Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội i, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.93 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------*-------------

NGUYỄN VĂN QUẢNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG TỪ
THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI I,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHU

NN

NH C N

Mã số

T C

HỘI

: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Khắc Bình

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong khoá luận là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Văn Quảng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG
TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM LANG THANG TẠI TRUNG
TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI I .................................................................................. 12
1.1. Một số khái niệm về Trung tâm Bảo trợ xã hội và trẻ em lang thang ..... 12
1.2. Đặc điểm tâm lý và cách tiếp cận trong hoạt động CTXH đối với trẻ
em lang thang ................................................................................................... 14
1.3 Một số lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang thang ........ 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang
thang ................................................................................................................. 24
1.4. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em .................................................................................................................. 25

Chương 2: THỰC TRẠN
VỚI TRẺ EM LAN

C N


T C

THAN TẠI TRUN

HỘI NHÓM ĐỐI
TÂM BẢO TRỢ

HỘI I, TH NH PHỐ H NỘI .............................................................31
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ....................................................31
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em
lang thang tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I .........................................37
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH nhóm đối với trẻ em lang
thang tại Trung tâm bảo trợ xã hội I, Hà Nội .................................................. 55
Chương 3: ỨN

DỤN

CT H NHÓM TRON

TIẾP CẬN DỊCH VỤ CHĂM SÓC,
TẠI TRUN

TÂM BẢO TRỢ

IẢI QU ẾT VẤN ĐỀ

I O DỤC TRẺ EM LAN

THAN


HỘI I, TH NH PHỐ H NỘI ................ 63


3.1. Lý do ứng dụng CTXH nhóm trong giải quyết vấn đề ............................ 63
3.2. Vận dụng phương pháp CTXH nhóm trong tiếp cận chăm sóc giáo dục
cho trẻ em lang thang ...................................................................................... 63
3.3 Một số giải pháp thực hiện hiệu quả hoạt động chăm sóc, giáo dục đối
với trẻ em lang thang ....................................................................................... 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 76

T I LIỆU THAM KHẢO .....................................................................78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TC

: Thân chủ

CTXH

: Công tác xã hội

TELT

: Trẻ em lang thang

LĐ-TB&XH

: Lao động-Thương binh và Xã hội


NVXHCTXH

: Nhân viên xã hội công tác xã hội


DANH MỤC C C BẢN
Bảng 1.1. Số lượng trẻ em hoàn cảnh đặc biệt từ 2008 đến 2011 .................. 29
Bảng 2.1 Bảng về trình độ học vấn ................................................................. 34
Bảng 2.2 Bảng về kết quả các dịch vụ hỗ trợ cho TELT ................................ 40
Bảng 2.3 Bảng về sự hài lòng của TELT về các dichvụ CTXH…………….41
Bảng 2.4 Bảng dịch vụ hỗ trợ pháp lý choTELT……………………………47
Bảng 2.5 Bảng dịch vụ hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khoẻ choTELT…………..50
Bảng 2.6 Bảng dịch vụ hỗ trợ giáo dục choTELT…………………………..52

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Tháp nhu cầu của Maslow............................................................... 16
Biểu đồ 2.1. Dịch vụ hỗ trợ tâm lý cho TELT (%) ......................................... 44
Biểu đồ 2.2. Sự hài lòng của TELT về dịch vụ tâm lý (%) ............................ 46
Biểu đồ 2.3. Sự hài lòng của TELT về dịch vụ pháp lý (%) .............................. 48


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” - trẻ em là những chủ nhân tương
lai của đất nước.Một dân tộc muốn tồn tại và phát triển không thể không quan
tâm đến thế hệ trẻ - lớp người sẽ kế tục sự nghiệp trong tương lai. Chủ tịch Hồ
Chí Minh lúc sinh thời đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn biết ngủ
biết học hành là ngoan”. Trẻ em là những mầm sống, những búp non tương lai
đang lớn lên từng ngày, từng giờ trong sự chăm sóc, dạy dỗ của gia đình, nhà

trường và trẻ em là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm hi vọng của biết bao gia đình
[4]. Trong bối cảnh già hóa dân số đã và đang diễn ra tại nhiều quốc gia ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nguồn lao động, trẻ em ở Việt Nam đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, là thế hệ chủ nhân
tương lai của đất nước, là nhịp cầu nối xuyên suốt giữa các thế hệ thành viên
trong gia đình. Tạo điều kiện cho trẻ phát triển đầy đủ cả về thể chất và tâm hồn
không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn là sự chuẩn bị bền vững cho tương lai.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em. Năm 1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ 2
trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên Hợp quốc. Đến nay,
rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này đã được ban hành như
Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi năm 2004),
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn
2011-2020, Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 của Chính phủ quy
định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã
hội, Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 13/04/2007 của Chính phủ về chính sách trợ
giúp các đối tượng bảo trợ xã hội và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định số 67/NĐ-CP. Các văn bản quy phạm pháp luật
này tạo thành khuôn khổ pháp lý bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em [2].

