VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HƯƠNG GIANG
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI
TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC TOẢN
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn tốt nghiệp “Công tác xã hội đối
với trẻ em mồ côi từ thực tiễn trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai” là công trình
nghiên cứu do tôi thực hiện, số liệu và tài liệu tham khảo dùng trong luận văn đều
được trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên công trình, thời gian và địa điểm công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2016
Người thực hiện
Trần Thị Hương Giang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................6
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu...........................................6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.......................................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...............................................11
7. Cơ cấu của luận văn..................................................................................12
Chương 1................................................................................................13
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI..................13
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ
HỘI.........................................................................................................13
1.1. Những khái niệm liên quan...................................................................13
1.2. Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi ..................................................16
d) Tiếp cận dựa theo vòng đời của trẻ em...................................................17
1.3. Các yếu tố tác động đến công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi...........23
1.4. Hệ thống chính sách, pháp luật về công tác xã hội đối với trẻ em mồ
côi tại tâm công tác xã hội............................................................................27
Chương 2................................................................................................32
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
TRẺ MỒ CÔI........................................................................................32
TẠI TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TỈNH LÀO CAI.............32
2.1. Khái quát tình địa bàn nghiên cứu.......................................................32
2.2. Kết quả hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại Trung
tâm công tác xã hội tỉnh Lào Cai.................................................................40
2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng tới công tác xã hội tại Trung tâm........50
2.4. Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với hoạt động công tác xã
hội với trẻ em mồ côi tại trung tâm .............................................................54
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ
HỘI TỈNH LÀO CAI............................................................................61
3.1. Bối cảnh và yêu cầu...............................................................................61
3.2. Giải pháp hoàn thiện, đối mới công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi63
Biểu 3. 2: Quy trình tiếp nhận đối tượng vào trung tâm............................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
: Công tác xã hội
NVCTXH : Nhân viên công tác xã hội
Trung tâm : Trung tâm Công tác xã hội Tỉnh Lào
TEMC
Cai
: Trẻ em mồ côi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt nam đã và đang trải qua những thay đổi quan trọng về kinh tế - xã hội.
Có thể khẳng định chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam đã được cải thiện
đáng kể, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả tiến bộ, quan trọng trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo, phát triển an sinh xã hội. Tuy nhiên, tăng trưởng và phát triển
kinh tế ở Việt Nam không đồng đều, một bộ phận đáng kể người dân chưa được
hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế. Để giải quyết những vấn đề này, Chính phủ Việt
Nam đã thúc đẩy xây dựng các chiến lược và chính sách phúc lợi xã hội cũng như
tạo nền tảng pháp lý và chính sách cho công cuộc xóa đói giảm nghèo và các chính
sách xã hội. Một trong những chủ trương nhất quán trong đường lối và chính sách
của Việt Nam là đặt người dân vào vị trí trung tâm của công cuộc phát triển đất
nước, do đó, bảo vệ và bảo đảm sự phát triển của trẻ em luôn được ưu tiên hàng
đầu. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực và quốc gia thứ hai trên thế giới
tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em thể hiện sự cam
kết mạnh mẽ của nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế về công tác giáo dục và
bảo vệ trẻ em.
