản phân loại các sự thể ....................... 26
1.5.1. Khái niệm vị tố .......................................................................................... 26
1.5.2.Những tiêu chí cơ bản phân loại các sự thể............................................... 27



CHƢƠNG 2: CÁC YẾU TỐ CHỈ QUAN HỆ BỘ PHẬN – CHỈNH THỂ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT ............................................................................ 31
2.1. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể ................................................ 31
2.1.1. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị tố tính tĩnh................................................................................................................ 31
2.1.1.1. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong sự thể “tư thế” .............. 31
2.1.1.2. Quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong sự thể “trạng thái” ....................... 33
2.1.2. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị tố tính động .............................................................................................................. 36
2.1.2.1. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong sự thể “hành động” ...... 37
2.1.2.2. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong sự thể quá trình ............. 41
2.1.3. Sự giao thoa giữa sự thể “hành động” và sự thể “ quá trình” trong yếu tố
chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể ......................................................................... 44
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 53


LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp khóa luận đƣợc hoàn thành, em xin chân thành cảm ơn các thầy,
cô giáo trong bộ môn Tiếng Việt, khoa Ngữ văn Trƣờng Đại học Tây Bắc.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, thạc sĩ Lê Thị Hà đã tận
tình giúp đỡ, chỉ bảo và động viên em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Đồng thời, em cũng cảm ơn sự quan tâm động viên của các bạn trong tập
thể lớp K52 Đại học Sƣ phạm Ngữ văn để hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Người thực hiện

Nguyễn Thị Chung


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là một trong những môn có vị trí quan trọng trong các môn
khoa học xã hội - nhân văn đặc biệt là ở nhà trƣờng trung học phổ thông. Trƣớc
tiên với tƣ cách là một môn độc lập, nhiệm vụ là cung cấp cho học sinh những
tri thức về hệ thống tiếng Việt cùng với những quy tắc hoạt động và sản phẩm
của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Tiếng Việt còn đƣợc coi là một công cụ
trong dạy học, vì vậy chất lƣợng dạy học trong nhà trƣờng trung học phổ thông
có quan hệ trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ, năng lực tƣ duy của học sinh. Đặc
biệt, chú ý đến bình diện ngữ nghĩa của câu, đây là bình diện gần nhƣ chƣa đƣợc
trình bày ở các chƣơng trình lớp dƣới. Trong báo cáo đề dẫn của viện khoa học
giáo dục trình bày tại hội thảo “Dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông
đầu thế kỉ XXI”(2000) đã xác định rõ mục tiêu hàng đầu của việc dạy học tiếng
Việt trong nhà trƣờng là giúp học sinh có năng lực sử dụng thành thạo tiếng mẹ
đẻ, hình thành và rèn luyện năng lực giao tiếp, thể hiện rõ trong việc sử dụng tốt
bốn kĩ năng cơ bản: đọc, viết, nghe và nói. Mục tiêu nhƣ vậy là đúng và phù hợp
với xu thế dạy tiếng mẹ đẻ của các nƣớc trên thế giới trong thế kỉ XXI nói chung
và Việt Nam nói riêng. Để có thể sử dụng tốt ngôn ngữ trong giao tiếp, học sinh
không chỉ đƣợc trang bị các tri thức về hệ thống ngôn ngữ cũng nhƣ hiểu biết về
các đơn vị và các quy tắc thuộc các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa…
Ở công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt của câu thì câu đƣợc chú
ý nghiên cứu ở các bình diện: Việc phân loại câu và vấn đề thành phần câu. Ở
lĩnh vực câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp thì câu đƣợc chia theo kiểu loại:
câu đơn, câu ghép (và câu phức). Còn ở lĩnh vực câu phân loại theo mục đích
nói thì câu đƣợc chia thành câu tƣờng thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh và câu
cảm thán.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về thành phần câu trong tiếng Việt thì nhiều
sách ngữ pháp ở nƣớc ta hiện nay, thành phần câu không đƣợc đặt ra nhƣ vấn đề
từ loại, vấn đề cụm từ. Tình hình đó khiến một số ngƣời nghĩ rằng ở lĩnh vực
1



này không có gì đáng bàn. Nhƣng thực chất vấn đề thành phần câu lại đƣợc ứng
dụng nhiều trong tiếng Việt.
Tiếp theo ở phƣơng diện cấu trúc ngữ nghĩa của câu. Ở lĩnh vực này đi
theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, câu lại đƣợc nghiên cứu trong khả
năng kết hợp của các vị tố với các tham tố tham gia cấu tạo câu. Đây là một vấn
đề khá lý thú và phức tạp. Đồng thời cũng cần phải chú ý đến cách sử dụng câu
trong “Ngữ dụng học”, dƣới ánh sáng của ngữ dụng học, câu tiếng Việt không
chỉ đƣợc nghiên cứu đơn thuần về mặt cấu trúc hay về mặt nghĩa nữa, mà câu
còn đƣợc quan tâm về mặt sử dụng. Do đó, việc nghiên cứu câu hiện nay cần
đƣợc nghiên cứu trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học và dụng học.
Đặc biệt là cần phải chú ý đến những ảnh hƣởng qua lại của các câu trong
văn bản đƣợc đề cập trong ngôn ngữ học văn bản. Nhƣng đó chƣa phải là tất cả
những vấn đề đƣợc đặt ra trong nghiên cứu cũng nhƣ những vấn đề đƣợc chú ý
đến trong các công trình nghiên cứu về câu.
Trong câu tiếng Việt, ngoài những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu ở trên, ở
phƣơng diện ngữ nghĩa câu còn tồn tại một loại quan hệ đặc thù, đó là quan hệ
bộ phận - chỉnh thể. Đây không phải là quan hệ giữa chỉnh thể câu (cả câu) với
bộ phận nào đó của câu mà là mối quan hệ về chức năng ngữ nghĩa giữa từ chỉ
bộ phận và từ chỉ chỉnh thể chứa bộ phận của câu đó. Do sự chi phối của chức
năng ngữ nghĩa của quan hệ bộ phận - chỉnh thể mà câu đôi khi có những cách
hiểu khác nhau về mặt ngữ nghĩa. Tuy vậy, nội dung nghiên cứu về chức năng
ngữ nghĩa của các yếu tố về quan hệ bộ phận - chỉnh thể thƣờng chiếm một phần
rất nhỏ trong các công trình nghiên cứu hoặc các công trình nghiên cứu chỉ dừng
lại ở bƣớc đầu tìm hiểu quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng
Việt.
Từ những lý do đã trình bày ở trên, xuất phát từ thực tiễn của hoạt động
tiếng Việt ở chƣơng trình trung học phổ thông, trên cơ sở tiếp thu những thành
tựu đã đạt đƣợc của những công trình nghiên cứu về câu, chúng tôi mạnh dạn
chọn “Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong câu tiếng Việt (qua khảo

sát ngữ liệu sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông)” làm khóa luận
2