1


Qua thực tiễn công tác chăm sóc trẻ em cho thấy, bên cạnh việc chăm sóc
trẻ em bình thường, có một nhóm đối tượng trẻ em mà Đảng, Nhà nước và xã
hội đặc biệt quan tâm là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó có
nhóm trẻ em lang thang. Các số liệu thống kê cho thấy, trẻ em lang thang có xu
hướng biến động giảm dần trong giai đoạn 2001 đến 2007 và tăng đột biến vào
năm 2008 (28.509 em); sự tăng đột biến này là do năm 2008 có sự suy giảm
kinh tế và lạm phát ở mức cao; đến năm 2009 lại có xu hướng giảm xuống còn

22.947 em [3].
Hiện nay, trên phạm vi toàn quốc có 402 cơ sở bảo trợ xã hội công lập và
ngoài công lập, trong đó cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn gồm 218 cơ sở, được phân bố trên 8 vùng miền. Các cơ sở bảo trợ
xã hội công lập và ngoài công lập hoạt động dưới nhiều hình thức tên gọi khác
nhau như trung tâm (bảo trợ, cứu trợ, hỗ trợ, nuôi dưỡng, điều trị, điều dưỡng,
giáo dục, dạy nghề), làng trẻ em SOS, nhà trẻ, nhà tình thương, nhà nuôi dưỡng,
nhà an toàn, mái ấm tình thương, cô nhi viện, cơ sở nuôi dưỡng [1]… Theo số
liệu thống kê, Hà Nội có 23 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có đến 16 cơ sở bảo
trợ xã hội dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và 01 trung tâm có đối tượng
bảo trợ trọng tâm là trẻ em lang thang. Tuy vậy, mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội
vẫn chưa thể đáp ứng kịp thời sự gia tăng nhanh chóng về số lượng đối tượng trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Trong thời gian qua, mạng lưới các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em
đã góp phần chăm sóc, nuôi dưỡng các trường hợp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, bao gồm trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em cần sự bảo vệ khẩn
cấp, trẻ em khuyết tật nặng, trẻ em nhiễm HIV/AIDS... Tuy nhiên, trong điều
kiện mới của đất nước và xu hướng phát triển an sinh xã hội của quốc tế, mạng
lưới các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em đã bộc lộ những vấn đề tồn tại
nhất định, đó là: Mạng lưới các cơ sở hiện nay thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng. Các cơ sở chủ yếu chăm sóc, nuôi dưỡng tập trung các đối tượng có hoàn
2


cảnh đặc biệt theo quy mô lớn; đối tượng sống xa cách với gia đình và cộng
đồng. Cơ sở vật chất của nhiều cơ sở bảo trợ xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng và cung cấp các dịch vụ
cho đối tượng bảo trợ xã hội. Một số cơ sở xây dựng từ lâu, nay đã xuống cấp;
dụng cụ y tế, trang thiết bị cần thiết để phục hồi chức năng còn thiếu thốn; cán
bộ làm công tác xã hội còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; cơ sở chưa

cung cấp các dịch vụ chăm sóc bán trú, phục hồi chức năng và các dịch vụ công
tác xã hội khác [8].
Trong nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thì trẻ em
lang thang là một trong những đối tượng rất cần được quan tâm bởi sự thiệt thòi,
thiếu thốn cả về đời sống vật chất và tinh thần. Sự thiệt thòi, thiếu thốn về các
điều kiện sống cơ bản như ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, vui chơi, giải trí… và
tình yêu thương trong gia đình dành cho các em không chỉ ảnh hưởng đến sự
phát triển thể chất và nhân cách mà còn làm gia tăng các nguy cơ bị ảnh hưởng
các tệ nạn xã hội, bị xâm hại thể xác và bị bóc lột sức lao động.
Đối với nhân viên công tác xã hội, việc nắm vững hệ thống chính sách trợ
giúp, các dịch vụ công tác xã hội liên quan đến trẻ em lang thang sẽ là nền tảng
quan trọng trong việc tiến hành can thiệp và giải quyết vấn đề cũng như trợ giúp
nhóm đối tượng có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ hiện có. Hiện nay đã có
nhiều nghiên cứu, đánh giá về các chính sách hỗ trợ, các dịch vụ xã hội dành
cho nhóm đối tượng trẻ em lang thang; tuy nhiên việc tìm hiểu về thực hiện các
chính sách trợ giúp lại ít được quan tâm, điều này gây khó khăn trong việc tiếp
cận và trợ giúp về mặt pháp lý cho nhóm đối tượng.
Từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Công tác xã hội
nhóm đối với trẻ em lang thang từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội I,
thành phố Hà Nội”.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Các nghiên cứu liên quan đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
“Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp luật và chính sách
bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam” là đánh giá
của Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011). Đánh giá tập
trung đến pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sánh với các chuẩn

