Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.98 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HẢI LÝ

LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THI HẢI LÝ

LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI
Chuyên ngành :Công tác xã hội
Mã số :60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Lý luận về công tác xã hội đối với
người cao tuổi” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Hà Thị Thư và những kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Phạm Thị Hải Lý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG VỀ
LÝ LUẬN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN THẾ
GIỚI………………………………………………………………………………..9
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của lý luận công tác xã hội đối với người cao
tuổi trên thế giới ......................................................................................................... 9
1.2. Các lý thuyết tiếp cận Công tác xã hội đối với người cao tuổi trên thế giới ............ 24
1.3. Thực trạng lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi trên thế giới ............. 31
Chương 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG VỀ
LÝ LUẬN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM . 41
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của lý luận công tác xã hội đối với người cao

tuổi ở Việt Nam ........................................................................................................ 41
2.2. Các lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam
.................................................................................................................................. 48
2.3. Thực trạng về lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam.............. 54
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ
LUẬN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM........ 72
3.1. Định hướng........................................................................................................ 72
3.2. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc nghiên cứu lý luận công tác xã hội đối với
người cao tuổi ở Việt Nam hiệu quả ........................................................................ 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTXH

CÔNG TÁC XÃ HỘI

DVYT

DỊCH VỤ Y TẾ

NB

NHẬT BẢN

NCT

NGƯỜI CAO TUỔI


NDT

NHÂN DÂN TỆ

NVCTXH

NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI

TC

THÂN CHỦ

TQ

TRUNG QUỐC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trọng lão là một truyền thống ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia châu Á
khác. Người già là lớp người có quá trình cống hiến lâu dài cho gia đình, xã hội và
đất nước và được coi là thế hệ duy trì tính liên tục phát triển của nhân loại. Ngày
nay, sự già hoá dân số đang tăng nhanh ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Già hóa dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ phụ thuộc người già cũng sẽ tăng
lên. Trong các chính sách xã hội, người già thường được coi là nhóm dân số đặc
biệt, nhóm yếu thế cần được ưu tiên về an ninh lương thực và sự chăm sóc về mọi
mặt từ phía gia đình, và cộng đồng xã hội.
Theo thống kê của Tổ chức Hỗ trợ người cao tuổi quốc tế (2015): trên thế
giới có gần 100 triệu người cao tuổi (60 tuổi trở lên) chiếm hơn 12% dân số; vào
năm 2030 sẽ là hơn 16%. Dự báo đến năm 2050, toàn thế giới sẽ có trên 2 tỉ người

cao tuổi, 65% người cao tuổi hiện đang sống ở các nước nghèo, đang phát triển; tới
năm 2050 sẽ có 80% NCT sống tại các quốc gia này. Cùng với sự gia tăng tỷ lệ già
hóa, số người cao tuổi sống trong hoàn cảnh khó khăn cũng ngày càng tăng, đặc biệt
là tại các nước nghèo và có chiến tranh. Nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, ô nhiễm
môi trường, lối sống lạc hậu v.v. chính là những nguyên nhân khiến nhiều người
cao tuổi trên thế giới còn sống nghèo khổ, không được chăm sóc, bị ngược đãi, bị
mất quyền quyết định...
Ở Việt Nam, tỷ lệ người cao tuổi đang ngày một tăng cao: năm 2010, số
NCT Việt Nam là 8,15 triệu trong tổng số 86,75 triệu người, chiếm 9,4% dân số cả
nước. Người cao tuổi ở Việt Nam còn có những khó khăn như: 79% không có lương
hưu hoặc trợ cấp bảo trợ xã hội; có rất ít chương trình vì lợi ích người cao tuổi;
người cao tuổi khó tiếp cận được nguồn vốn tín dụng; rất ít bệnh viện hoặc cơ sở y
tế, khoa lão khoa, giường bệnh dành cho người cao tuổi; thiếu các trung tâm và cơ
sở chăm sóc người cao tuổi; 90% người cao tuổi chưa được kiểm tra sức khỏe định
kì; 50% người cao tuổi không có thẻ Bảo hiểm y tế…[ />Có thể thấy người cao tuổi còn sống trong tình trạng khó khăn và cần được quan
tâm, chăm sóc của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
1


Về mặt lý luận, trong những năm vừa qua ở Việt Nam đã có nhiều chuyên
gia và các học giả nghiên cứu về cơ sở lý luận của công tác xã hội đối với người cao
tuổi. Đa phần những công trình đó được tiếp cận dựa trên nhiều phương diện khác
nhau dưới góc độ chuyên môn và nghề nghiệp họ đang đảm nhận, qua đó góp phần
xây dựng và thử nghiệm các phương pháp, mô hình thực hành đối với người cao
tuổi ở Việt Nam và cho những kết quả nhất định. Nhưng nhìn chung về quy mô và
số lượng các nghiên cứu vẫn còn ở mức độ hạn chế. Một mặt, vì công tác xã hội là
một ngành-nghề mới được xác lập ở Việt Nam trong mấy năm trở lại đây, nên các
giáo trình giảng dạy và tài liệu chuyên khảo còn khan hiếm. Mặt khác, đội ngũ giáo
viên và các nhà nghiên cứu có chuyên ngành công tác xã hội chưa nhiều, nên các
nghiên cứu chủ yếu vận dụng dựa vào những công trình của một số nước trên thế

giới, do đó khi áp dụng vào Việt Nam cũng gặp phải những hạn chế nhất định. Vì
vậy, tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, đào tạo trong lĩnh vực công tác xã hội
đối với người cao tuổi là rất ít.
Xuất phát từ các lí do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Lý luận về công tác
xã hội đối với người cao tuổi”để làm Luận văn thạc sỹ, đóng góp cho các nghiên
cứu lý luận ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về người cao tuổi và công tác xã hội đối với người cao tuổi đã có
khá nhiều ở Việt Nam và được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận người cao tuổi và công tác xã hội đối với
người cao tuổi.
Trong cuốn Bách khoa quốc tế về xã hội học (International encyclopedia of
sociology) phần Người cao tuổi và sự quan tâm của các tổ chức xã hội khi đưa ra
khái niệm về người cao tuổi các tác giả phân chia theo độ tuổi như sau [42]: + 65 –
74: người cao tuổi trẻ; 75 – 84: trung cao tuổi; > 84: nhóm già. Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) lại phân chia các lứa tuổi của người già [93]: + 60 - 74: người cao tuổi;
75 - 90: người già; > 90: người già sống lâu [15, tr. 23]. Như vậy, theo nghiên cứu
này thì người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên.