Trong giai đoạn 2001 – 2010, chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình mục
tiêu Quốc gia đã trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ
các quyền trẻ em gồm có: các chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo giai
đoạn 2006-2010; chương trình 135 giai đoạn II; Chương trình 30a; Đề án “Chăm
sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị tàn tật nặng, trẻ
em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng
đồng giai đoạn 2005-2010” ... Theo số liệu thông kê của Bộ Lao động Thương binh
và xã hội cả nước hiện có 432 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có trên 300 cơ sở có chăm
sóc trẻ em đặc biệt khó khăn gồm: 159 cơ sở do ngành Lao động-Thương binh và Xã
hội quản lý, 17 cơ sở ngành Giáo dục và Đào tạo quản lý, trên 10 cơ sở thuộc các Hội,
đoàn thể. Hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội hiện đang chăm sóc, nuôi dưỡng 20.000 trẻ
1
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trong khi các cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng đối
tượng ngoài công lập còn ít với giá thành cao chỉ đáp ứng được nhu cầu sử dụng dịch
vụ của một bộ phận rất nhỏ các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả. Từ kết quả trên
cho thấy việc chăm sóc đối tượng tập trung tại các trung tâm bảo trợ xã hội là hết
sức cần thiết. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng trợ giúp đối tượng, khắc phục được
những hạn chế của mô hình chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng tập trung đang áp dụng
cần phải có những nghiên cứu sâu mô hình hiện tại, tìm ra những mặt hạn chế,
nhược điểm để xây dựng một mô hình trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội
mới phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay.
Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 06/12/1993 là
cơ sở bảo trợ xã hội công lập duy nhất trực thuộc Sở Lao động Thương Binh Xã hội
tỉnh Lào Cai. Mục đích hoạt động chủ yếu là tiếp nhận và chăm sóc đối tượng, trong
đó bảo đảm tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dinh dưỡng, văn hóa thể
thao... Việc tiếp cận các dịch vụ tham vấn, tư vấn, phục hồi chức năng và tái hòa
nhập cộng động tuy đã được thực hiện nhưng vẫn còn hạn chế. Để đảm bảo việc
chăm sóc nuôi dưỡng, trung tâm xây dựng và thực hiện các quy trình tiếp nhận, quy
trình quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, quy trình tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên
hoạt động của trung tâm còn mang nặng tính hành chính, cơ chế quản lý cứng nhắc,
cán bộ chưa nắm vững về các chính sách liên quan đến trẻ…Xuất phát từ những lý
do trên, để tăng cường công tác xã hội đối với trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói
riêng đồng thời đề ra những giải pháp để hoàn thiện hơn trong thời gian tới góp phần
vào sự phát triển kinh tế xã hội tại địa phương tôi đã chọn đề tài: “Công tác xã hội
đối với trẻ em mồ côi từ thực tiễn Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai” làm luận
văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trẻ em là một trong những nhóm đối tượng nhận được sự quan tâm đặc biệt của
các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả trong và ngoài nước.
Trong đó phải kể đến một số nghiên cứu sau:
2
Christian Salazar Volkmann nghiên cứu “Những điểm mở và thách thức cơ
bản với phương thức làm chương trình dựa trên cơ sở quyền con người cho phụ nữ
và trẻ em ở Việt Nam”. Trong nghiên cứu tác giả đề cập đến vấn đề quyền của phụ
nữ và trẻ em, làm rõ những yếu tố cơ hội và thách thức cơ bản nhất liên quan đến
chương trình đảm bảo quyền và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em Việt Nam trên cơ
sở tiếp cận từ quyền con người. Tác giả đồng thời cho thấy, thực hiện đầy đủ quyền
đối với phụ nữ và trẻ em mang lại động lực cần thiết để họ tham gia đầy đủ, có hiệu
quả vào các hoạt động xã hội.
Mai Thị Kim Thanh (2001)“Tìm hiểu ảnh hưởng của quan hệ ứng xử giữa
các thành viên trong gia đình với nhau và với trẻ tới sức khỏe của trẻ em trong các
gia đình Việt Nam hiện nay, Kỉ yếu Hội nghị Khoa học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội
lần thứ 6. Tác giả đã nhận định mức độ tâm sự của những người thân trong gia đình
đối với trẻ em được thể hiện là: tâm sự giữa bố, mẹ với con chiếm 46,2%, ông bà
với cháu chiếm 24,8%, mẹ với con chiếm 24,7%, ít tâm sự chiếm 8,0%, anh chị em
với nhau chiếm 5,8%, bố với con chiếm 4,6% và không tâm sự chiếm 4,5%. Tỷ lệ
tâm sự giữa bố, mẹ, ông, bà với con cái càng thấp thì càng ảnh hưởng đến sức khỏe
con cái, đặc biệt là sức khỏe tinh thần.