nghiên cứu. Với hi vọng, kết quả nghiên cứu sẽ góp một phần hữu ích cho việc
tìm hiểu về các yếu tố chỉ bộ phận – chỉnh thể trong câu tiếng Việt (qua khảo sát
ngữ liệu sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông).
2. Lịch sử vấn đề
Công trình sớm nhất đề cập tới ngữ pháp tiếng Việt là bản “Báo cáo vắn
tắt tiếng An Nam hay Đông Kinh” trong cuốn “Từ điển An Nam – Lusitan – La
tinh” của A.De.Rhodes xuất bản tại Rome năm 1651. Tuy vậy, sau hơn hai trăm
năm mới lại có sách Ngữ pháp tiếng Việt, nhƣng các sách ra đời trong thế kỉ
XIX chỉ trình bày về từ loại [Aubarte G… 1864; Trƣơng Vĩnh Ký D, 1867,
Trƣơng vĩnh Ký D, 1883…]. Phải từ giữa thế kỉ XX tới nay các nhà Việt ngữ
học mới bàn đến thành phần câu.
Trong các kiến giải về cấu trúc câu, lối phân tích theo thành phần là lý
thuyết lâu đời và phổ biến hơn cả. Nó đƣợc đặt nền móng từ Aristote (384 – 322
trƣớc công nguyên) với cách phân tích câu thành các bộ phận o’no’ma (danh từ
chủ danh, chủ ngữ) và re’ma (động từ ở thời hiện tại, vị ngữ) (Kondrashov N.A,
1979, tr 13-14; Desnitskaja A.B, Nguyễn Kim Thản, 1984, tr 151-152) và đƣợc
áp dụng vào việc phân tích câu ở hầu hết các ngôn ngữ, nhất là trong nhà trƣờng.
Trong khi đó, các kiến giải khác nhau về cấu trúc nhƣ lí thuyết thành tố trực
tiếp, ngữ pháp cải biến, ngữ pháp tạo sinh, lí thuyết phân đoạn thực tại… chỉ
mới xuất hiện từ những năm 30 - 40 của thế kỉ XX, có lúc rộ lên nhƣ thời
thƣợng ở một số nơi nhƣng rồi đƣợc nhanh chóng đƣợc thay thế bằng lí thuyết
mới. Có thể nói, cấu trúc câu là lĩnh vực đã đƣợc chú ý nghiên cứu từ rất lâu và
thu đƣợc nhiều kết quả cao. Bên cạnh đó, chúng ta nhìn lại quá trình nghiên cứu
về bộ phận, chỉnh thể trong câu tiếng Việt, mặc dù đã đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm xem xét hoặc ở góc độ này hay góc độ khác nhƣng mức độ còn rất
hạn chế hay nói cách khác là sự quan tâm chƣa đƣợc sâu rộng. Ngay từ những

năm đầu của thập niên 80 trở đi có lẽ do ảnh hƣởng của bản thảo và quá trình
thảo luận trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt (phổ thông)”, tác giả Nguyễn Kim
Thản [21; 156] đã đƣa ra một động từ có tên gọi “nhóm động từ chỉ hành động
của bộ phận cơ thể”, tác giả đã liệt kê một số động từ, ví dụ nhƣ bạch, bấm,
3


co… Và, theo tác giả, những động từ này có những đặc điểm riêng về khả năng
kết hợp cũng nhƣ chức năng ngữ nghĩa của nó trong câu. Tuy nhiên, đây cũng
mới chỉ là những phác họa ban đầu, chƣa có những sự phân tích khám phá chi
tiết và những kết luận cụ thể về nhóm động từ này đồng thời về mối quan hệ
giữa chúng với những từ chỉ bộ phận cơ thể theo sau trong giá trị ngữ nghĩa.
Nhƣng đây cũng đƣợc xem nhƣ là một thành công bƣớc đầu trong việc nghiên
cứu “quan hệ bộ phận – chỉnh thể” trong câu.
Khi bàn về vấn đề này, chúng ta phải kể đến thành quả nghiên cứu của tác
giả Hoàng Trọng Phiến [19; 169] cũng xác định về nghĩa cấu trúc của từ là mối
quan hệ của từ với các từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với
từ khác thể hiện trên hai trục: Trục đối vị và trục ngữ đoạn. Quan hệ trên trục
đối vị cho ta xác định đƣợc ngữ trị - khả năng kết hợp của từ. Theo ông, kiến
trúc có quan hệ bộ phận – chỉnh thể không nhất thiết phải có dạng tồn tại duy
nhất mà còn có dạng cải biến. Và phạm trù “yếu tố sở hữu khả li, bất khả li”
cũng có liên quan nhất định trong quan hệ bộ phận chỉnh thể này.
Ngoài ra còn phải kể tới tác giả Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp
trong “Thành phần câu tiếng Việt” cũng có những phát kiến về vấn đề bộ phận chỉnh thể trong cấu trúc câu. Các tác giả cùng xem xét quan hệ của các từ tham
gia vào nòng cốt câu mang những giá trị ngữ pháp và ngữ nghĩa nhất định. Hay
quan điểm của Nguyễn Văn Lộc trong “Kết trị của động từ tiếng Việt” cũng đã
đề cập đến vấn đề này.
Đặc biệt, ngƣời quan tâm nhất đến phạm trù quan hệ bộ phận – chỉnh thể
trong cấu trúc câu tiếng Việt phải nói đến tác giả Diệp Quang Ban. Tác giả đã sơ
bộ nghiên cứu và đi đến những kết luận cụ thể và khá rõ ràng về loại hình quan

hệ này.
Ngay từ công trình khoa học đầu tiên là “Một số vấn đề về câu tồn tại
trong tiếng Việt ngày nay” (Luận án PTS, 1981). Khái niệm “bộ phận – chỉnh
thể” đã đƣợc tác giả bàn đến với những đặc điểm, tính chất riêng biệt, không
giống với các quan hệ cấu trúc ngữ pháp khác trong câu. Hay trong bài viết “Bổ
ngữ chủ thể - một thuật ngữ cần thiết cho việc phân tích ngữ pháp tiếng Việt”
4


(Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, 1983), trên cơ sở phân tích kĩ các ngữ liệu, tác giả đã
đƣa ra những kết luận cụ thể về quan hệ bộ phận – chỉnh thể. Tác giả thừa nhận
quan hệ này là quan hệ đặc biệt cần phải đƣợc tìm hiểu và nghiên cứu nhiều
hơn. Trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) những căn cứ để xác nhận loại quan hệ
bộ phận – chỉnh thể trong câu và những minh chứng, lí giải về chúng lại càng
đƣợc khẳng định.
Ở nƣớc ngoài, một tài liệu mà chúng tôi đƣợc tiếp cận cũng có ý kiến xác
đáng bàn về quan hệ bộ phận – chỉnh thể là tài liệu của tác giả J.Lyons trong
“Nguyên lí ngữ nghĩa học” (Bản dịch tiếng Pháp của J.Durand, 1978).
Ngoài những tác giả kể trên, còn có những tác giả khác ít nhiều bàn đến
vấn đề này bằng cách này hay cách khác nhƣng trong chừng mực còn rất hạn
chế mà chúng tôi chƣa đề cập đến.
Toàn bộ những điều đã nói trên đây, chúng tôi có thể khẳng định rằng
“Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu tiếng Việt (qua khảo sát
ngữ liệu sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông)” là một lĩnh vực còn bỏ
ngỏ. Chúng tôi cố gắng bổ sung một cách nhìn mới, một cách nghiên cứu mới về
một loại quan hệ trong cấu trúc ngữ nghĩa của câu tiếng Việt.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về quan hệ bộ phận – chỉnh thể không phải là một nội dung
hay một vấn đề hoàn toàn mới trong tiếng Việt, tuy nhiên xét về quan hệ này