2


Nghiên cứu của tác giả Lê Văn Khảm “Khía cạnh văn hóa trong cách thức
chăm lo sức khỏe của người cao tuổi (Nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội)” cho
rằng: tùy theo các giai đoạn lịch sử gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, thành
tựu y tế và sự gia tăng tuổi thọ, việc xác định lứa tuổi nào được xem là tuổi già có
sự khác nhau. Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, NCT là những công
dân Việt Nam có đủ từ 60 tuổi trở lên [17]. Nghiên cứu đưa ra khái niệm về người
cao tuổi và các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thọ của con người Việt Nam.
Năm 1999, tác giả Nguyễn Hữu Dương với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn

việc xây dựng chính sách xã hội với người già”, nghiên cứu chỉ ra một số vấn đề lý
luận liên quan đến người gia/người cao tuổi; các mốc xác định và các chỉ số đánh
giá người già. Trên cơ sở đó, đề xuất các chính sách nhằm trợ giúp cho người già tại
cộng đồng [16, tr. 6]. Nghiên cứu này đã đưa ra khái niệm người cao tuổi, tác giả
cho rằng người cao tuổi hay còn gọi là người già là những người từ 60 tuổi trở lên.
Năm 2009, tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh với giáo trình “Người cao tuổi và các
mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam”, tác giả trình bày khá chi tiết những
vấn đề về lý luận liên quan đến người cao tuổi, chăm sóc người cao tuổi và cách
thức tiếp cận dựa trên nhiều phương diện khác nhau. Trên cơ sở đó, nghiên cứu còn
chỉ ra các mô hình trợ giúp người cao tuổi và các dịch vụ xã hội trợ giúp các đối
tượng [18, tr. 15]. Trong tác phẩm này, tác giả xác định người cao tuổi là những
người từ 60 tuổi trở lên và đồng thời chỉ ra một số mô hình rất hiệu quả để chăm sóc
người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay.
Năm 2012, tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa với giáo trình “Công tác xã hội
trợ giúp người cao tuổi”, nội dung của giáo trình tập trung nghiên cứu các vấn
đề như: kiến thức chung về người cao tuổi; những mô hình trong nước và kinh
nghiệm quốc tế trong chăm sóc, trợ giúp người cao tuổi; hệ thống các lý thuyết
và kỹ năng, phương pháp ứng dụng trong công tác xã hội với người cao
tuổi…Thông qua đó, cung cấp những kiến thức, kỹ năng từ khái quát đến cụ
thể, từ học thuật hàn lâm đến thực hành trong công tác xã hội với người cao
tuổi [12]. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện, bởi bên cạnh chỉ ra

3


những khái niệm về người cao tuổi thì nó còn đưa ra những cách tiếp cận khá
mới mẽ về công tác xã hội đối với người cao tuổi.
Năm 2013, tác giả Phạm Vũ Hoàng với đề tài “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam” đã cho rằng người cao tuổi là
người già/ người cao niên là người sống qua một độ tuổi nhất định, độ tuổi này

được pháp luật của mỗi nước quy định và tác giả xác định, người cao tuổi ở Việt
Nam là những người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên [13]. Đề tài cũng đồng nhất với đa
số các nghiên cứu khác về mốc xác định người cao tuổi là từ 60 tuổi trở lên.
Năm 2015, tác giả Nguyễn Đắc Tuấn với đề tài “Nghiên cứu giá trị sống của
người già Việt Nam”, Nghiên cứu cho rằng: Người già là lớp người trong độ tuổi
từ 60 † 74 đã tích luỹ được nhiều những kinh nghiệm sống, có những cống hiến cho
công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nay tuy đã đến tuổi nghỉ ngơi,
song họ vẫn tiếp tục đóng góp một phần công sức cho gia đình và xã hội [28, tr. 35].
Thứ hai, nghiên cứu hoạt động công tác xã hội đối với người cao tuổi
Năm 2015, tác giả Lê Thị Mai Hương với đề tài “Công tác xã hội đối với
người cao tuổi từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” đã chỉ ra được
thực trạng đời sống NCT tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; song đề tài mới
chỉ dừng lại ở góc độ lý thuyết của công tác xã hội đối với NCT mà chưa làm rõ
được hoạt động công tác xã hội đối với NCT trong thực tiễn [15, tr. 67]. Công trình
chỉ ra những hướng tiếp cận mới về công tác xã hội, đặc biệt là mô hình hỗ trợ
người cao tuổi hiện nay.
Thứ ba, nghiên cứu dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi
Năm 2006, nhóm tác giả Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Oanh, Dương Huy
Lương, Khương Anh Tuấn, Nguyễn thị Thắng và cộng sự với đề tài: “Đánh giá tình
hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam” đã đi sâu phân tích thực
trạng bệnh tật, cách tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của người cao tuổi; việc
chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi từ phía gia đình họ; việc triển khai thực hiện
các chính sách chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi để cung cấp bằng chứng khoa
học cho việc xây dựng chính sách và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng và cuộc

4


sống người cao tuổi. Nhưng đề tài chưa đưa ra những giải pháp để nâng cao công
tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng như những giải pháp cho việc xây

dựng chính sách và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi
như mục tiêu mà đề tài đã đưa ra [26, tr. 40].
Năm 2014, tác giả Phùng Văn Nam với luận văn thạc sĩ “Phát triển dịch vụ y
tế cho người cao tuổi ở xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An”, nghiên cứu
cũng cho thấy, có nhiều nguồn lực ở địa phương có thể vận dụng để phát triển
DVYT phù hợp với người cao tuổi như: các chính sách chăm sóc y tế của Nhà
nước; nhân lực y tế; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế; kiến thức và kỹ năng chăm
sóc sức khỏe của người cao tuổi… Trên cơ sở những nguồn lực của địa phương, tác
giả đã đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị để phát triển DVYT phù hợp với người
cao tuổi, góp phần nâng cao sức khỏe, đảm bảo an sinh xã hội cho người cao tuổi
hiện nay [22, tr. 69].
Năm 2014, tác giả Man Khánh Quỳnh với đề tài “Hỗ trợ xã hội đối với
người cao tuổi từ thực tiễn huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” đã phân tích được
thực trạng đời sống NCT và hoạt động hỗ trợ xã hội đối với NCT sống cùng gia
đình tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên tác giả mới chỉ nghiên cứu
hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT tại đây và đưa ra một số giải pháp chăm sóc
sức khỏe [26, tr. 71].
Thứ tư, nghiên cứu pháp luật và chính sách đối với người cao tuổi
Trong nghiên cứu “Người già cô đơn và những vấn đề đặt ra trong chính
sách xã hội” của Mạc Tuấn Linh [10]: trong hệ thống an sinh xã hội của bất kỳ
quốc gia nào, an sinh người cao tuổi giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Để xây dựng
chính sách xã hội cho người cao tuổi cần hiểu biết về đặc tính về nhân khẩu, cơ cấu
xã hội và vai trò của lớp người này trong cộng đồng xã hội, đồng thời phải tìm hiểu
tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của họ trong cuộc sống. Trong bài nghiên cứu này
đề cập đến một bộ phận trong lớp người cao tuổi, đó là người già cô đơn [21, tr. 57].
Trong nghiên cứu “Hệ thống an sinh xã hội đối với người có tuổi” của Bùi
Thế Cường đã nêu vai trò quan trọng của hệ thống an sinh xã hội trong quá trình