mực quốc tế, tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của pháp luật Việt Nam, trên cơ
sở đó đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
đảm bảo từng bước hài hoà với pháp luật và các chuẩn mực quốc tế. Về bảo vệ
trẻ em mồ côi, đánh giá đã chỉ ra Việt Nam là nước đạt được nhiều tiến bộ đáng
kể trong việc hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề nhận con nuôi trong nước
và nước ngoài. Mặt khác, đánh giá cũng chỉ ra nhiều vấn đề cần phải khắc phục
như: chưa có khung pháp lý về công tác đánh giá một cách có hệ thống và
chuyên nghiệp đối với trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi để quyết định mô hình
chăm sóc nào sẽ phù hợp với lợi ích tốt nhất cho các em, đảm bảo rằng trẻ em
được nhận nuôi trong một gia đình thay thế phù hợp nhất với lợi ích của các em.
Đây là một trong những phát hiện quan trọng và hết sức có ý nghĩa đối với bảo
vệ trẻ em mồ côi.
“Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn” là bài
viết của tác giả Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em, Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam
(2011). Tác giả đã nêu bật các nhóm trẻ em thuộc đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt và tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Dưới góc nhìn về vai
trò và hiệu quả hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt của các
hội, hiệp hội và cơ sở ngoài công lập, tác giả đã đưa ra các khuyến nghị với cơ
quan có thẩm quyền, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách hỗ trợ các tổ
chức này hoạt động có hiệu quả hơn.

4


“Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng –
Những cơ sở xã hội và thách thức” là bài viết của các tác giả Nguyễn Hồng Thái
và Phạm Đỗ Nhật Thắng (2008), tìm hiểu sự chuyển đổi cách tiếp cận trẻ em
truyền thống sang tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em hiện nay. Theo đó, cách tiếp
cận truyền thống là tiếp cận dưới góc độ trẻ em là đối tượng cần được hỗ trợ và

bảo vệ từ trên xuống, mang nặng tính từ thiện, bao cấp, còn tiếp cận trên cơ sở
quyền trẻ em thì nhìn nhận trẻ em là chủ thể của quyền, có quyền được chăm
sóc, bảo vệ. Trước bối cảnh số lượng trẻ em đặc biệt cần được bảo vệ ngày càng
gia tăng trong khi các hình thức chăm sóc tập trung đã và đang vượt quá nhu cầu
đầu vào thì hình thức chăm sóc, bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng ngày càng trở
lên phù hợp hơn. Tác giả đã rất cố gắng khi chỉ ra những bất cập, trở ngại trong
việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng song vẫn
chưa chú trọng đến các giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập đó.
2.2. Các nghiên cứu liên quan đến trẻ em lang thang
Trung tâm Y tế công cộng và phát triển cộng đồng phối hợp với Tổ chức
Bánh mỳ cho thế giới thực hiện nghiên cứu “Trẻ em đường phố và các cơ hội
can thiệp tại đầu đi (Trường hợp Tỉnh Thanh Hóa)” vào năm 2006 trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa với 3 huyện: Quảng Xương, Hậu Lộc và Cẩm Thủy. Mục tiêu
của nghiên cứu nhằm góp phần ngăn ngừa tình trạng trẻ em rời gia đình ra thành
phố và tạo cơ hội cho trẻ em có kỹ năng sống tích cực, giúp các em trở về quê
hương. Đây là nghiên cứu định tính, gồm có 29 cuộc phỏng vấn sâu và 12 buổi
thảo luận nhóm được thực hiện với lãnh đạo chính quyền địa phương, các ban
ngành đoàn thể có liên quan, cha mẹ của trẻ và những trẻ lang thang trên địa
bàn. Nghiên cứu đã đi đến một số kết luận: Trẻ em di cư đến các đô thị lớn kiếm
sống không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà cả những nước đang phát triển khác.
Các nghề mà các em thường làm cũng rất đa dạng, từ đánh giầy, bán báo, ăn xin
cho đến làm thuê trong những cửa hàng.