nhƣ một đối tƣợng chuyên môn thì cho đến nay vẫn chƣa có nhiều ngƣời đề cập
đến. Khóa luận lấy cấu trúc tiếng Việt là các ví dụ trong chƣơng trình ngữ văn
trung học phổ thông cơ bản làm đối tƣợng tìm hiểu, nghiên cứu. Song chúng tôi
chỉ dừng lại tập trung nghiên cứu đối tƣợng trong mối quan hệ bộ phận – chỉnh
thể của cấu trúc câu tiếng Việt. Đó chính là mối quan hệ giữa từ chỉ bộ phận và
từ chỉ chỉnh thể chứa bộ phận đó, để từ đó thấy đƣợc chức năng ngữ nghĩa của
các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận chỉnh thể trong các phát ngôn cụ thể. Khóa luận
này chúng tôi cố gắng bổ sung thêm một cách nhìn một cách nghiên cứu mới về
một loại quan hệ trong cấu trúc câu tiếng Việt.
5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của khóa luận là khảo sát mối quan hệ giữa các từ chỉ bộ phận
và từ chỉ chỉnh thể của bộ phận đó xuất hiện trong các ngữ liệu có trong chƣơng
trình Ngữ văn Trung học phổ thông.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đƣợc nhiệm vụ của khóa luận, chúng tôi dựa vào một số
phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: khảo sát, phân tích, miêu tả, thống kê… Trong
đó, phƣơng pháp phân tích luôn giữ vai trò chủ đạo. Chúng tôi dựa vào phƣơng
pháp phân tích ngữ nghĩa của các yếu tố ngôn ngữ có mặt trong phát ngôn và
phân tích mối quan hệ nghĩa giữa chúng để tìm ra những hiện tƣợng ít nhiều có
tính đều đặn trong tiếng Việt ở phạm vi đối tƣợng xem xét. Ngoài ra, khi triển
khai khóa luận chúng tôi còn có thể sử dụng phƣơng pháp quy nạp, diễn dịch…
Để phân tích lí thuyết và nguồn ngữ liệu liên quan đến khóa luận, rồi tổng hợp
tất cả nội dung lại để đi đến kết luận. Bên cạnh đó các thủ pháp thống kê, phân
loại ngữ liệu theo các tiêu chuẩn hình thức cấu trúc và ngữ nghĩa.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc đối với ngƣời

đang thực hiện khóa luận bao giờ cũng là nguồn tài liệu tham khảo dồi dào,
phong phú và tạo tiền đề thuận lợi để đi sâu vào những vấn đề cụ thể của khóa
luận đang đƣợc thực hiện. Để có đƣợc những định hƣớng ban đầu này, trong quá
trình triển khai chúng tôi đã dành một thời gian thích đáng để sƣu tầm, tìm hiểu,
nghiên cứu, học tập những thành quả nghiên cứu của hàng loạt các nhà nghiên
cứu có tên tuổi thuộc chuyên ngành ngôn ngữ học nhƣ: Diệp Quang Ban, Đỗ
Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn
Minh Thuyết… Đặc biệt là ở phƣơng diện lý thuyết về quan hệ bộ phận – chỉnh
thể, chúng tôi dựa vào những tƣ tƣởng của John Lyons trong “Nguyên lí ngữ
nghĩa học” (Bản dịch tiếng Pháp của J.Durand, 1978).

6


Ngoài ra, một phần làm nên thành công của khóa luận phải kể đến những
tƣ liệu đƣợc khảo sát trong chƣơng trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, lớp 11
và lớp 12 chƣơng trình Trung học phổ thông.
5. Đóng góp của khóa luận
Bƣớc đầu tìm hiểu “Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu
tiếng Việt (qua khảo sát ngữ liệu sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ
thông)” có nhiều điều mới mẻ. Đặc biệt, tìm ra điểm trung gian trong quan hệ
ngữ nghĩa giữa các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Đây là một trong
những kết quả đáng đƣợc chú trọng nhất trong quá trình thực hiện khóa luận.
Kết quả nghiên cứu nhất định sẽ cho thấy bản chất chức năng ngữ nghĩa của các
yếu tố này trong cấu trúc câu tiếng Việt. Khẳng định sự tồn tại của các yếu tố chỉ
quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu tiếng Việt đồng thời cho thấy có một kiểu
quan hệ ngữ nghĩa mới, bổ sung vào một cách nhận diện về giá trị ngữ nghĩa của
câu. Đây là một lĩnh vực mới mẻ trong ngữ pháp tiếng Việt nói riêng và ngữ
pháp học nói chung. Đồng thời khóa luận cũng góp phần bổ sung vào nguồn tài
liệu tham khảo cho môn học Tiếng Việt ở nhà trƣờng Trung học phổ thông.

6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm có hai chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết.
Chƣơng 2: Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu tiếng Việt.

7


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Ngữ pháp tiếng Việt là một bộ phận thuộc lĩnh vực chuyên ngành “ngôn
ngữ học” chủ yếu nghiên cứu về: Từ (cấu tạo từ và từ loại); cụm từ và câu.
Trong đó, ở lĩnh vực nghiên cứu về câu thì đƣợc nhiều tác giả quan tâm hơn cả.
Sự tiếp thu những thành tựu chung của việc nghiên cứu cấu trúc câu tiếng Việt
trong những năm gần đây đã có nhiều bƣớc phát triển mới và đã đạt đƣợc những
thành tựu đáng kể. Đặc biệt đáng chú ý nhất là đã có nhiều tác giả thừa nhận sự
tồn tại của quan hệ bộ phận – chỉnh thể ở mọi phƣơng diện khác nhau. Sự xuất
hiện của quan hệ này trong cấu trúc câu tiếng Việt là một bƣớc đột phá mới về
câu và làm cho câu tiếng Việt càng đa dạng và phong phú hơn. Điều này đƣợc
chứng minh rất rõ ràng trong các quá trình nghiên cứu mà các tác giả dẫn ra để
khẳng định sự tồn tại của phạm trù quan hệ này thể hiện ở những khía cạnh,
những phƣơng diện khác nhau nhƣ: Tác giả Đỗ Hữu Châu thì xem xét quan hệ
bộ phận – chỉnh thể ở phƣơng diện từ vựng - ngữ nghĩa. Đối với tác giả Nguyễn
Kim Thản thì quan hệ bộ phận – chỉnh thể đƣợc nghiên cứu ở các bình diện cụm
từ. Và, ở phƣơng diện cú pháp câu thì tác giả Diệp Quang Ban đã có những kiến
giải rất sâu sắc và phần nào đã đƣa ra một cách nhìn nhận sơ bộ tƣơng đối chi
tiết về quan hệ này. Bên cạnh những ý kiến của tác giả kể trên chúng tôi cũng
không thể không nhắc đến cách xác định và phân loại quan hệ bộ phận – chỉnh
thể của J. Lyons, ngƣời đặt nền móng cho cơ sở lí luận về quan hệ bộ phận –
chỉnh thể. Những đóng góp của các nhà nghiên cứu về quan hệ bộ phận – chỉnh

thể trong cấu trúc câu tiếng Việt càng nhằm làm cho ngữ pháp tiếng Việt trở lên
hấp dẫn hơn, thiết thực hơn đối với ngƣời học, ngƣời nghiên cứu.
1.1. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phƣơng diện từ vựng
ngữ nghĩa
Ở phƣơng diện từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, tác giả Elanine S.Andersen
cũng phát hiện ra những nguyên tắc phổ quát chi phối các từ đã đƣa ra những
kết luận đầy sức thuyết phục. Vì vậy, khi xem xét mối quan hệ bộ phận – chỉnh
8