5



chăm sóc người cao tuổi ở nước ta: hệ thống an sinh xã hội mở rộng và phát triển
theo tiến trình lịch sử, nó phụ thuộc vào tiến trình động thái các nhu cầu thiết yếu
của con người và vào biến đổi của cơ cấu xã hội. Ngày nay người ta thường kể ra
một số lĩnh vực chủ chốt của hệ thống an sinh xã hội như: dân số và gia đình, đào
tạo nghề nghiệp và công ăn việc làm, trẻ em, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo
hiểm, trợ giúp xã hội…Nhìn từ góc độ cơ cấu xã hội, an sinh xã hội của các nhóm
xã hội theo hướng đảm bảo công bằng xã hội, đặc biệt chú trọng đến các nhóm yếu
thế. Trong đó, an sinh xã hội cho nhóm người cao tuổi là một nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng [3, tr.5-17]
Ngoài ra còn rất nhiều các nghiên cứu, các bài báo viết về vấn đề người cao
tuổi Việt Nam hiện nay. Những nghiên cứu trên đã đưa ra những quan điểm lý luận,
cách đánh giá khác nhau về hoạt động trợ giúp người cao tuổi. Tuy nhiên, những
nghiên cứu về lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi thì chưa có nghiên cứu
nào đề cập và phân tích sâu vào vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi trên thế
giới và ở Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện lý luận về công
tác xã hội đối với người cao tuổi tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ hệ thống cơ sở lý thuyết tiếp cận và thao tác hóa các khái niệm có
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của lý luận công tác xã hội đối
với người cao tuổi trên thế giới và Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi trên thế
giới và ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển lý luận về công tác xã hội đối với
người cao tuổi tại Việt Nam.


6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các quan điểm về người cao tuổi và công tác xã hội đối với nguời cao tuổi
trên thế giới và Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi liên quan đến
nhiều yếu tố, thành phần xã hội, điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội và bối cảnh lịch
sử khác nhau. Vì vậy, để nghiên cứu vấn đề này có hiệu quả, tác giả đã vận dụng
một số quan điểm của triết học Mác-Lênin làm cơ sở phương pháp luận khoa học
cho đề tài, đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử tất cả các hiện tượng nảy sinh trong xã hội
đều có quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển. Trong các thời kì khác nhau, các
hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ có sự biến đổi khác nhau. Việc sử dụng chủ
nghĩa duy vật lịch sử là đặt các hiện tượng xã hội, các quá trình xã hội trong hoàn
cảnh lịch sử của đời sống xã hội. Dựa trên quan điểm đó có thể thấy việc nghiên
cứu về NCT và lý luận công tác xã hội đối với NCT cần phải đặt nó trong điều kiện
cụ thể về tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá của địa phương cũng như trong điều kiện
chung của cả nước. Mặt khác, tùy vào từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước
mà vấn đề của NCT có thể khác nhau, do đó, cần có những cách tiếp cận phù hợp.
Phương pháp duy vật biện chứng coi một sự vật hay một hiện tượng trong
trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện
tượng khác.Người cao tuổi là một tầng lớp trong xã hội, có quan hệ chặt chẽ với
nhiều cá nhân con người trong xã hội và chịu sự tác động qua lại lẫn nhau với nhiều
yếu tố khác. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài, tác giả luôn đặt chủ thể trong mối quan

hệ tác động qua lại với các yếu tố khác nhau để có cái nhìn toàn diện và mang tính
khoa học nhằm đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc trưng của đối tượng
nghiên cứu.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc sử dụng các phương pháp luận, luận văn còn sử dụng phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, … nhằm tổng hợp các
thông tin liên quan đến cơ sở lý luận về người cao tuổi và công tác xã hội với người
cao tuổi ở Việt Nam và trên thế giới.
Đồng thời, luận văn sử dụng cơ sở dữ liệu thứ cấp trong quá trình phân tích thực
trạng người cao tuổi và thực trạng các chính sách dành cho người cao tuổi; khảo sát
việc thực hiện Pháp lệnh NCT và các Chương trình hành động quốc gia về NCT; tổng
kết kinh nghiệm một số nước, từ đó rút ra bài học để ứng dụng vào Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 . Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu góp phần làm phong phú hơn cho lĩnh vực nghiên cứu về
công tác xã hội, về người cao tuổi, đặc biệt là nghiên cứu về công tác xã hội đối với
người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên ngành
công tác xã hội tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Đồng thời, đề tài cung
cấp những kiến thức nền tảng cho những người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc
người cao tuổi.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận - khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung chính của luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng về lý luận công tác

xã hội đối với người cao tuổi trên thế giới
Chương 2: Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng về lý luận công tác
xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy việc nghiên cứu lý luận công
tác xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam

8


Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG VỀ LÝ
LUẬN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của lý luận công tác xã hội đối
với người cao tuổi trên thế giới
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận công tác xã hội đối với
người cao tuổi trên thế giới
Khi nói đến lịch sử công tác xã hội, các tác giả và sách báo về chủ đề này
đều cho rằng nghề Công tác xã hội và công tác xã hội với với người cao tuổi có
nguồn gốc xuất xứ từ các nước phương Tây mà cụ thể là Anh và Mỹ. Các khái
niệm, thuật ngữ và lý thuyết thực hành do vậy đều chịu ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây.
* Lịch sử của công tác xã hội và công tác xã hội đối với người cao tuổi
Phần lớn các sách báo viết về lịch sử của Công tác xã hội đều cho rằng nước
Mỹ là nơi khởi nguồn của các phương pháp thực hành công tác xã hội, kể từ khi
Mary Richmond xuất bản những cuốn sách đầu tiên về Công tác xã hội là Friendly
Visiting Among the Poor (Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo,
1899), “Social Diagnosis” (Chuẩn đoán xã hội, 1917), The Good Neighbor in the
Modem City (Láng giềng tốt trong các thành phố hiện đại, 1907) and What is Social
Casework? An Introductory Description (CTXH với trường hợp cá nhân là gì?
Những mô tả ban đầu, 1922). Đây là những cuốn sách đầu tiên viết về các phương

diện lý thuyết và cũng đã đem lại những lời giải đáp và hướng dẫn thực hành cho
hoạt động CTXH nhằm giúp đỡ những người nghèo hoặc các cá nhân gặp khó khăn
trong cuộc sống.
Nước Mỹ cũng là nơi mà ngôi trường đầu tiên đào tạo chuyên ngành công
tác xã hội được ra đời (1898) – The New York School of Philanthropy (tạm dịch là
Trường Bác Ái của New York) sau này đổi tên thành Columbia University School
of Social Work (Trường CTXH của Đại học Columbia). Vào thời điểm đó, trường
này đã tổ chức nhiều hội thảo và các chương trình đào tạo trong thời gian nghỉ hè
cho nhiều tình nguyện viên và những người làm công việc “viếng thăm thân thiện”
đến với người nghèo, và cũng tổ chức chương trình đào tạo một năm cho nghề

9


CTXH. Đây cũng chính là thời điểm mà Mary E. Richmond cùng các đồng nghiệp
của bà chuẩn bị cho xuất bản cuốn sách đầu tiên, “Friendly Visiting Among the
Poor” (Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo, 1899).
Tuy nhiên, rõ ràng là phong trào CTXH phải có một quá trình phát triển lâu
dài trong lịch sử của nó và người ta cho rằng phong trào CTXH đã bắt nguồn từ
trước đó rất lâu với các hoạt động của các nhà cải cách thuộc các Tổ chức Từ thiện
của Thiên chúa giáo: một người là được xem là triết gia Tây Ban Nha (Juan Luis de
Vivres, 1493–1540) và người kia là một mục sư Đạo Tin lành người Scotland
(Thomas Chalmers, 1780-1847). Hai quan điểm về hoạt động giúp đỡ người nghèo
của Juan Louis de Vivres và Thomas Chalmers được xem là những quan điểm khởi
nguồn cho hoạt động thực hành CTXH với người cao tuổi cũng như là nguồn gốc
của nghề công tác xã hội.
* Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của công tác xã hội và công tác xã hội
đối với người cao tuổi
Sự ra đời của các tổ chức tiền thân của Công tác xã hội và phương pháp thực
hành CTXH đối với người cao tuổi gắn liền với các mốc lịch sử như sau:

Năm 1843
Hiệp hội Cải thiện các Điều kiện của Người Nghèo được ra đời ở New York
(the Association for Improving the Condition of the Poor -AICP) tìm cách giải
quyết vấn đề nghèo đói theo cách tiếp cận cá nhân. Hiệp hội này đã áp dụng nguyên
mẫu các hình thức tiếp cận với cá nhân những người nghèo của các tổ chức từ thiện
ở nước Anh vào việc giúp đỡ người nghèo trong quá trình cải cách đô thị ở New
York, và đã đem lại được nhiều thành công đáng kể trong việc nâng cao đời sống
tinh thần của người nghèo ở thành phố này.
Năm 1869
Hiệp hội Các Tổ chức Từ thiện (Charity Organization Society - COS) đầu
tiên được thành lập ở Luân Đôn, Anh Quốc. Những ý tưởng của Thomas Chalmers,
sau 50 được bắt đầu bằng những hoạt động tiên phong của ông ở Glasgow, đã được
những nhà hoạt động từ thiện ở Anh đón nhận. Họ kết hợp cả hai ý tưởng, cá nhân
hóa sự giúp đỡ và giúp đỡ các nhân trong quan hệ cộng đồng, vào hoạt động tiếp
cận mà họ áp dụng trong việc giúp đỡ những người nghèo. Hiệp hội các tổ chức từ

10


thiện London đã vận hành một chương trình cứu trợ dựa trên ý tưởng của Chalmer,
đặt nền móng cho sự phát triển của CTXH cá nhân như là một phương pháp cho
việc giúp đỡ người nghèo.
Năm 1877
Hiệp hội các Tổ chức Từ thiện (Charity Organization Society -COS) đầu tiên
của Mỹ được thành lập ở Buffalo, New York và cũng hoạt động theo mô hình của
Hiệp Hội Các Tổ chức Từ Thiện ở Anh. Tổ chức này hoạt động dưới hình thức một
tổ chức thiện nguyện, và cũng thúc đẩy thêm việc tiếp cận theo cá nhân và CTXH
với các trường hợp riêng biệt với các cá nhân. Khoảng một thập kỷ tiếp theo sau đó,
hàng loạt Các Hiệp hội Tổ chức Từ thiện như vậy cũng được thành lập ở các thành
phố lớn của Mỹ, và nhiều tổ chức trong số này thực hiện việc hỗ trợ người nghèo

bằng các trợ cấp về tài chính. Tuy nhiên, ở New York, Hiệp hội này hoạt động theo
cách hơi khác với các thành phố khác là tập trung cung cấp những lời tư vấn cho
người nghèo hơn là phân phát quà bố thí hoặc cứu trợ.
* Công tác xã hội đối với người cao tuổi và quá trình phát triển
Trong thời gian đầu, nhân viên của các Tổ chức Từ thiện, phần lớn là các
tình nguyện viên làm việc từ thiện và thường đóng vai trò là những người “người
khách thân thiện” và tìm đến các cộng đồng nghèo để phân phát các món quà cứu
trợ hoặc những hỗ trợ về tài chánh, vật chất và tinh thần cho các gia đình nghèo.
Các tình nguyện viên xã hội trong thời kỳ này thường cho rằng lý do khiến những
người này trở nên nghèo đói là do lười biếng, thất học, hoặc đang sống một cách
trụy lạc, sa đọa, do gặp thất bại của bản thân và do bản thân họ thiếu niềm tin. Vì
vậy, mục tiêu của việc viếng thăm thân thiện trước tiên là tập trung vào tư vấn giúp
cho một cá nhân có thể thực hiện những nỗ lực tốt nhất, để làm việc thật chăm chỉ
nhằm kiếm sống đủ cho chính bản thân của cá nhân và nhu cầu của gia đình cá nhân
họ, cũng như tư vấn để giúp nâng đỡ cuộc sống tinh thần của họ.
Tuy nhiên, sau một thời gian dài hoạt động, những nhân viên tình nguyện xã
hội này đã phát hiện ra rằng, nguyên nhân nghèo đói không phải là những vấn đề
như họ đã từng nghĩ trước đây mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ đã tiến
hành tìm hiểu và sau đó phát hiện của họ cho thấy những nguyên nhân gây cảnh
khốn khó không nằm ở khiếm khuyết về tính cách của cá nhân người ta mà là ở