5


Nghiên cứu “Cuộc sống của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội” của
tác giả Nguyễn Thanh Bình được lấy kết quả từ điều tra xã hội học về trẻ em
lang thang trên địa bàn Hà Nội vào tháng 3/2009. Nghiên cứu tiến hành khảo sát
126 trẻ em lang thang, trong đó có 48 em nữ và 78 em nam với các độ tuổi khác

nhau từ 10 đến dưới 18 tuổi. Nghiên cứu đi theo hướng mô tả về đời sống của
trẻ em lang thang trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
chỗ ở của trẻ em lang thang rất đa dạng, bao gồm mái ấm, nhà tình thương, nhà
ở không mất tiền, nhà trọ, nhiều em phải ngủ tại bến xe, nhà ga, số khác ngủ tại
gia đình đang làm thuê. Công việc của trẻ em lang thang thường là lao động
chân tay, không yêu cầu trình độ và kiến thức. Thu nhập của các em ở mức thấp
và bấp bênh. Chi tiêu của trẻ em lang thang chủ yếu cho những nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống ở mức thấp và tiết kiệm. Cuộc sống của các em tương đối khó
khăn, hoàn cảnh gia đình éo le, trình độ học vấn thấp, cuộc sống bấp bênh và là
đối tượng bị đe dọa của nhiều tệ nạn xã hội. Nghiên cứu cũng mở ra những đòi
hỏi về chính sách an sinh xã hội, những biện pháp hỗ trợ cuộc sống cho trẻ em
lang thang.
Bài viết “Tìm hiểu về nhóm đối tượng trẻ em lang thang” của tác giả Vũ
Ngọc Phương (2012) đã cung cấp những thông tin quan trọng từ nhóm đối tượng
này. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để mô tả thực trạng trẻ em
lang thang về mặt số lượng, trình độ học vấn của các em, nghề nghiệp và những
mối đe dọa từ các tệ nạn xã hội. Từ đó, tác giả tìm hiểu nhu cầu của nhóm đối
tượng này thông qua nhóm nhu cầu: nhu cầu tâm lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu tự
do, nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu giao lưu, học hỏi, đó là những nhu cầu
thiết yếu của các em cần được đảm bảo. Bài viết đã chỉ ra những giải pháp cơ
bản để cho các em có cuộc sống ổn định hơn. Bài viết chủ yếu phân tích nguồn
tài liệu sẵn có; những tài liệu của các nghiên cứu mới ở mức điểm qua, chưa có
nhiều phân tích sâu sắc.

6


“Những ảnh hưởng của tệ nạn xã hội đến trẻ đường phố" là một nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Văn Đoàn (2011) nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tệ
nạn xã hội đến trẻ em đường phố tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình này đã

chỉ ra được phần nào những giải pháp, định hướng ở tầm vĩ mô và cả tầm vi mô,
ở mức độ nhất định đã mang lại những giá trị nghiên cứu và hiệu quả xã hội
thiết thực. Công trình thực hiện chủ yếu theo cách tiếp cận nghiên cứu và giải
quyết vấn đề của Xã hội học, đi sâu vào các khía cạnh tâm lý, kinh tế - xã hội,
văn hóa - xã hội … nên chưa đề cập nhiều đến việc xây dựng, triển khai các mô
hình can thiệp, hỗ trợ hoặc trang bị kỹ năng sống cho trẻ em lang thang đường
phố. Nếu đi sâu vào nghiên cứu theo nhóm đối tượng, chỉ rõ nguyên nhân, khái
quát lên bản chất của vấn đề quy định hiện tượng từ đó làm cơ sở đề xuất giải
pháp tác động, ứng dụng kỹ năng tác nghiệp chuyên nghiệp theo phương pháp
của Công tác xã hội thì vấn đề trẻ em lang thang trên các thành phố lớn mới có
thể được giải quyết triệt để, bền vững.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về CTXH nhóm đối với trẻ em lang thang và đánh giá
thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang thang tại Trung
tâm Bảo trợ xã hội I, thành phố Hà Nội để đề ra các giải pháp ứng dụng công tác
xã hội nhóm trong việc hỗ trợ trẻ em lang thang để tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
và giáo dục tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác lập cơ sở lý luận về CTHX nhóm trợ giúp trẻ em lang thang tiếp cập
với dịch vụ chăm sóc, giáo dục tại Trung tâm Bảo trợ xã hội.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng CTXH nhóm trợ giúp, hỗ trợ trẻ em lang
thang tiếp cận dịch vụ chăm sóc và giáo dục tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I
thành phố Hà Nội