thể ở phƣơng diện này tác giả nói rằng: Cần phân biệt sự phân loại – loại
(Taxonomie) tức là có sự phân chia một loại lớn thành các tiểu loại với sự phân
loại bộ phận, là sự phân chia một toàn thể thành nhiều bộ phận tạo nên nó. Ví dụ
nhƣ sự phân loại hoa thành huệ, hồng… lay ơn, tầm xuân, và hồng tiếp tục lại
đƣợc chia thành hồng nhung, hồng bạch… là sự phân loại – loại. Còn sự phân
chia cơ thể thành đầu, mình, tay, chân… rồi đầu chia thành mắt, mũi, tai… tiếp
đó mắt đƣợc chia thành lông mày, mi, lòng trắng, lòng đen, con ngươi… là sự
phân loại - bộ phận (partologie – thuật ngữ của EsAndersen) [13; 150]. Ở
phƣơng diện này, tác giả Đỗ Hữu Châu cũng có những kết luận đầy sức thuyết
phục khi xem xét mối quan hệ bộ phận chỉnh thể, tác giả nói rằng: Có sự phân
chia một chỉnh thể (toàn thể) thành những bộ phận tạo nên chúng. Ví dụ Người
với nghĩa là cơ thể là một chỉnh thể đƣợc phân chia thành các bộ phận nhƣ: đầu,
mình, chân, tay, cổ… Hoặc hoa là một loài thực vật là một chỉnh thể đƣợc cấu
tạo bởi các bộ phận nhƣ cành, lá, cánh, nhị... [13, 212].
Đi sâu vào tìm hiểu tác giả còn chia quan hệ cấp loại phân biệt với quan
hệ toàn bộ - bộ phận. Các từ đầu, mình, tay, chân… có quan hệ bộ phận so với
từ ngƣời (theo nghĩa cơ thể). Quan hệ toàn bộ - bộ phận cũng có tính chất tôn ti,
có nghĩa là có nhiều bậc phân chia giữa một đơn vị đƣợc xem là toàn bộ với các
bộ phận của chúng. Ví dụ người phân chia bậc thứ nhất thành đầu, mình, tay,
chân. Rồi đầu lại phân chia thành lông mày, lông mi, tròng mắt… Trật tự các

bậc phân chia, tính phân chia trực tiếp hay cách bậc (người, đầu là phân chia
trực tiếp; người, mắt là cách một bậc, người, mi là cách hai bậc) có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định tính bắc cầu có quan hệ toàn bộ - bộ phận. Về nguyên
tắc, bộ phận của một bộ phận thuộc một toàn bộ cũng là toàn bộ của bộ phận đó
mắt của mặt, mặt của đầu do đó mắt là của đầu; cánh cửa của cửa, cửa của nhà
cho nên cánh cửa là của nhà. Tuy vậy, sự cách bậc quá xa sẽ khiến cho sự xác
lập quan hệ bộ phận – toàn bộ trở nên thiếu tự nhiên, ví dụ: ít khi chúng ta nói
mi của thân thể (của ngƣời).
Với quan điểm trên của tác giả, chúng tôi có thể hiểu một cách đơn giản
đó chính là mối quan hệ giữa giống với loài hay thân thể với tứ chi tức là mối
9


quan hệ bao hàm nhau: Cái bộ phận nằm trong cái chỉnh thể và muốn có một
chỉnh thể hoàn chỉnh thì phải đƣợc cấu tạo nên từ nhiều bộ phận của chính nó.
Nghiên cứu sâu hơn tác giả nhận thấy trong các bộ phận chỉnh thể lại có
sự phân biệt giữa bộ phận khả li và bộ phận bất khả li của chỉnh thể. Bộ phận
bất khả li là bộ phân cấu thành chỉnh thể một cách tự nhiên, thiếu chúng thì toàn
bộ trở nên không hoàn chỉnh, có khuyết tật (thiếu tay, chân gọi là què, thiếu một
mắt gọi là chột). Còn bộ phận khả li là bộ phận thƣờng có mặt trong toàn bộ
nhƣng thiếu chúng toàn bộ không vì thế mà trở thành có khuyết tật. Ví dụ: với
chiếc xe máy chẳng hạn thì bộ phận khả li là gương xe, giọ xe… Nếu không có
những bộ phận này thì chiếc xe vẫn hoạt động bình thƣờng và không hề thấy có
khuyết tật, hay ngôi nhà đƣợc xem là bộ phận khả li nhƣ quả đấm (cửa), gạch
lát… Ngôn ngữ học đã chú ý đến những hành vi ngữ pháp riêng của các từ bộ
phận bất khả li. Ví dụ: Ít khi chúng ta nói tôi có tay hoặc tôi có hai tay hoặc tôi
có đầu, nhà có mái… So sánh tôi có tiền, tôi có túi, tôi có áo, tôi có vàng…
Những cách nói nhƣ vậy là thừa về thông tin vì những thông tin do câu trên
cung cấp đƣợc xem là điều hiển nhiên, là những cái có sẵn là thuộc tiền giả định
giao tiếp nếu nhƣ bình thƣờng sử dụng đến những cách nói này thì sẽ ít nhiều

gây sự chú ý khác biệt đối với những ngƣời tham gia giao tiếp cùng, họ sẽ chú ý
đến những bộ phận đó và suy nghĩ về bộ phận đó nhƣ thế nào? Có bất thƣờng
hay không ? Bởi vậy thông tin phát ra thƣờng phải có định ngữ kèm theo các từ
ngữ chỉ bộ phận và lƣợng thông tin chủ yếu nằm trong các định ngữ này (tôi có
một bàn tay khéo léo, nhà có ba gian, tôi có một tay, tôi có đầu méo, bông hoa
có sáu cánh…). Trong tiếng Việt, nói chung chúng ta không dùng các loại từ chỉ
bộ phận bất khả li của mình (gãi tay, lắc đầu, chép miệng…). Kết cấu động từ
và tính từ ở trƣớc cũng là dấu hiệu của các danh từ chỉ bộ phận bất khả li (đau
đầu, bạc tóc, tịt mũi, què tay…). Sự phân biệt này, trong bộ phận - chỉnh thể chỉ
mang tính tƣơng đối không phải lúc nào cũng rõ ràng nên nhiều lúc cách dùng
của hai bộ phận này cũng có thể có ý thay thế nhau. Lấy ngay sự phân chia cơ
thể con ngƣời: Nếu chia người đến đầu rồi đầu đến mắt, mũi... hay đầu đến mặt
rồi mới đến mắt? Nếu chia người đến tứ chi rồi mới đến tay, chân? Nếu chia
10


đầu thành mặt thì phần sau mặt gọi là gì? Gáy có phải là từ ngang bậc với mặt
hay không? Trong bộ phận khả li đƣợc dùng một cách cố ý nhƣ bộ phận bất khả
li và ngƣợc lại, bộ phận bất khả li đƣợc dùng một cách cố ý nhƣ bộ phận khả li.
Nhƣng dù đƣợc dùng ở trong trƣờng hợp nào thì nó cũng đều thể hiện đƣợc giá
trị trong bộ phận chỉnh thể.
1.2. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phƣơng diện cụm từ
Khác với Đỗ Hữu Châu, tác giả Nguyễn Kim Thản nghiên cứu mối quan
hệ này trong câu chứa vị tố, mà vị tố chính là những từ chỉ hành động của bộ
phận cơ thể đƣợc tập hợp lại trong khái niệm có tên gọi là “Nhóm động từ chỉ
hành động của bộ phận chỉ cơ thể”, thì ông cho rằng hành động đó là di chỉ thể
(vật hữu sinh) gây ra và chuyển tới bộ phận cụ thể của cơ thể.
Ví dụ:
1. Hắn trợn mắt. [30; 180]
2. Thị liếc mắt cười tít. [30; 18]

3. Ông lý cau mặt, lắc đầu. [30; 21]
Các ví dụ trên đây đã chứng minh rất rõ cho quan điểm của tác giả khi nói
về “nhóm động từ chỉ hành động của bộ phận chỉ cơ thể”. Thật vậy, ở các câu
(1), (2), (3) thì những động từ chỉ hoạt động là trợn, liếc, lắc đều do các từ chủ
thể tƣơng ứng là hắn, thị, ông gây ra đối với các bộ phận cụ thể trên cơ thể họ là
mắt và đầu.
Nhƣ vậy, chủ thể ở đây trong mối tƣơng quan với bộ phận chính là chỉnh
thể. Hay nói một cách dễ hiểu hơn thì chỉnh thể (danh từ) đƣợc biểu thị bằng
hoạt động của các động từ đem lại thì tác động đến đối tƣợng là hoạt động
chuyển tới, đối tƣợng này chính là những danh từ biểu hiện những bộ phận của
con ngƣời nhƣ: mặt, răng, chân, tay, tóc, đầu, mắt, mày, mồm, môi, lưỡi, mép...
Còn đối với động vật là: mõm, sừng, đuôi... Tuy nhiên, không phải động từ và
danh từ nào cũng kết hợp đƣợc với nhau vì khi kết sự kết hợp của chúng trên
mặt ngữ nghĩa đang còn gặp nhiều hạn chế nên chỉ đƣợc kết hợp một cách cụ
thể, hợp lí về mặt ngữ nghĩa giữa các động từ và danh từ. Ví dụ: Chỉ nói nhắm