Trịnh Hòa Bình (2005), “Sự hiểu biết giữa gia đình và trẻ em về vấn đề quyền
trẻ em hiện nay”, Tạp chí Xã hội học số 4/2005. Nghiên cứu tập trung điều tra về
kiến thức, thái độ, hành vi của cộng đồng về quyền trẻ em, (2004- 2005) trên quy
mô 10 tỉnh, thành phố trong cả nước với sự tham gia của 3000 cha mẹ. Một trong
những phát hiện quan trọng là sự thấu hiểu giữa cha mẹ và con cái còn nhiều bất
cập thể hiện qua những mâu thuẫn cơ bản trong gia đình Việt Nam hiện nay qua
việc phân tích những thông tin định tính và định lượng từ cuộc khảo sát.
UNICEF (2010) công bố“Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam”.
Với phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, đã xem xét trẻ em dựa trên quan điểm
các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình. Kết quả
nghiên cứu đã làm rõ tình hình trẻ em nam và nữ, nông thôn và thành thị, dân tộc
Kinh và dân tộc thiểu số, trẻ em giàu và trẻ em nghèo hiện nay ở Việt Nam. Trong
3
đó, nhóm trẻ em thiếu sự chăm sóc của bố mẹ ở Việt Nam có diễn biến phức tạp.
Các cơ sở chăm sóc cả công lập và dân lập có ở hầu hết các tỉnh thành trong cả
nước dưới nhiều hình thức như chăm sóc tại nhà, chăm sóc tập trung và các hình
thức chăm sóc hỗ trợ không chính thức khác. Báo cáo cũng chỉ ra Việt Nam còn
thiếu các quy định cụ thể cho việc truy tố những đối tượng hoạt động môi giới cho
nhận con nuôi trái pháp luật.
Nguyễn Hải Hữu (2012), “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống bảo vệ
trẻ em”. Trong đó tác giả đã tổng hợp phân tích kinh nghiệm Australia, Thuỵ Điển,
Hồng Kông và một số nước về quá trình hình thành và phát triển hệ thống bảo vệ
trẻ em. Trong đó tác giả đã dùng khái niệm “tư pháp thân thiện với trẻ em” để nhấn
mạnh vai trò của hệ thống pháp luật và chính sách. Khi trẻ em vi phạm pháp luật thì
áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lí tại toà án như thế nào để không gây tổn
hại cho trẻ em đặc biệt là trong trường hợp trẻ em là nạn nhân của các hành vi bạo
lực, xâm hại.
Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2009), Nghiên cứu về
“Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ
em , đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”. Đánh giá tập trung đến
pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sánh với các chuẩn mực quốc tế,
tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của Pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó kiến nghị,
đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề nhận con nuôi trong nước và
nước ngoài. Mặt khác đánh giá cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề cần phải khắc phục như
chưa có khung pháp lý về công tác đánh giá một cách hệ thống và chuyên nghiệp
đối với trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi để quyết định mô hình chăm sóc nào sẽ phù hợp
với lợi ích cho trẻ nhất, đảm bảo rằng trẻ được nhận nuôi trong một gia đình thay
thế phù hợp nhất với lợi ích của trẻ.
Lê Bạch Dương và các tác giả (2005), biên soạn tài liệu “Bảo trợ xã hội cho
những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam”, NXB Thế giới, Hà Nội. Tài liệu trình bày kết
quả khảo sát các nhu cầu và vấn đề có liên quan đến các nhóm xã hội thiệt thòi ở
4
Việt Nam. Nhìn nhận chức năng trợ giúp xã hội thường xuyên như hệ thống bảo trợ
xã hội. Trong đó có chính sách, giải pháp đối với trẻ em mồ côi.