7


- Đề xuất một số giải pháp ứng dụng CTXH trợ giúp trẻ em lang thang

tiếp cận với dịch vụ chăm sóc, giáo dục tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I thành phố
Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm trợ giúp đối với trẻ em lang thang trong việc tiếp cận
các dịch vụ chăm sóc, giáo dục tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu
Tập trung vào thực trạng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc, giáo dục đối với
nhóm trẻ em lang thang, ứng dụng các Lý thuyết công tác xã hội vào can thiệp
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc,giáo dục trẻ em lang thang tại Trung tâm.
-

Phạm vi không gian

Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I, thôn Đồng
Dầu, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội.
-

Phạm vi thời gian

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2016 đến tháng 6/2016.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh,đường lối chủ trương,chính sách pháp luật
của Đảng và Nhà nước về chăm sóc, giáo dục trẻ em.
5.2. Phương pháp thu thập thông tin

5.2.1. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Trong nghiên cứu này, tác giả tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với 48 trẻ
đang sinh sống tại Trung tâm. Kết quả thu được được xử lý bằng phần mềm
SPSS.

8


- Cơ cấu mẫu trẻ đang sinh sống tại Trung tâm như sau:
Về giới tính:
Giới
tính

Tần suất
(Trẻ)

Tỷ lệ
(%)

Nam

26

54.2

Nữ

22

45.8


Tổng

48

100.0

Cơ cấu tuổi:
Tuổi

Tần suất
(Trẻ)

Tỷ lệ
(%)

6-10

10

20.8

11-15

22

45.8

15-18


16

33.4

Tổng

48

100.0

Đặc điểm hoàn cảnh gia đình
Hoàn cảnh gia

Tần suất

đình

Tỷ lệ (%)

(Trẻ)

Khá giả

0

0.0

Trung bình

8


16.7

Cận nghèo

12

25.0

Nghèo

28

58.3

Tổng

48

100.0

9


5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu theo cơ cấu đối tượng như sau:
Đối tượng phỏng vấn

S


Số
lượng

TT
1

Cán bộ quản lý

03

2

Nhân viên chăm sóc

12

3

Trẻ em đang sinh sống tại Trung tâm

15

Tổng cộng

30

5.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu sử dụng tư liệu từ các công trình sau:
- Các báo cáo: Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010,
báo cáo hoạt động của một số mô hình bảo vệ trẻ em lang thang: trung tâm, làng

trẻ, mái ấm tình thương, gia đình thay thế…, báo cáo hoạt động chăm sóc, bảo vệ
trẻ em ở Hà Nội theo từng năm, báo cáo tình hình hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em của Trung tâm Bảo trợ xã hội I năm 2015.
- Chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 20112015, chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010.
- Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về trẻ em, trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, trẻ em lang thang, mô hình chăm sóc, bảo vệ trẻ em lang
thang của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả trong cả nước.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú cơ sở dữ liệu cho
cho công tác chăm sóc trẻ em lang thang, có cách nhìn tổng quan về chính sách
trợ giúp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biêt và trẻ em lang thang tại Trung tâm
Bảo trợ xã hội I, thành phố Hà Nội.

10


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cung cấp một cách nhìn về thực trạng hoạt động bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em lang thang tại trung tâm bảo trợ xã hội I, thành phố
Hà Nội. Trên cơ sở đó, có những giải pháp tổ chức, điều phối nhân sự và các hoạt
động khác phù hợp hơn với tình hình thực tế, nhân viên xã hội tại Trung tâm bảo
trợ xã hội
Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo hữu ích đối với công tác bảo
vệ, chăm sóc trẻ em lang thang.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và giải pháp ,nội dung chính
được chia làm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Công tác xã hội nhóm

đối với trẻ em lang thang tại Trung tâm Bảo trợ xã hội
Chương 2. Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang thang tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội I, thành phố Hà Nội
Chương 3. Ứng dụng công tác xã hội nhóm trong giải quyết vấn đề tiếp
cận dịch vụ chăm sóc, giáo dục trẻ em lang thang tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I,
thành phố Hà Nội.

11


Chương 1

NHỮN VẤN ĐỀ LÝ LUẬN V THỰC TIỄN VỀ C N T C
HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM LAN THAN TẠI
TRUN TÂM BẢO TRỢ

HỘI I

1.1. Một số khái niệm về Trung tâm Bảo trợ xã hội và trẻ em lang thang
1.1.1. Trẻ em
Hiện nay, khái niệm “Trẻ em” không đồng nhất tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Theo quan điểm của một số tổ chức quốc tế trực thuộc Liên hiệp quốc như
Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 15 tuổi [10].
Theo Điều 1, Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công
bố năm 1989 xác định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên
sớm hơn” [26].
Tại Việt Nam, theo Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.