11


mắt chứ không ai nói nhắm mồm và cũng có thể nói im mồm chứ không phải là
im mắt.
Quan hệ chỉnh thể và bộ phận là quan hệ giữa một bên là kẻ gây ra hành
động (chỉnh thể) với một bên là đối tƣợng chịu tác động của hành động (bộ phận
của chỉnh thể) thông qua động từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ thế. Chẳng hạn
xét trên cơ thể một con ngƣời thì quan hệ đó đƣợc diễn ra là: Anh ấy mím chặt
môi, nó lắc đầu, nó quắc mắt lên, nó đá chân… Tuy nhiên, khi xét quan hệ bô
phận – chỉnh thể ở phƣơng diện này thì cần phải chú ý tới trƣờng hợp ngƣợc lại
là danh từ chỉ bộ phận biểu thị đối tƣợng mà hoạt đông chuyển tới, đối tƣợng
này chỉ có thể trở thành chủ thể của hành động do chính động từ biểu thị.
Ngoài ra tác giả Nguyễn Kim Thản còn liệt kê một số những động từ đặc

chỉ những hành động của bộ phận cơ thể nhƣ: nhắm, cau, bước, cúi, chép, chìa,
chợp, chớp, dang, há, hất, khụy, khom, khiễng, lắc lè, liếc, lim dim, ngoắt,
nguẩy, nghển,ngước, chum, với, vục, xòe, xua... Bên cạnh đó còn có một số dành
cho động vật nhƣ: quắt, quặp,cúp, cụp, húc, ngoe nguẩy, ve vẩy...
Nhƣ vậy, các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể ở phƣơng diện cụm
từ mà tác giả Nguyễn Kim Thản nghiên cứu đã cho thấy đƣợc mối quan hệ giữa
động từ chỉ hành động và danh từ chỉ bộ phận của cơ thể trong cấu trúc của tiếng
Việt. Sự kết hợp của chúng đã làm cho quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu
càng trở nên phong phú về mặt ngữ nghĩa.
1.3. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phƣơng diện cú pháp
Xét về quan hệ bộ phận – chỉnh thể, nhƣng ở mỗi tác giả lại có cách
nghiên cứu ở những phƣơng diện khác nhau. Nếu nhƣ tác giả Đỗ Hữu Châu xem
xét quan hệ này trên phƣơng diện từ vựng – ngữ nghĩa, tác giả Nguyễn Kim
Thản lại xem xét ở góc độ cụm từ thì tác giả Diệp Quang Ban lại tập trung nhiều
ở phƣơng diện cú pháp.
Việc nhìn nhận quan hệ bộ phận – chỉnh thể góc độ này tác giả muốn
nhấn mạnh rằng: Phạm trù này đƣợc thể hiện khá đa dạng, quan sát kĩ sẽ thấy có
một số đặc điểm giống với một số loại quan hệ khác đó là quan hệ tồn tại định vị
hay sở hữu trên cơ sở phân tích nguồn ngữ liệu, điều đáng chú ý nhất là tác giả
12


đã chia quan hệ này thành hai nhóm, đó là: Quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong
kiến trúc chứa vị tố tĩnh trạng và quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong các kiến trúc
chứa vị tố hoạt động.
Nhóm thứ nhất là quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong kiến trúc chứa vị tố
tĩnh trạng, tức là chúng ta xem xét những từ ngữ diễn tả sự thay đổi của bộ phận
cơ thể đƣợc dùng, là đặc trƣng của chỉnh thể ở trạng thái tĩnh.
Ví dụ:
- Bác Ba đau dạ dày.

Ở ví dụ này cho thấy đau dạ dày đƣợc dùng để nêu đặc trƣng cho Bác Ba
– là chỉnh thể một cách trực tiếp, tức là một trạng thái nào đó (đau) của một bộ
phận là dạ dày đƣợc dùng làm đặc trƣng của chỉnh thể (Bác Ba) nghĩa là chỉnh
thể có thể đƣợc mô tả thông qua bộ phận, đồng nghĩa với cách hiểu Bác Ba tình
trạng sức khỏe không đƣợc tốt nhƣ ngƣời bình thƣờng vì bác mắc bệnh đau dạ
dày. Vì vậy, từ đau cũng có mối liên hệ nghĩa một cách trực tiếp với Bác Ba vì
chỉ nhờ nghĩa của từ đau mà ngƣời đọc mới nhận thấy đƣợc Bác Ba không đƣợc
khỏe. Trên cơ sở đó, về mặt ngữ pháp dạ dày là một bộ phận của Bác Ba. Vậy
có thể gọi dạ dày là bổ ngữ - bộ phận, còn Bác Ba là chủ ngữ - chỉnh thể.
Ngoài ra chúng ta còn có những câu:
Ví dụ:
- Bác Ba dạ dày yếu.
Tại đây đặc trƣng của bộ phận cũng đƣợc lấy làm đặc trƣng của chỉnh thể
(nhƣng dạ dày có đƣợc nhấn mạnh hơn) cho nên cách lí giải Bác Ba trong câu là
chủ ngữ - chỉnh thể, còn dạ dày yếu là một kiến trúc chủ vị làm chủ ngữ nhƣ
nhiều tác giả chủ trƣơng hiện nay là có thể chấp nhận đƣợc.
Trong các phát ngôn tiếng Việt hiện nay có trong đời sống và trong các
tác phẩm văn học viết về quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong kiến trúc chứa vị tố
tĩnh trạng cũng chiếm một khối lƣợng đáng kể.
Ví dụ khác nhƣ:
- Trương Phi trợn mắt tròn xoe. [26; 76]
- Hắn cứ ngồi ngẩn mặt. [27; 52]
13


- Bê-li-cốp tái mặt đứng dậy. [28; 68]
- Lí Cường hơi tái mặt. [27; 147]
Nhóm thứ hai là quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị
tố - hoạt động. Tức là chúng tôi xem xét mối quan hệ này bằng các động từ chỉ
hoạt động của bộ phận do chỉnh thể đó gây ra (ở trạng thái động). Chính ở trạng

thái này đã làm cho quan hệ bộ phận – chỉnh thể ngày càng phong phú và phức
tạp hơn đồng thời cũng gây hứng thú nhiều hơn với ngƣời đọc.
Ví dụ:
- Anh Long co tay.
Cùng với ví dụ này chúng ta còn bắt gặp:
Ví dụ:
- Anh Long co dây.
Từ co ở Anh Long co dây là động từ ngoại động đích thực, còn dây là bổ
ngữ - khách thể. Điều này là hợp lí và không có gì đáng phải bàn thêm, mà điều
đáng bàn ở đây là Anh Long co tay thì biểu hiện những gì?
Động từ chỉ hoạt động co trong ví dụ Anh Long co tay không chỉ đơn
thuần đƣợc miêu tả nhƣ câu Anh Long co dây mà ở ví dụ này động từ co có tính
chất nƣớc đôi. Một mặt, nó khác động từ chỉ hoạt động ngoại động xét trong mối
quan hệ chủ ngữ - chỉnh thể, nghĩa là Anh Long là vật tạo ra hoạt động và bằng
hoạt động co tác động lên vật khác là tay. Nói cách khác là chủ thể Anh Long
gây ra hoạt động co và hoạt động này tác động lên bộ phận là tay. Mặt khác, đối
tƣợng (bộ phận) chịu tác động của hoạt động lại là một bộ phận nằm trong chỉnh
thể nêu ở chỉnh thể và bộ phận này có khả năng tác động lên chỉnh thể. Do đó,
xét từ góc độ bộ phận thì vị tố có tính chất nhƣ một động từ nội động. Và nhƣ
vậy, chủ thể của hành động lại là bộ phận tay. Điều này đƣợc chứng thực bằng
một phép chuyển hóa nhƣ sau:
- Tay (Anh Long) co.
Nhƣ vậy, trong câu Anh Long co tay thì động từ co cùng một lúc có cả
mối quan hệ với cả danh từ đứng trƣớc chỉ chỉnh thể (Anh Long) và cả danh từ
đứng sau chỉ bộ phận (tay) theo kiểu vật – đặc trƣng của vật, giống nhƣ kiểu
14


kiến trúc chứa vị tố - tĩnh trạng là Bác Ba đau dạ dày (chỉnh thể - vị tố - bộ
phận) nhƣng điều khác biệt ở câu Anh Long co tay so với Bác Ba đau dạ dày là