11


những điều kiện xã hội trong môi trường sống của những cá nhân đó: như bệnh tật,
đông con, nhà ở chật chội, trình độ học vấn thấp, lương thấp, thiếu kỹ năng làm
việc, thiếu cơ hội làm việc,… Từ đó, họ rút ra kết luận rằng môi trường có ảnh
hưởng lớn đến các vấn đề của các cá nhân và đã đề xuất rằng việc phân tích những
nguyên nhân từ phía môi trường xã hội cần phải được chú trọng trong quá trình giúp
đỡ khách hàng (thân chủ).

Những tình nguyện viên xã hội này cũng lo lắng rằng việc chấp nhận các
khoản cứu trợ cộng đồng sẽ là suy giảm lòng tự trọng của những người cần sự trợ
giúp và làm cho họ trở nên phụ thuộc vào sự trợ giúp. Vì vậy, các tình nguyên viên
xã hội cho rằng những người nghèo cần phải nỗ lực để tự giải quyết vấn đề của
mình và họ đã có những kế hoạch điều tra hoàn cảnh từng cá nhân riêng lẻ để xác
định nhu cầu và có biệp pháp hỗ trợ hợp lý. Ngoài ra, các tình nguyện viên đã được
yêu cầu là phải tạo được những ảnh hưởng tốt về phương diện đạo đức đối với
người nghèo, do vậy người nghèo cũng được tư vấn để thay đổi thái độ và hành vi.
Các Tổ chức Từ thiện ngày càng trở nên phổ biến ở Anh và đã hoạt động hiệu quả
thông qua việc sử dụng những khách thăm viếng thân thiện này và để điều tra hoàn
cảnh, xác định nhu cầu. Những hoạt động theo phương pháp này đã đặt nền móng
cho công tác xã hội với cá nhân (làm việc với trường hợp cá nhân).
Sự ra đời của lý luận về CTXH với người cao tuổi trải qua các mốc thời gian
cụ thể như sau:
Giai đoạn trước năm 1920
Trong giai đoạn này, Mary Richmond, tác giả của tác phẩm Chuẩn đoán Xã
Hội (1917) đã cung cấp cho các nhà hoạt động tình nguyện này một mô hình lý
thuyết công tác xã hội. Lý thuyết này cho rằng việc thu thập thông tin cẩn thận sẽ
giúp những người tình nguyện viên xã hội hiểu rõ được các nguyên nhân của vấn đề
và từ đó có thể đưa ra biện pháp khắc phục. Vào thời điểm đó, xã hội học đã có
những ảnh hưởng lớn đối với các kiến thức công tác xã hội. Những giải thích của
tâm lý học vào thời điểm này chưa xuất hiện. Sự ra đời của của trường đào tạo nhân
viên xã hội đầu tiên ở Mỹ vào năm 1898 – Trường New York School of
Philanthropy (tạm dịch là Trường Bác Ái của New York) sau này đổi tên thành

12


Columbia University School of Social Work (Trường CTXH của Đại học
Columbia) – đã đánh đấu một sự tiến bộ của CTXH trong việc đào tạo nhân viên xã

hội và việc áp dụng một cách chuyên nghiệp những kiến thức và kỹ năng CTXH
vào các hoạt động giúp đỡ khách hàng (thân chủ).
Giai đoạn 1921-1930
Giai đoạn này đánh dấu một sự phát triển mới trong hoạt động CTXH với sự
ra đời của lý thuyết phân tâm học do Sigmund Freud phát triển sau những nghiên
cứu về phân tích tâm lý của ông. Các hoạt động CTXH với các cá nhân đã có sự
thay đổi đáng kể và tập trung vào việc phân tích những vấn đề tâm lý của khách
hàng (thân chủ). Những khách hàng mà gặp khó khăn trong việc điều chỉnh bản
thân họ được nghiên cứu theo những quan điểm phân tâm học của Freud. “Những
hiểu biết về cảm xúc, thái độ, những sự mâu thuẫn bị dồn nén, và sự đấu tranh trong
vô thức của khách hàng (thân chủ) đã trở thành một phần không thể thiếu được
trong yêu cầu về kiến thức và phương pháp làm việc của nhân viên CTXH với các
trường hợp cá nhân. Hoạt đông CTXH với cá nhân thời kỳ này tập trung vào các
vấn đề tâm lý và cảm xúc do những ảnh hưởng bởi các khám phá của S.Freud (phân
tâm học và tâm lý học năng động), và các công trình nghiên cứu của Otto Rank,
Carl Jung, Alfred Adler, v.v..”. Phương pháp xử lý vấn đề tâm lý của khách được
thực hiện thông quá các biện pháp tương tự trong y khoa là can thiệp giúp đỡ và xử
lý theo cách điều trị (hay còn được gọi là trị liệu).
Các đặc điểm khác biệt của thực hành CTXH đối với NCT trong giai đoạn
này so với giai đoạn trước gồm có: 1) xử lý (trị liệu) nhằm giúp cho thân chủ tự
“điều chỉnh”; 2) các quy trình cơ bản được sử dụng là: sử dụng các nguồn tài
nguyên; giúp cho thân chủ tự hiểu biết về bản thân và phát triển khả năng “tự giải
quyết các vấn đề xã hội của mình”; 3) tập trung vào các cá nhân và nghiên cứu chi
tiết về các hành vi cá nhân, thái độ và các mối quan hệ chủ yếu là tập trung vào
những kinh nghiệm thời thơ ấu; 4) chủ yếu là dựa vào các cá nhân để thu thập thông
tin trong quá trình tìm hiểu ý nghĩa của những điều đã trải qua đối với họ; và 5) chú
trọng đến việc giáo dục và phát triển lý thuyết.