Trong phạm vi của đề tài, tác giả vận dụng khái niệm Trẻ em theo Điều 1,
Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Trên cơ sở đó, nhóm trẻ trong phạm vi
nghiên cứu là những em lang thang, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đủ 18
tuổi trở xuống tại Trung tâm Bảo trợ xã hội I, Huyện Đông Anh, Thành phố Hà
Nội [27].
1.1.2. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em sửa đổi năm 2004: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hiểu là trẻ em có
hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để
thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng”.
Cũng trong Luật này, Điều 40 quy định: “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật,
12


tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ
em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải
làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em
nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật” [33].
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng khái niệm Trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 và Điều 40 trong Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004.
1.1.3. Trẻ em lang thang
Khoản 2, Điều 3, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm
2004 quy định: “Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi
kiếm sống và nơi cư trú không ổn định; trẻ em cùng với gia đình đi lang thang”.
Có thể chia trẻ em lang thang thành những nhóm sau:
1) Trẻ em ban ngày lang thang kiếm sống trên đường phố, tối trở về cùng
gia đình.
2) Trẻ em có gia đình nhưng tự lang thang kiếm sống và ít khi về thăm gia

đình. Đây là nhóm trẻ em có cha mẹ, nhưng do cha mẹ quá nghèo nên để con tự
đi kiếm sống trên đường phố.
3) Trẻ em có gia đình, nhưng không có mối quan hệ với gia đình, gồm số
trẻ em trốn nhà ra đi (do bị đánh đập, bị đối xử thô bạo, hoặc do đua đòi, thích
sống phóng túng, tự do).
4) Trẻ em hoàn toàn bị bỏ rơi, bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,
trẻ em không người chăm sóc, các em phải tự kiếm sống nuôi lấy bản thân.
5) Trẻ em lang thang cùng với gia đình (gia đình từ nông thôn về thành
thị, ban ngày chia mỗi người một ngả để kiếm ăn, tối về "đoàn tụ" trên vỉa hè,
nhà ga, nhà trọ rẻ tiền…).
1.1.4. Cơ sở bảo trợ xã hội
Theo Điều 1 và Điều 2, Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của
Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể
cơ sở bảo trợ xã hội thì cơ sở bảo trợ xã hội là cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10
13


đối tượng trở lên. Cơ sở bảo trợ xã hội bao gồm cơ sở bảo trợ xã hội công lập và
cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập [7].
Cơ sở bảo trợ xã hội công lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của
cơ sở bảo trợ xã hội.
Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm
vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội [7].
Cơ sở bảo trợ xã hội là tên gọi chung cho tất cả các mô hình hoạt động
bảo trợ xã hội dưới các hình thức tên gọi khác nhau phụ thuộc vào đối tượng,
chức năng và nhiệm vụ của đơn vị đó. Có nhiều tên gọi khác nhau về cơ sở bảo
trợ xã hội như trung tâm bảo trợ xã hội, làng trẻ em SOS, mái ấm tình thương,
nhà nuôi dưỡng ... Trong nghiên cứu này, Trung tâm Bảo trợ xã hội I là một loại

hình cơ sở bảo trợ xã hội công lập có đối tượng bảo trợ trọng tâm là người lang
thang ở Hà Nội.
1.2. Đặc điểm tâm lý và cách tiếp cận trong hoạt động CT H đối với trẻ em
lang thang
1.2.1. Đặc điểm tâm lý
Trẻ em lang thang đường phố, hay còn gọi là trẻ lang thang là đối tượng
trẻ có những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Vì một số điều kiện từ phía gia đình
và xã hội, với độ tuổi còn non nớt nhưng các em vẫn phải tự bươn chải, kiếm
sống hàng ngày trên đường phố. Những khó khăn và cạm bẫy trong cuộc sống
mưu sinh của trẻ lang thang đã tạo nên một số đặc điểm tâm lý riêng biệt so với
những trẻ em cùng độ tuổi.
Dưới đây là một số đặc điểm tâm lý của trẻ lang thang:
- Thích sống tự do, không chịu sống trong khuôn khổ: Do khi sống trên
đường phố, các em được tự do đi lại, ăn uống, sinh hoạt, có nhiều mối quan hệ,
không bị ràng buộc bởi những quy định. Vì thế nếu các em được đưa vào Trung
tâm Bảo trợ thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng với những quy định,
14