ở tính chất của nó. Đó là nó không chỉ khác ở tính chất của hoạt động co mà còn
ở tính chất ngoại động đặc biệt.
Nếu ở ví dụ Anh Long co dây thì dây là một vật chịu tác động hoàn toàn
của co nhƣng tay lại có thể hoạt động bằng chính hoạt động nêu ở vị tố (hoạt
động co). Vì thế tay sẽ không phụ thuộc vào chỉnh thể Anh Long. Còn ở câu Anh
Long co tay thì Anh Long là ngƣời điều khiển tay mình hoạt động, là nguyên
nhân của sự kiện co tay tức là chủ thể đã tác động lên bộ phận của cơ thể. Về
mặt ngữ pháp, đôi chiếu với dây trong Anh Long co dây thì tay trong Anh Long
co tay rõ ràng đƣợc xem là một bổ ngữ. Nhƣng xét về mặt ngữ nghĩa, trong mối
quan hệ với co nếu dây là khách thể thì tay là bộ phận, dây là thuộc vật sở hữu
của Anh Long.
Cũng giống nhƣ kiến trúc có quan hệ bộ phận chỉnh thể chứa vị tố - tĩnh
trạng nguồn ngữ liệu đƣợc sử dụng rộng rãi trong đời sống và trong các tác
phẩm văn chƣơng, thì ở trạng thái động này chúng tôi đã khảo sát đƣợc khối
lƣợng nguồn ngữ liệu khá phong phú, nhƣ:
- Lúc bấy giờ chị mới ngẩng đầu lên nói chuyện với Liên. [27; 96]
- Pá tra hất tay. [30; 79]
- Cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. [30; 4]
- Mị nhắm mắt lại không dám nhìn. [30; 9]
- Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. [30; 9]
Khi nghiên cứu về quan hệ bộ phận – chỉnh thể, nếu chúng ta chỉ dừng lại
ở việc xem xét chúng ở phƣơng diện từ vựng - ngữ nghĩa (Đỗ Hữu Châu), ở
phƣơng diện cụm từ (Nguyễn Kim Thản), ở góc độ cú pháp (Diệp Quang Ban)
thì chắc hẳn chƣa thể nào đầy đủ và sâu sắc đƣợc. Vì vậy, để cho việc tìm hiểu
nhìn nhận quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt đƣợc đầy đủ
và hoàn chỉnh hơn thì đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu thêm những quan điểm
mà J.Lyons đã nêu ra làm cơ sở.

15



1.4. Phân loại các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể
Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt
là một mối quan hệ đa dạng và phức tạp không chỉ thể hiện trên cơ thể ngƣời mà
nó còn tồn tại ở các sự vật hiện tƣợng khác nhau trong cuộc sống. Vì vậy, khi
xác định phạm trù các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể này cần phải có
mối quan hệ mật thiết với các quan hệ khác, bởi đây không phải là một phạm trù
có tính độc lập hoàn toàn. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội tại
mối quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu thì sẽ không thấy đƣợc cái hay cái
đẹp cái hấp dẫn của phạm trù này. Cho nên, nhất thiết trong khi nghiên cứu các
yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể là phải đặt nó trong mối quan hệ với
phạm trù quan hệ cấp loại và phạm trù quan hệ sở hữu.
1.4.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận – chỉnh thể
1.4.1.1. Khái niệm
Chúng ta có thể phát biểu khái niệm một cách cơ bản nhƣ sau:
Quan hệ bộ phận – chỉnh thể là quan hệ giữa các bộ phận không tách rời
(bất khả li) hay tách rời (khả li) của bộ phận con ngƣời với chính cơ thể con
ngƣời (chỉnh thể đó).
Ví dụ:
- Hắn giương mắt nhìn thị không hiểu. [30; 26]
Ở ví dụ này có thể hiểu hắn và mắt là một cặp từ có quan hệ bộ phận –
chỉnh thể với nhau, trong đó hắn là từ chỉ “chỉnh thể”, còn mắt là từ chỉ bộ phận
nằm trong (cấu thành) “chỉnh thể” hắn. Mắt là yếu tố (bộ phận) thể hiện đặc
trƣng cho hắn (chỉnh thể), hắn- chỉnh thể là nguyên nhân gây ra hành động
giương mà mắt là chủ thể thực hiện hành động giương.
Hay ví dụ:
- Trương Phi trợn mắt tròn xoe. [26; 176]
Cũng nhƣ ví dụ trên, chúng ta thấy ở câu này có thể thấy Trương Phi và
mắt là một cặp từ có quan hệ bộ phận – chỉnh thể với nhau đƣợc thể hiện:
Trương Phi là từ chỉ chỉnh thể, còn mắt là yếu tố chỉ “bộ phận” nằm trong chỉnh

thể Trương Phi. Mắt cũng chỉ là một trong các yếu tố thể hiện đặc trƣng của
16


Trương Phi (bởi ngoài mắt, Trương Phi còn đƣợc cấu thành bởi các bộ phận
khác nhau nhƣ: mũi, chân, tay…). Trương Phi là nguyên nhân gây ra hành động
trợn mà mắt là chủ thể thực hiện hành động đó.
Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể xét quan hệ bộ phận – chỉnh thể gồm
những đặc trƣng cơ bản sau:
1.4.1.2. Đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận – chỉnh thể
Thứ nhất, quan hệ bộ phận – chỉnh thể trong câu tiếng Việt là quan hệ ngữ
nghĩa giữa các yếu tố đƣợc gọi là “bộ phận” và “chỉnh thể”. Bởi vì, hình thái của
từ trong tiếng Việt không làm nên những giá trị ngữ nghĩa cho chúng nên nếu
chỉ căn cứ vào hình thái của từ sẽ không có cơ sở nhận diện các từ có quan hệ bộ
phận – chỉnh thể.
Thứ hai, quan hệ bộ phận – chỉnh thể có nhiều biểu hiện đa dạng, có quan
hệ bộ phận – chỉnh thể ở dạng cơ bản: nguyên mẫu, có quan hệ bộ phận – chỉnh
thể có sự thể hiện khác so với dạng cơ sở - đó là quan hệ thành viên – tập hợp
một tiểu loại của quan hệ bộ phận – chỉnh thể.
Thứ ba, quan hệ bộ phận – chỉnh thể cũng có hiện tƣợng giao thoa vơi các
quan hệ khác nhƣ quan hệ cấp loại và quan hệ sở hữu… Sự giao thoa này, vừa
có những nét chung, đồng thời nó giúp ngƣời đọc phân biệt đƣợc từng loại quan
hệ đó.
1.4.2. Các yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể với những quan hệ có liên
quan
1.4.2.1. Yếu tố chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể với quan hệ cấp loại
(hyponymie)
Hai kiểu quan hệ này có những kiểu khác nhau rõ rệt.
Thứ nhất, quan hệ bộ phận – chỉnh thể là mối quan hệ hợp nhất đƣợc các
bộ phận cấu thành tách rời nhau hoặc có thể tách rời của một vật và toàn bộ vật

mà chúng tách rời lại là các bộ phận cấu thành (J.Lyons).
Ví dụ:
- Ông Lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời
dậm dọa. [30;21]
17