13



Giai đoạn 1930-1945
Do tác động của suy thoái kinh tế, vấn đề nghèo đói và lệch lạc xã hội đã
được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Những vấn đề xã hội không còn
được xem là sản phẩm của những khiếm khuyết của cá nhân mà còn là do ảnh
hưởng của hoàn cảnh xã hội của môi trường mà họ sống.
Cách tiếp cận theo chức năng được phát triển trong những năm 1930 bởi các
giảng viên của Trường đào tạo Công tác xã hội ở Pennsylvania. Khái niệm này đã
được giới thiệu bởi Jessie Taft, trong khi đó Virginia Robinson xác định các kỹ
năng cần thiết cho các phương pháp tiếp cận. Theo cách tiếp cận này, nhân viên xã
hội và khách hàng (thân chủ) cùng quyết định nếu xem thử họ có thể phối hợp làm
việc với nhau trên cơ sở những vấn đề/nhu cầu/vấn đề của khách hàng (thân chủ) và
các chương trình hoặc dịch vụ có sẵn tại cơ sở xã hội hay không. Sự sử dụng những
chức năng của cơ sở xã hội cũng là một phần không thể tách rời của những kỹ năng
công tác xã hội.
Năm 1937, Gordon Hamilton đã công bố một báo cáo về cách tiếp cận chuẩn
đoán và chủ yếu là dựa vào lý thuyết của Freud trong tìm hiểu các vấn đề trong
những mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Báo cáo chuẩn đoán này thường
mang tính diễn giải và dự kiến. Nó có thể bao gồm cách thức giải quyết những sự
khiếm khuyết/thiếu hụt bằng các nguồn lực xã hội, bằng việc sửa đổi chương trình,
điều chỉnh nguồn lực cũng như việc tư vấn hoặc điều trị.
Những nhân vật hàng đầu đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của trường
phái tư tưởng tâm lý xã hội bao gồm Richmond, Charlotte Towle, Annette Garrett
và một số người khác. Cách tiếp cận tâm lý xã hội là xem xét các cá nhân trong
hoàn cảnh của họ, tức là, xem xét các cá nhân trong sự tương tác với những người
khác trong các gia đình, cộng đồng, nhà thờ, trường học và các hoàn cảnh xã hội
khác. Phương pháp này cố gắng huy động nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài
của khách hàng (thân chủ) để giúp họ thực hiện những chức năng của cá nhân và
tương tác với người khác có hiệu quả hơn. Các hoạt động giúp đỡ khách hàng (thân
chủ) trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể và đã có sự chuyển hướng từ

việc chỉ tập trung vào giải quyết các vấn đề của từng khách hàng sang việc mở rộng
14


các hoạt động giải quyết vấn đề bao gồm luôn cả các thành viên trong gia đình, giúp
đỡ các thành viên này thay đổi hoặc điều chỉnh hành vi hoặc lối sống của họ. Công
tác xã hội với gia đình được phát triển và được công nhận từ giai đoạn này và gia
đình đã bắt đầu được các nhân viên xã hội xem xét đến như là một hệ thống khách
hàng (thân chủ).
Giai đoạn 1945-1960
Trong thời kỳ này, nhóm khách hàng (thân chủ) của công tác xã hội không
còn giới hạn trong những người nghèo nữa mà còn có cả những người thuộc tầng
lớp trung lưu đang gặp các vấn đề rắc rối trong gia đình hoặc trong việc tự điều
chỉnh bản thân. Chính trong giai đoạn này, những vấn đề liên quan đến sự thực hiện
chức năng xã hội đã trở thành mối quan tâm chính của công tác xã hội.
Năm 1957, Felix Bestek đã viết cuốn sách “Mối quan hệ trong CTXH cá
nhân” trong đó ông định nghĩa mối quan hệ CTXH cá nhân là “sự tương tác năng
động giữa thái độ và cảm xúc của các nhân viên xã hội (người quản lý ca) và khách
hàng (thân chủ) để đạt được sự thích nghi giữa các cá nhân đó với môi trường sống
của họ. Ông cũng xác định bảy nguyên tắc trong mối quan hệ nói trên.
Gần cuối thời kỳ này, Helen Harris Perlman đã phát hành “CTXH với cá
nhân: Quy trình giải quyết vấn đề”. Cuốn sách này đã đánh dấu sự kết thúc những
cuộc tranh luận giữa hai cách tiếp cận chuẩn đoán - chức năng, bởi vì các khái niệm
quan trọng của cả hai cách tiếp cận đã hợp nhất vào quá trình giải quyết vấn đề.
Trong phương pháp tiếp cận này, các yếu tố chính của CTXH với cá nhân là: một cá
nhân có vấn đề tìm đến một địa điểm mà ở đó có người đại diện giúp họ thông qua
một quá trình trợ giúp. Perlman đã sử dụng thuật ngữ chuẩn đoán đồng nghĩa với
việc đánh giá. Quá trình này được xem như là cách suy nghĩ về việc giải quyết vấn
đề bằng cách xem xét vấn đề một cách xuyên suốt từ những nguồn lực tương tác
bên trong những tình huống vấn đề của khách hàng; mối quan hệ chuyên nghiệp

được xem là một yếu tố quan trọng trong quá trình này và khái niệm về vấn đề rắc
rối, đã chuyển từ khái niệm bệnh lý sang khái niệm là một phần bình thường trong
cuộc sống.

15


Giai đoạn 1961-1975
Trong giai đoạn này, lý thuyết CTXH tập trung vào việc tiếp tục phát triển
các phương pháp truyền thống, phát triển các cách tiếp cận tổng quát hoặc tích hợp
trong thực hành và phát triển các cách tiếp cận mới trong thực hành để sử dụng
trong các dịch vụ hỗ trợ cho các nhóm khách hàng (thân chủ) cụ thể như phân tích
sự giải quyết vấn đề, sự điều chỉnh hành vi, sự trị liệu thực tế, sự giải quyết khủng
hoảng và cách làm việc với các nhân thông qua cách giao nhiệm vụ. Trong những
năm 1960, cả hai cách tiếp cận chuẩn đoán (giờ đây được gọi là cách tiếp cận tâm lý
xã hội bởi Florence Hollis) và cách tiếp cận chức năng đã được tiếp tục mở rộng và
cập nhật. Các hệ thống xã hội và lý thuyết giao tiếp đã được áp dụng trong thực
hành công tác xã hội.
Trong những năm 1970, các phương pháp tích hợp hoặc thực hành tổng quát
được phát triển cho một nghề nghiệp công tác xã hội đồng nhất và để đáp ứng các
vấn đề/nhu cầu phức tạp của khách hàng (thân chủ). Các tác giả sau đây đã có
những đóng góp vào sự phát triển của thực hành tổng quát: 1) Carol Meyer với cuốn
sách “Thực hành Công tác Xã hội, Sự phản ứng trước khủng hoảng đô thị”: Bà đã
coi quá trình chuẩn đoán là một công cụ đánh giá và can thiệp, có nhiều khả năng
được biết đến như là hành động can thiệp. 2) Harriet Bartlett và cuốn sách “Cơ sở
chung của thực hành công tác xã hội”, cùng với những nỗ lực của Hamilton bà đã
đưa ra một khuôn khổ thống nhất về khái niệm (bao gồm mục đích, các giá trị, sự
thừa nhận, kiến thức và các kỹ năng thông thường) để giúp phát triển những quan
điểm tổng quát về công tác xã hội. 3) Allen Pincus vào Anne Minahan với cuốn
“Thực hành công tác xã hội: Mô hình và phương pháp” coi công tác xã hội như là