điều lệ. Một số em dần quen và thích ứng, nhưng một số lại bỏ trốn ra ngoài,
mặc dù biết cuộc sống bên ngoài có nhiều cạm bẫy, nguy hiểm.
- Luôn có cơ chế tự vệ, phòng ngự cao: Mặc dù tự nhận thức được sự hạn
chế về khả năng của bản thân nhưng do phải thường xuyên đối đầu với những
nguy cơ đe doạ đến tính mạng, đến việc kiếm sống nên các em luôn phải cảnh
giác, trong trạng thái phòng ngự bất kể những gì có thể làm tổn hại đến mình.
- Có lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ những người yếu thế: Các em rất
dễ thông cảm, đồng cảm với những người có cùng hoàn cảnh khó khăn như người
già yếu, người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, người bị bỏ rơi, người
gặp hoạn nạn…. thường được các em sẵn lòng giúp đỡ, tương trợ. Một số em do
hoàn cảnh gia đình khó khăn đã biết tiết kiệm tiền để gửi giúp đỡ gia đình.

- Gắn kết với nhóm bạn bè mà các em là thành viên: Mặc dù thích cuộc sống
tự do, nhưng các em lại rất tôn trọng những nguyên tắc mà nhóm đặt ra. Các thành
viên trong nhóm có thể hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi cho nhau, đồng thời nhóm cũng là
nơi mà các em có thể chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn, những thuận lợi và khó
khăn trong cuộc sống, giúp các em cân bằng về mặt tinh thần hơn.
- Có tính tự lập cao: Do sớm phải bươn trải với cuộc sống trên đường phố
nên các em dần tự biết cách sắp xếp, tổ chức cuộc sống. Mọi công việc đều được
các em làm chủ và tự quyết định.
- Có lòng tự trọng cao: Là những người sớm tự kiếm tiền, tự làm chủ cuộc
sống, không phải phụ thuộc nên một số em tự nhận thấy được giá trị của bản
thân. Vì vậy, nếu bị tổn thương lòng tự trọng, các em sẵn sàng có những hành
động hung hăng để bảo vệ lòng tự trọng của mình.
Mặc dù cuộc sống của trẻ lang thang có nhiều khó khăn, cạm bẫy nhưng
không phải lúc nào các em cũng mong muốn và sẵn sàng nhận sự giúp đỡ. Vì
vậy, muốn hỗ trợ cho các em, cần phải hiểu những đặc điểm tâm lý này để có
cách tác động hợp lý và hiệu quả.

15


1.2.2. Cách tiếp cận trong hoạt động CTXH nhóm đối với trẻ em lang thang
1.2.2.1. Cách tiếp cận theo nhu cầu của trẻ em
Nhà tâm lý học Abrahanm Maslow (1908-1970) đươc xem như một trong
những người đi tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn , trường phái
này được xem là thế lực thứ 3 khi thế giới lúc ấy đang biết đến 2 trường phái
tâm lý chính: Phân tâm hoc và Chủ nghiã hành vi. Năm 1943, ông đã phát triển
một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhân rông rãi và
đươc sử dung trong những lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vưc giáo dục.
Đó là lý thuyết về thang bậc nhu cầu của con người. Trong lý thuyết này, ông
sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hê thống trật tự cấp bậc, trong đó,

các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp
hơn phải đươc thỏa mãm trước. Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết , Maslow
đã sắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc:

Hình 1.1 Thang nhu cầu của Maslow
Nhu cầu cơ bản: bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như : ăn
uống, ngủ, không khí để thở … Đây là những nhu cầu cơ bản nhất và manh nhất
của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được
xếp vào bậc nhất : bậc cơ bản nhất. Maslow cho rằng, những nhu cầu này ở mức
đô cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn

16


và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành
động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được .
Nhu cầu về an toàn: Nhu cầu an toàn này thể hiên trong cả thể chất lẫn
tinh thần. Con người mong muốn có sự bảo vê cho sự sống còn của mình khỏi
các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường
hơp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, găp thú dữ…
Nhu cầu về xã hội : Nhu cầu này còn đươc goị là nhu cầu mong muốn
thuôc về môt bô phận , môt tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm , tình
thương. Nếu nhu cầu này không được thỏa mãn , đáp ứng, nó có thể gây ra các
bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh.
Nhu cầu đươc quý trọng: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng vì
nó thể hiện hai cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua
các thành quả của bản thân và nhu cầu cảm nhận , quý trọng chính mình, danh
tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Vì thế
những nhân viên công tác xã hội tiếp xúc với trẻ lang thang đường phố, đặc biệt
với các em có tâm lý tuyệt vọng, chán chường phải biết hòa nhập với các em,

xác lập một tình cảm và sự tin cậy ở các em. Hiểu rõ hoàn cảnh và những tổn
thương các em đã phải trải qua trong quá khứ. Sự tin tưởng, tình yêu thương là
một yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình làm việc và giúp đỡ các em một
cách hiệu quả nhất.
Nhu cầu được thể hiên mình :