Ở ví dụ này, chúng tôi nhận thấy Ông Lý đƣợc hiểu là chỉnh thể và mặt và
đầu là những bộ phận cấu thành của chỉnh thể Ông Lý này, hai bộ phận mặt và
đầu chỉ là một bộ phận nhỏ trong số đông các bộ phận để cấu thành nên chỉnh
thể Ông Lý đƣợc hoàn chỉnh. Liên hệ với các sự vật khác chúng tôi thấy bàn
phím, màn hình… là những bộ phận tạo nên chiếc máy tính, cũng nhƣ cành, lá,
rễ … tạo nên chỉnh thể cây.
Thứ hai, quan hệ cấp loại (Hyponymie) lại là quan hệ kéo theo một chiều.
Nói tới quan hệ cấp loại là nói tới quan hệ “bao gồm” (Inclusion) và “nằm
trong”. [13; 208]
Ví dụ: Có hai từ chim và chim sáo là quan hệ cấp loại. Nhìn vào sự vật
chúng ta thấy rất rõ chim là thuộc loại lớn bao gồm có chim sáo (và chim sâu,
chim chích chòe, chim khướu, chim họa mi, chim chiền chiện...) còn ngƣợc lại
chúng ta lại thấy chim sáo là một bộ phận nhỏ nằm trong loài chim. Vì vậy, đối
với từ chim sáo thì từ chim là từ “thƣợng danh” (superordonne). Đối với từ chim
thì từ chim sáo là từ “hạ danh”.
Ví dụ:
Có hai câu sau:
Tôi nuôi chim sáo và Tôi nuôi chim.
Với hai cách phát ngôn ở trên thì đƣợc hiểu nhƣ sau: Nếu nói Tôi nuôi
chim sáo có nghĩa là Tôi nuôi chim, nhƣng nếu nói Tôi nuôi chim thì chƣa chắc
phải là Tôi nuôi chim sáo, mà có thể hiểu là Tôi nuôi chim khướu, Tôi nuôi chim
chìa vôi, Tôi nuôi chim họa mi…
Nhƣ vậy, quan hệ cấp loại là quan hệ giữa hai lớp của một loài nào đó, lớp

nọ bao hàm lớp kia, loài bé nằm trong loài lớn. Giả sử, ta có lớp (loài) chim là
thuộc loài lớn và một lớp ta gọi là chim cánh cụt, thuộc loài bé thì có thể hiểu
mối quan hệ cấp loài này là chim bao chứa chim cánh cụt và chim cánh cụt nằm
trong chim. Điều này khác với quan hệ bộ phận – chỉnh thể. Thật vậy, quan hệ
bộ phận – chỉnh thể là quan hệ trong một lớp và từng phần tử của nó tạo nên lớp
đó. Chẳng hạn, cũng nói về lớp chim nhƣng không phải là quan hệ giữa chim với
chim sáo hay chim cánh cụt mà là quan hệ giữa chim - chỉnh thể với đầu chim,
18


cánh chim, lông chim… Bộ phận chỉnh thể đó và giữa các bộ phận chỉnh thể
chim có mối quan hệ với nhau chứ không bao hàm nhau nhƣ lớp đầu chim,
không chứa đuôi chim.
Điểm khác biệt mà chúng tôi nhận thấy ở quan hệ cấp loại và quan hệ bộ
phận – chỉnh thể là: Ở quan hệ cấp loại là sự phân loại – loại (toxonomie) tức là
sự phân chia một lớp thành các tiểu loại, còn ở quan hệ bộ phận – chỉnh thể là sự
phân loại bộ phận, tức là sự phân chia một chỉnh thể thành những bộ phận tạo
nên chúng.
Quan hệ cấp loại và quan hệ bộ phận – chỉnh thể còn có những điểm khác
biệt cơ bản: Ở quan hệ cấp loại ý nghĩa của các từ “hạ danh” là sự loại biệt hóa ý
nghĩa của các từ “thƣợng danh”. Khi định nghĩa một từ “hạ danh” chúng ta có
thể dùng một từ “thƣợng danh”(hay ý nghĩa của nó) để diễn đạt phần chung, vì
theo cách nói của chúng ta thì có thể dùng từ thƣợng danh để làm ngoại biểu cho
nét nghĩa phạm trù chung cho các từ cùng một cấp loại J.Lyons cho rằng, ý
nghĩa của các từ “hạ danh” có thể xem là một sự định nghĩa, tức là thêm định
ngữ cho từ “thƣợng danh”.
Ví dụ: Nói tới giày thì ta có thể định nghĩa là “đồ dùng để đi cho bàn chân
khỏi chạm đất” và nó đƣợc hiểu là từ thƣợng danh. Điều này không đúng với
các bộ phận chỉ chỉnh thể. Chúng ta không thể nói bàn phím, màn hình, pin… là
máy tính đƣợc, mà chỉ có thể nói bàn phím là một bộ phận của máy tính.

Để thấy đƣợc sự khác biệt rõ nét hơn ở hai quan hệ này chúng ta có thể
dùng một bƣớc thử “trung gian” để xác định đặc điểm tính chất của từng loại
quan hệ. Đó chính là việc dùng quan hệ “chuyển tiếp” (transitives), cho nó kết
hợp với quan hệ cấp loại và quan hệ bộ phận – chỉnh thể xem cái nào có thể
phản ứng đƣợc và qua nghiên cứu chúng ta thấy kết quả của hai loại phản ứng
này không giống nhau. Quan hệ cấp loại có tính chuyển tiếp. Ví dụ: Nếu hoa là
từ thƣợng danh với hoa cúc, hoa cúc là từ thƣợng danh với hoa cúc trắng thì
theo tính chất bắc cầu hoa đƣợc xem là từ thƣợng danh của hoa cúc trắng
(chuyển tiếp). Còn đối với quan hệ bộ phận – chỉnh thể thì các bộ phận quan hệ

19


với chỉnh thể có tính chất tôn ti, nghĩa là có sự phân chia giữa một đơn vị đƣợc
xem là chỉnh thể với các bộ phận tạo nên chúng.
Ví dụ: Ngƣời phân thành đầu, mình, tay, chân rồi đầu lại phân chia thành
các bộ phận chia ở thứ bậc thứ nhất bao gồm: mắt, mũi, miệng, tóc rồi miệng lại
phân chia thành các bộ phận tạo nên nó nhƣ răng, lợi, lưỡi…
Nhƣ vậy, sự phân chia thứ bậc theo một trình tự nhất định trực tiếp hay
theo kiểu cách bậc thì đều có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính
chuyển tiếp của các từ chỉ quan hệ bộ phận – chỉnh thể. Chẳng hạn, sự phân chia
người có đầu là sự phân chia trực tiếp còn người đến miệng là sự phân chia cách
một bậc, còn từ người đến lưỡi là sự phân chia cách hai bậc. Về nguyên tắc thì
bộ phận của một bộ phận thuộc chỉnh thể thì cũng đƣợc xem nhƣ là bộ phận của
chỉnh thể đó nhƣ mắt là bộ phận của mặt mà mặt lại là một bô phận của đầu cho
nên mắt đƣợc xem là một bộ phận của đầu cho nên mắt đƣợc xem là bộ phận tự
nhiên,sự cách bậc không nên cách quá xa sẽ làm cho việc xác lập quan hệ bộ
phận – chỉnh thể vì thế mà trở nên thiếu tự nhiên. Vì vậy, không phải vô cớ mà
J.Lyons khẳng định rằng các quan hệ bộ phận từ vựng của quan hệ bộ phận –
chỉnh thể là những quan hệ không có chuyển tiếp (No-transitives) chứ không