phương pháp tạo sự thay đổi theo kế hoạch với kế hoạch can thiệp giúp đỡ được xậy
dựng trên cơ sở đánh giá vấn đề.
Giai đoạn 1976-1990
Trong thời kỳ này, khách hàng (thân chủ) có thể là bất kỳ cá nhân hoặc gia
đình nào cần được giúp đỡ trong việc thực hiện chức năng xã hội. Khách hàng (thân
chủ) tham gia trong các bước giải quyết vấn đề: từ đánh giá, đến xác định và lựa

16


chọn giải pháp hỗ trợ. Việc đào tạo về CTXH trong thời gian này đã quan tâm đến
các vai trò khác nhau của những nhân viên CTXH được đào tạo ở cấp cử nhân và
cấp Thạc sỹ, các chuyên ngành tại thời điểm tốt nghiệp, và xây dựng các khái niệm
cho sự thực hành CTXH tổng quát. Đây cũng là thời kỳ mà ngành CTXH đang gặp
phải nhiều thách đố với những vấn đề xã hội như tình trạng vô gia cư, AIDS, lạm
dụng các chất gây nghiện, hòa bình và công lý cũng như các vấn đề phân biệt đối xử
trong xã hội, phụ nữ và các nhóm dân tộc thiểu số.
Sau đây là một số các khái niệm chính được sử dụng trong quá trình giúp đỡ
công tác xã hội: 1) Đánh giá, được coi như là một quá trình phát triển sự hiểu biết
về cá nhân con người trong hoàn cảnh/ môi trường làm cơ sở cho kế hoạch trợ giúp;
2) Con người-trong hoàn cảnh/ môi trường: sử dụng các mạng lưới hỗ trợ xã hội
như là một phần của quá trình giúp đỡ và của cách tiếp cận hệ thống xã hội; 3) Mối
quan hệ mà thông qua đó có thể xác định các mối quan hệ với các hệ thống xã hội
quan trọng và với những những người có ảnh hưởng trong các hệ thống đó; 4) Quá
trình đề cập đến các bước giải quyết vấn đề theo định kỳ để tạo sự thay đổi theo thời
gian; 5) Hoạt động giúp đỡ không phải chỉ có một giải pháp can thiệp duy nhất, mà
nên sử dụng giải pháp nào có thể phù hợp với mọi tình huống.
1.1.2. Lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi ở nước ngoài
Quá trình hình thành lý luận công tác xã hội (CTXH) đối với người cao tuổi
(NCT) ở trên thế giới kể từ khi CTXH được xem xét là một khoa học, một nghề

chuyên môn. Phần lớn các nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng nước Mỹ là nơi
khởi nguồn của các phương pháp thực hành CTXH, tiếp đến là một số nước ở Châu
Âu và Mỹ latinh, Châu Á và Châu Phi.
1.1.2.1. Sự hình thành lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Hoa Kỳ
Tháng ba năm 1865, hai tháng trước khi chấm dứt nội chiến, nước mỹ phải
đối mặt với hàng loạt vấn đề nảy sinh trong xã hội như: hàng triệu quả phụ và trẻ
mồ côi; cựu binh tàn phế; nô lệ vừa được giải phóng, vô học, không nghề nghiệp,
lang thang khắp miền Nam tìm kiếm việc làm và sự trợ giúp… Vì vậy nhu cầu cần
giúp đỡ làm cho hệ thống từ thiện từ bị choáng ngộp, và nhà nước bắt buộc phải

17


tham gia công cuộc cứu tế trên quy mô lớn. Từ nhu cầu và thực tiễn của xã hội, ở
nước Mỹ bắt đầu xuất hiện một đội ngũ những người làm công việc giúp đỡ những
người thiệt thòi, khó khăn. Đó là những hoạt động có tính chất CTXH nguyên
thủy.Trong bối cảnh đó, những người gặp khó khăn đã nhận được sự giúp đỡ của
các tình nguyện viên. Những tình nguyện viên này hoạt động trong các tổ chức xã
hội như: ủy ban từ thiện Quốc gia [3].
Tới những năm 1870, nước Mỹ lại rơi vào khủng hoảng kinh tế đã khiến cho
hàng triệu người bị thất nghiệp, phong trào bãi công nổ ra khắp nơi, tình trạng mất
ổn định xảy ra khắp nơi. Trước tình hình đó, các tổ chức từ thiện phải nổ lực mở
rộng hoạt động cứu trợ nhằm khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng và
tái thiết lập lại trật tự xã hội. Những nhà hoạt động từ thiện đã thay đổi cách thức
hoạt động mới, họ không cứu trợ trực tiếp như trước mà tích cực áp dụng các
phương pháp khoa học vào việc hỗ trợ người khó khăn và tạo ra mạng lưới trao đổi
giữa những người này. Năm 1877, Hiệp Hội Các Tổ Chức Từ Thiện
(HCTCTT)/Charity Organization Society và nguyên lý từ thiện khoa học được ra
đời. Những khách hàng của COS chủ yếu là những người do thái, thiên chúa giáo và
những người Mỹ gốc Phi nghèo khổ.

Qua thực tiễn hoạt động, vấn đề nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp đối với các nhận viên CTXH là rất cần thiết. Trước nhu cầu đó, Mary
Richmond đã xuất bản những cuốn sách đầu tiên về Công tác xã hội là Friendly
Visiting Among the Poor (Những cuộc viếng thăm thân thiện đến người nghèo,
1899), “Social Diagnosis” (Chẩn đoán xã hội, 1917), The Good Neighbor in the
Modem City (Láng giềng tốt trong các thành phố hiện đại, 1907) and What is Social
Casework? An Introductory Description (CTXH với trường hợp cá nhân là gì?
Những mô tả ban đầu, 1922). Đây là những cuốn sách đầu tiên viết về các phương
diện lý thuyết công tác xã hội và cũng đã đem lại những lời giải đáp và hướng dẫn
thực hành cho hoạt động CTXH nhằm giúp đỡ những người nghèo hoặc các cá nhân
gặp khó khăn trong cuộc sống như: người cao tuổi.