hi nghe về nhu cầu này : “thể hiện mình”

chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực . hông phải ngẫu nhiên mà nhu
cầu này được xếp đặt ở mức đô cao nhất . Nhu cầu của môt cá nhân mong muốn
được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”. Nói một
cách giản đơn , đây chính là nhu cầu đươc sử dụng hết khả năng , tiềm năng của
mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội. Mỗi
một cá nhân chúng ta đều tồn tại trong mình những nhu cầu thiết yếu nêu trên.
Những trẻ em lang thang đường phố cũng không nằm ngoài quy luật đó. hi trẻ
lang thang, bụi đời đã chọn cách sống lang thang đường phố là phương sách tối
17


ưu đối với chúng thì nhiều em không thể hoặc không muốn đưa ra lời giải thích
nào khác cho động cơ của chúng ngoài việc chúng muốn được “độc lập”, “tự
do” không bị ràng buộc vào gia đình và các tổ chức xã hội mà muốn gắn bó với
bạn bè đồng cảnh. Đây cũng chính là thách thức lớn đối với Trung tâm Bảo trợ
xã hôi I, có nhiều em khi sống một thời gian dài cũng không thể thích nghi được
với cuộc sống mới với những nội quy, quy định nhất định đã quay trở lại con
đường cũ lang thang kiếm sống và nhiều em đã vướng vào tù tội. Việc vận dụng
lý thuyết này vào nghiên cứu nhằm mục đích trước hết xem xét hệ thống nhu
cầu của nhóm trẻ lang thang, các em có những nhu cầu gì chưa được thỏa mãn,
chưa được xã hội đáp ứng. Từ đó sẽ đối chiếu với những hoạt động cung cấp
dịch vụ công tác xã hội , xem xét mức đô phù hơp của dịch vụ đó với các nhu

cầu của trẻ em lang thang . Phù hợp với nhu cầu của đối tượng là yêu cầu tiên
quyết , không thể thiếu quyết định hiêụ quả của các hoạt động trợ giúp; viêc tìm
hiểu nhu cầu của trẻ em lang thang là khâu không thể thiếu trong hoạt động cung
cấp dich vu công tác xã hội để đưa ra những trợ giúp hiệu quả nhất.
1.2.2.2. Cách tiếp cận theo quyền của trẻ em
Việt nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/19900. Công
ước này ghi nhận các nhóm quyền của trẻ em bao gồm:
Quyền được sinh tồn
Trẻ em được sống cuộc sống bình thường và được đấp ướng những nhu
cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triên thể chất. Đố là mức sống đủ, có nơi ở, ăn
uống đủ chất, được chăm sóc sức khoẻ. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi
ra đời.
Quyền được phát triển
Bao gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ về cả tinh
thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham các hoạt động văn hoá,
tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng…Trẻ em cần có sự yêu
thương và cảm thông của cha mẹ đẻ có thể phát triển hài hoà.
18


Quyền được bảo vệ
Bao gồm những qui định như trẻ phải được bảo vệ khỏi các hình thức bóc
lột sức lao động, bóc lột và xâm hại tình dục, lạm dụng ma tuý, sao nhãng và bị
bỏ rơi,buôn bán…Trẻ em còn được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào quyền
riêng tư. Quyên được bảo vệ bao gồm cả không tra tấn, đánh đập và lạm dụng
trong trường hợp trẻ em làm trái pháp lụt hay bị giam giữ.
Quyền được tham gia
Tạo điều kiện cho trẻ em được bày tỏ quan điểm và ý kiến về những vấn
đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em còn có quyền kết bạn, giao lưu

và hội họp, được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin và chọn lựu thông
tin phù hợp.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng nhấn mạnh trẻ em có quyền được
lăng nghe, quyền biẻu đạt quan điểm của mình mà không sợ bị tổn hại hoặc
trừng phạt.
1.2.2.3. Tiếp cận vì lợi ích tốt nhất của trẻ
Tiếp cận theo quan điểm này là cách tiếp cận với việc cung cấp các dịch
vụ đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Tiếp cận theo nguyên tắc này có ý nghĩa
ở bất cứ hoàn cảnh nào, nhân viên CTXH đều phải đặt lợi ích tốt nhất cho trẻ lên
hàng đầu.
1.3 Một số lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em lang thang
1.3.1 Một số khái niệm
1.3.1.1. Công tác xã hội
Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW - 1970):
“Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng
đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và
tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”.
Định nghĩa của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua
tháng 7 năm 2000 tại Montréal, Canada (IFSW): “Nghề Công tác xã hội thúc
đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng
19


×