phải là chuyển tiếp (transitives) và không chuyển tiếp (Intransitives).
Nói chung, sự khác biệt giữa quan hệ cấp loại và quan hệ bộ phận – chỉnh
thể nhƣ chúng ta đã nói là tƣơng đối rõ ràng trong những trƣờng hợp cánh tay,
thân thể, bánh xe, xe đạp… Tức là những trƣờng hợp mà những từ đang xét là
những danh từ cụ thể, biểu thị sự vật, vật lí rời (có thể đếm đƣợc). Tuy nhiên,
cũng có những ý kiến cho rằng quan hệ bộ phận – chỉnh thể cũng áp dụng đƣợc
vào những trƣờng hợp từ đang xem xét là những từ không phải những danh từ
cụ thể biểu thị sự vật rời. Trong những trƣờng hợp này, sự phân biệt giữa quan
hệ cấp loại và quan hệ bộ phận – chỉnh thể khó mà nhận ra đƣợc.
Theo J.Lyons, trong ngôn ngữ có những từ có thể đƣợc biểu thị bằng ngôn
ngữ nhƣ một quan hệ cấp loại hay một quan hệ bộ phận chỉnh thể. Đó không
phải là những danh từ cụ thể biểu thị sự vật rời, ví dụ nhƣ: đầu, mình, tay,
chân... với cơ thể, măng séc, tay áo… với áo mà là những danh từ trừu tƣợng
20


không đếm đƣợc, chẳng hạn, ngƣời ta có thể nêu ra mệnh đề tôi biết viết sẽ giúp
ta liên tƣởng nó hàm chứa một loạt các mệnh đề khác nhau nhƣ tôi biết viết thư,
tôi biết viết văn, tôi biết viết kịch… Nhƣ vậy, động từ nằm trong tập hợp đó (viết
thƣ, viết văn, viết kịch) là một cấp loại của viết, đồng thời cũng chỉ ra một hoạt
động là bộ phận mà hoạt động viết chỉ ra.
Trong khi viện dẫn những chỗ không rõ ràng giữa quan hệ cấp loại và
quan hệ bộ phận – chỉnh thể. J.Lyons còn cho rằng trong nội bộ quan hệ bộ phận
– chỉnh thể còn có một kiểu khác mà chúng tôi gọi là quan hệ “thành viên – tập
hợp” (thuật ngữ của Diệp Quang Ban).
Vì lẽ đó, có thể nói quan hệ tập hợp - thành viên là một kiểu nhỏ nằm
trong quan hệ bộ phận – chỉnh thể. Cơ sở để xếp quan hệ tập hợp – thành viên
vào kiểu quan hệ bộ phận – chỉnh thể là trong quan hệ tập hợp – thành viên, các
thành viên là những đơn vị cấu thành tập hợp, cũng nhƣ những bộ phận là yếu tố
cấu thành nên chỉnh thể. Tuy nhiên, các bộ phận trong quan hệ bộ phận – chỉnh

thể là các bộ phận hữu cơ cấu thành chỉnh thể còn các thành viên là những đơn
vị tách rời, tách biệt, hoàn chỉnh nhƣng cũng có cấu thành tập hợp, chính vì thế
mà trong thực tế ngôn ngữ chúng có biểu hiện ngữ pháp khác nhau. Về vấn đề
này, chúng tôi tán thành ý kiến rất sâu sắc của một trong những tác giả đầu tiên
có những đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu, đồng thời cũng có nhiều kết luận
sáng tỏ về phƣơng diện cú pháp đối với phạm trù quan hệ bộ phận – chỉnh thể và
tập hợp – thành viên là tác giả Diệp Quang Ban.
Tính sâu sắc trong ý kiến của tác giả thể hiện ở những căn cứ chứng tỏ có
một sự khác biệt nho nhỏ trong mối quan hệ bộ phận – chỉnh thể với thành viên
– tập hợp trên cơ sở phân tích nguồn ngữ liệu ở hai bình diện: Kiến trúc chứa vị
tố - tĩnh trạng và kiến trúc chứa vị tố - hoạt động. Cần khẳng định rằng sự khác
biệt này không vì thế làm cho mối quan hệ bộ phận – chỉnh thể và quan hệ thành
viên – tập hợp phân biệt nhau mà nó chính là điều kiện để coi quan hệ thành
viên – tập hợp nhƣ một tiểu loại thuộc quan hệ bộ phận – chỉnh thể. Để tìm hiểu
vấn đề này có thể trở lại với bài biết “Bổ ngữ chủ thể - một thuật ngữ cần thiết

21


cho việc phân tích ngữ pháp tiếng Việt” (Diệp Quang Ban – Tạp chí Ngôn ngữ
học – số 4 – 1983).
Thứ nhất, ở kiến trúc chứa vị tố tĩnh trạng: Cũng đƣợc hiểu nhƣ phần
quan hệ bộ phận – chỉnh thể xét ở phƣơng diện cú pháp. Nhƣng điều khác ở
phần này là chúng tôi xét thêm quan hệ thành viên – tập hợp trong trạng thái tĩnh
chứa vị tố ở đây với quan hệ bộ phận – chỉnh thể khác biệt nhƣ thế nào?
Ví dụ:
Tiểu đoàn 1 lạc ba chiến sĩ. (1)
Ở ví dụ này, ngƣời bị thất lạc đƣợc nhắc tới là ba chiến sĩ những thành
viên trong tập hợp của Tiểu đoàn 1, chứ không phải Tiểu đoàn 1 với tƣ cách là
một tập hợp chứa chiến sĩ và những ngƣời chỉ huy. Đồng thời ba chiến sĩ là chủ

đề lạc. Trong quan hệ bộ phận – chỉnh thể, đặc trƣng của bộ phận thƣờng đƣợc
lấy làm đặc trƣng của chỉnh thể. Trong quan hệ thành viên – tập hợp, mỗi thành
viên là một đơn vị rời hoàn chỉnh, độc lập là đặc trƣng của thành viên chỉ đƣợc
dùng để miêu tả chính thành viên ấy chứ không phải là miêu tả chung cho cả tập
hợp. Do vậy, ở phƣơng diện này thì không thể hiểu lạc ba chiến sĩ là vị ngữ của
Tiểu đoàn 1 đƣợc. Ở ví dụ này, về phƣơng diện ngữ nghĩa giữa các thành viên
trong tập hợp, trong việc kết hợp các yếu tố từ loại với nhau chúng ta thấy: Vì từ
lạc thuộc về ba chiến sĩ cho nên giữa Tiểu đoàn 1 và từ lạc không có quan hệ
nghĩa cho quan hệ chủ ngữ - vị ngữ trực tiếp (không có từ chỉ quan hệ) nhƣ
trong câu Tiểu đoàn 1 lạc.
Nhƣ vậy, về thực chất trong câu (1) Tiểu đoàn 1 có quan hệ nghĩa với ba
chiến sĩ theo kiểu thành viên – tập hợp, chứ không phải theo nghĩa quan hệ bộ
phận – chỉnh thể.
Ví dụ:
- Lợn còn 5 con. (2)
Ở ví dụ này, Lợn khi dùng không có danh từ - từ loại, con thƣờng đứng
trƣớc có nghĩa chỉ giống Lợn nói chung cho nên ý nghĩa tập hợp và thành viên ở
đây đƣợc thể hiện rất rõ giữa Lợn và con không còn một cơ sở nghĩa cho một
quan hệ chủ - vị trực tiếp. Từ đó, cho thấy Tiểu đoàn 1 ở ví dụ (1) và Lợn ở ví
22


×