Nguyễn Ngọc Toản (2011), biên soạn sách chuyên khảo về “Xây dựng và
hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở Việt Nam”, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân. Công trình nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính
sách TGXH thường xuyên cộng đồng. Trong đó có đề cập đến đánh giá thực trạng
trẻ em mồ côi, nhu cầu trợ giúp; thực trạng hệ thống chính sách. Từ đó, tác giả đưa
ra một số định hướng đổi mới chính sách và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện
chính sách.
Vũ Kim Hoa (2008), nghiên cứu chuyên đề về “chăm sóc trẻ mồ côi, bỏ rơi
thông qua chăm sóc thay thế”. Tác giả đã chỉ rõ được thực tế tình trạng trẻ em mồ
côi, bị bỏ rơi không nơi nương tựa, các nhu cầu cơ bản không được đáp ứng và gặp
nhiều nguy hiểm khi các em phải sống lang thang. Tác giả đã trình bày cụ thể về
các mô hình gia đình chăm sóc trẻ thay thế ở trên thế giới và ở Việt Nam. Song
song với những thuận lợi của mô hình chăm sóc thay thế đó là những hạn chế và
hướng khắc phục những hạn chế đó.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (2014), nghiên cứu rà soát, thống kê
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ
em là nạn nhân của chất độc hoá học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, thảm hoạ dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm
2014. Nghiên cứu chỉ ra tổng số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn toàn tỉnh
4.033 trẻ (0,61 % dân số toàn tỉnh). Trong đó trẻ em mồ côi, bỏ rơi là 2.837 trẻ
(70,34% số trẻ có hoàn cảnh đặc biệt) tập trung ở các huyện Si Ma Cai, Sa Pa, Bát
Xát, và thành phố Lào Cai. Triển khai thực hiện công tác chăm sóc trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn đã được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là của
Tỉnh uỷ, HĐND, Ủy ban nhân dân, Uỷ ban MTTQ tỉnh, sự phối kết hợp chặt chẽ
của các cấp các ngành, các đoàn thể và nhân dân. Tuy vậy, công tác chăm sóc trẻ em
mồ côi vẫn còn những hạn chế nhất định như: (i) Đội ngũ cán bộ, trình độ của cán bộ
làm công tác bảo trợ xã hội ở cơ sở thường xuyên luân chuyển do vậy còn thiếu
5
kiến thức, chuyên môn về lĩnh vực BTXH; (ii) Việc xác định điều kiện hưởng trợ
cấp với đối với trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại mất đang gặp khó
khăn; (iii) Việc huy động các nguồn lực còn hạn chế chủ yếu vẫn từ nguồn kinh phí
ngân sách Nhà nước; (iv) Các cơ sở nhận nuôi dưỡng, phục hồi chức năng trên địa bàn
toàn tỉnh chưa có. Báo cáo cũng đã đề xuất các giải pháp, chính sách phù hợp với
tình hình thực tế của tỉnh.
Tóm lại, tổng quan nghiên cứu cho thấy trẻ mồ côi là nhóm đối tượng đã
được các chuyên gia quan tâm, nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Đã phân tích
nhiều vấn đề mang tính hệ thống, toàn diện nêu được những giải pháp trong đó có
các giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội trẻ em ở việt nam. Tuy nhiên, tiếp cận
từ góc nhìn công tác xã hội đối với nhóm trẻ em mồ côi tại Trung tâm công tác xã
hội nói chung và ở tỉnh Lào cai nói riêng hầu như chưa có. Đây là một trong những
lý do cần thực hiện nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm phân tích, đánh giá thực trạng công tác xã hội đối với trẻ
em mồ côi, tìm ra nguyên nhân của thực trạng, từ đó đưa ra những kiến nghị mang
tính định hướng nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả chăm sóc trẻ em mồ côi của
trung tâm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu nghiên cứu một số lý luận cơ bản về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
- Tìm hiểu thực trạng công tác xã hội liên quan đến hoạt động bảo vệ trẻ em
tại Trung tâm Công tác xã hội.