18


Một thời gian ngắn sau khi tác phẩm “Xã Hội Sinh Động”/Dynamic
Sociology của Lester Frank Ward ra đời vào năm 1883, các lớp xã hội học đã được
mở ra ở nhiều trường cao đẳng và đại học Mỹ, và CTXH được xem là phần ứng
dụng của khoa xã hội học. Những nhân viên CTXH nhanh chóng nhận ra công việc
của họ đòi hỏi kiến thức không những từ xã hội học mà cả từ một nền tảng rộng lớn
hơn bao gồm kinh tế, tâm lý, luật, sinh vật… Vì vậy, CTXH bắt đầu tách ra khỏi xã
hội học, và trường CTXH đầu tiên được thiết lập vào năm 1898 khi hội Các Tổ
Chức Từ Thiện New York tổ chức Trường Phúc Thiện Mùa Hè với chương trình
huấn luyện hàng năm dài sáu tuần lễ dành cho những nhân viên CTXH đang hoạt
động . Vài năm sau, chương trình huấn luyện này được cải tổ thành một năm, thu
nhận sinh viên trong quần chúng, và tên trường được đổi thành Trường Phúc Thiện
New York. Năm 1910, chương trình huấn luyện được cải tổ thành hai năm. Năm
1919, tên trường đổi thành Trường CTXH New York, và sau này trở thành Trường
Năm 1917 tác phẩm “Định bệnh Xã Hội”/Social Diagnosis của Mary Richmond ra
đời . Tác phẩm gồm 500 trang của Mary Richmond cống hiến độc giả một mô tả chi

tiết tất cả các hoàn cảnh sống có thể xảy ra cho khách hàng của CTXH, và phương
pháp khoa học bà đã sử dụng để thu thập thông tin cá nhân để định bệnh cho mỗi
trường hợp. “Định Bệnh Xã Hội” thoả mãn tất cả các đòi hỏi về khoa học kể cả
những đòi hỏi do chính Abraham Flexner đề ra. Tác phẩm vì vậy nhanh chóng
chứng minh một cách không thể chối cãi CTXH là một nghề chuyên môn.
Năm 1920, để ấn định một tiêu chuẩn chung cho giáo dục CTXH Bắc Mỹ
(Mỹ và Canada), Hội Trường Đào Tạo CTXH Chuyên Nghiệp được thành lập. Sau
một số lần đổi tên, từ 1952 tổ chức này được gọi là Hội Đồng Giáo Dục
CTXH/Council on Social Work Education, có nhiệm vụ ấn định và duy trì tiêu
chuẩn cho các môn học và chứng nhận cho các trường CTXH hội đủ tiêu chuẩn cấp
bằng Cử Nhân và Cao Học.Năm 1955, Hội Những Nhân viên CTXH Quốc Gia
(NASW) được thành lập. Hội có trụ sở trung ương tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có
hơn 150.000 hội viên, là hội CTXH chuyên nghiệp lớn nhất thế giới. Hội Những
Nhân viên CTXH Quốc Gia ghi trên địa chỉ mạng: Hội hoạt động “để gia tăng sự

19


phát triển và trưởng thành về chuyên môn của hội viên, để tạo dựng và duy trì tiêu
chuẩn nghề nghiệp và để cổ vũ cho những chính sách xã hội đúng đắn”. Nội Quy
Đạo Đức của Hội cung cấp tiêu chuẩn cho nghề CTXH và để bảo vệ quần chúng.
1.1.2.2. Sự hình thành lý luận công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Anh

Tại Anh, do bị ảnh hưởng của các cuộc Cách mạng Công nghiệp nên đã phải
đối đầu với những vấn đề xã hội trầm trọng. Sự thất nghiệp của hàng vạn công nhân
khi các xí nghiệp, công xưởng, hầm mỏ bị phá sản, người lao động tại các đô thị bị
thiếu ăn, nghèo đói, bệnh tật, nhà ở tồi tàn, các tệ nạn xã hội, bóc lột lao động ở trẻ
em và phụ nữ dã man, trong khi đó ở các vùng nông thôn, tình trạng này cũng
không khấm khá hơn. Nhiều gia đình thiếu đất canh tác do chính sách phát triển
công nghiệp đã bỏ làng mạc lên những khi đô thị lớn để kiếm sống vớu đó lượng

ngày càng tăng dẫn tới tình trạng quá tải ở những nơi này về cơ sở hạ tầng lẫn mức
sống. Tệ nạn xã hội đã nhiều lại càng gia tăng một cách nhanh chóng, mâu thuẫn
giai cấp (tư sản và vô sản) tăng lên, các cuộc xung đột vũ trang xảy ra - một tất yếu
của xã hội Tư bản. Trước tình trạng như vậy, nhiều chính phủ đã có cách giải quyết
khác nhau thông qua các chính sách, luật lệ và đạo luật Elidabét của Anh quốc năm
1601 ra đời (tạo công ăn việc làm cho người nghèo, người còn sức lao động, mở
nhà dưỡng lão cho người già, người tàn tật, bảo trợ trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi
bằng cách đào tạo nghề, quy định nguôn tài chính, trách nhiệm của người quản lý và
đối tượng được cứu giúp…) chính là một dấu hiệu quan trọng trong lịch sử hình
thành công tác xã hội như một nghề do lần đầu tiên nó là hành động cứu giúp có
tính tổ chức mang tính Nhà nước bên cạnh những cải cách tôn giáo (đạo Tin lành)
trong việc thúc đẩy sự quan tâm về tình trạng bần cùng hoá, về việc tiếp tục viện
trợ, cứu giúp và ngăn chặn sự phụ thuộc lâu dài của người nghèo. Đến năm 1869, “
Hiệp hội các tổ chức cứu tế từ thiện và ngăn chặn ăn xin ở Luân Đôn ( Anh)” được
thành lập thường gọi là “Hiệp hội tổ chức từ thiện Luân Đôn”. Ở đây, các nhà lãnh
đạo đã vận dụng các triết lý khoa học để hình thành một dạng quản lý từ thiện mới:
khoa học từ thiện. Có thể coi đây là bước chuyển quan trọng về nhận thức và hành
động của những người tham gia công tác xã hội. Năm 1873, các chương trình đào
tạo, bài giảng về công tác xã hội đã ra đời nhằm phục vụ cho lực lượng làm công tác

20


×