- Đưa ra những kiến nghị mang tính giải pháp, giúp cán bộ, nhân viên thực
hiện tốt nhiệm vụ công tác xã hội đối với trung tâm.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi không nơi nương tựa từ
thực tiễn trung tâm công tác xã hội tỉnh Lào Cai.
6
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ em mồ côi có độ tuổi từ 7 đến dưới 16 tuổi tại Trung tâm Công tác xã
hội tỉnh Lào Cai;
- Nhân viên công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ mồ côi tại Trung tâm
Công tác xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc.
- Cán bộ quản lý của trung tâm công tác xã hội
4.3. Phạm vi nghiên cứu
* Về phạm vi nội dung
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng công tác xã hội đối với trẻ
em mồ côi tại trung tâm cụ thể 4 hoạt động cơ bản đó là: Bảo đảm điều kiện sống cơ
bản, môi trường sống an toàn; công tác giáo dục; Kết nối các nguồn lực; hướng
nghiệp, dạy nghề
* Về phạm vi khách thể
- 73 trẻ có độ tuổi từ 7 tuổi đến dưới 16 tuổi, có khả năng đọc, hiểu, nhận
thức tốt, có khả năng chia sẻ, hợp tác tốt, số trẻ còn lại không thuộc đối tượng
nghiên cứu của luận văn. Trong 73 trẻ là đối tượng nghiên cứu có 41 trẻ em nam và
32 trẻ em nữ.
- 20 Nhân viên công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ mồ côi tại Trung tâm
Công tác xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc.
- 01 Cán bộ quản lý của trung tâm công tác xã hội
* Phạm vi về không gian và thời gian
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12/2015 đến 30/6/2016
- Phạm vi về không gian: Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
* Các lý thuyết tiếp cận
Lý thuyết nhu cầu
Thuyết nhu cầu của A. Maslow: là thuyết quan trọng trong việc nhận dạng các
nhu cầu tự nhiên của con người. Theo lý thuyết này nhu cầu của con người được chia
7
làm hai nhóm chính: Nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs).
Theo lý thuyết này, nhu cầu của trẻ em là được đảm bảo an sinh xã hội đây là nhu cầu
ở mức thấp và khi đã đảm bảo được các nhu cầu này thì sẽ xuất hiện nhu cầu an sinh
xã hội ở cấp cao hơn. Các nhu cầu ở mức cao đó là các dịch vụ xã hội cung cấp cho
trẻ em để các em được quý trọng, kính mến, thể hiện sự tự trọng và tiếp theo là sự
hoàn thiện về thể chất và trí tuệ.
Bảng 1.1 bậc thang nhu cầu của MasLow:
Mức cao
Mức thấp
Nhu cầu về sự hoàn thiện
Nhu cầu về sự kính mến và lòng tự trọng
Nhu cầu về quyền sở hữu và tình cảm (được yêu thương
Nhu cầu về an toàn, an ninh
Nhu cầu về thể chất và sinh lý
Cấp độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người
gồm nhu cầu ăn, mặc, ở…Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo
vệ. Nhu cầu an toàn có nhu cầu an toàn về tính mạng, tài sản. Cao hơn là nhu cầu
quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa người với tổ chức hay quan hệ giữa con
người với tự nhiên. Con người luôn có nhu cầu yêu thương, gắn bó. Cấp độ này cho
thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Đây là mong muốn con người nhận
được sự chú ý, quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh. Vì thế con người
thường mong muốn có địa vị cao được mọi người nể trọng. Con người cá nhân hay
con người trong tổ chức, trong cộng đồng chủ yếu hành động theo nhu cầu, chính sự
thỏa mãn nhu cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời việc nhu
cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích hành động của con người. Theo
cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan trọng và việc tác động vào nhu cầu
cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người.
Thuyết hệ thống của T. Parsonr: T. Parsons xem xã hội như là một hệ thống
bao gồm những bộ phận có quan hệ tồn tại trong một trạng thái bình quân và trật tự.
T. Parsons muốn tìm hiểu xem mỗi một yếu tố (bộ phận) đóng góp vào sự vận hành
xã hội như thế nào? Điểm đặc biệt của T. Parsons là khẳng định xã hội là một hệ
8
thống có một sự hội nhập tốt trong đó mỗi khuân mẫu xã hội đều có đóng góp bằng
chức năng của mình trong sự vận hành xã hội xét như một tổng thể, ông muốn phân
tích những vấn đề tổng quát nhất, ông giải thích xã hội con người cực kỳ phức tạp đó
tồn tại như thế nào, vận hành ra sao, tại sao biến đổi và biến đổi như thế nào.
Theo lý thuyết hệ thống thì chính sách an sinh xã hội trẻ em nằm trong hệ thống
an sinh xã hội. theo T. Parsons, mọi xã hội để tồn tại phải thỏa mãn bốn yêu cầu chức
năng sau đây mà nhiều tác giả gọi nó là sơ đồ AGIL (Macionis, 1988, Wallace,
Ritze,1988)
1. Thích ứng: cũng như con người, xã hội muốn tồn taị phải thích ứng với môi
trường. Ông cho rằng nhiệm vụ đầu tiên của bất cứ xã hội nào cũng là sản xuất và
phân phối nguồn lực vật chất (lương thực, chỗ ở…) cần thiết cho sự sống còn của các
thành viên. Theo T. Parsons, trong xã hội hiện đại chức năng này được thực hiện bởi
các định chế kinh tế. Vấn đề trung tâm của các chức năng này là sản xuất, tạo ra của
cải vật chất.
2. Đạt đến các mục tiêu: Xã hội chỉ có thể vận hành khi hướng đến các mục tiêu
nào đó. Sau khi thỏa mãn những nhu cầu vật chất nhu cầu cơ bản của các thành viên,
nhiệm vụ tổng quát thứ 2 là phát triển và đạt được những mục tiêu khác của xã hội.
Các mục tiêu này có thể nâng cao mức sống, điều hòa các mối quan hệ trong xã hội
và các xã hội khác. Một khi các mục tiêu khác đã được xác định, cần phải được đánh
giá và nỗ lực tổ chức nhằm thực hiện chúng. Chức năng này liên quan chủ yếu đến
quyền lực.
3. Hội nhập: là việc hội nhập tất cả các thành viên vào nhóm, vào các tổ chức
tập thể. Để thực hiện bất kỳ mục tiêu nào, một xã hội phải lập ra những dạng tổ chức
nào đó, đặc biệt là xã hội hiện đại với rất nhiều người có những hoạt động chuyên
môn khác nhau, do đó các nỗ lực của các thành viên trong xã hội phải được hướng
dẫn, phải đượcphối hợp để hội nhập vào các tổ chức. Vấn đề trung tâm của yêu cầu
chức năng này thực hiện các chuẩn mực hoặc ảnh hưởng.
4. Duy trì khuân mẫu, chuẩn mực: Hội nhập nỗ lực của mọi người tùy thuộc vào
việc động viên các thành viên tuân thủ theo các khuân mẫu suy nghĩ, hành động đã
9
được thiết lập. Liên hệ với chính sách an sinh xã hội trẻ em, khi chúng ta thực hiện tốt
các chính sách này thì sẽ hình thành một thói quen, hình thành văn hóa quan tâm đến
trẻ em, phương pháp dạy trẻ em mà không dùng đến bạo lực…
Theo lý thuyết hệ thống thì các chính sách an sinh xã hội được phân chia thành
3 tiểu hệ thống. Tiểu hệ thống thứ nhất là các chính sách mang tính chất phòng ngừa
các vấn đề xã hội hay còn gọi là phòng ngừa sơ cấp. Tiểu hệ thống thứ hai là các
chính sách mang tính chất giảm thiểu tác động của các vấn đề xã hội hay còn gọi là
phòng ngừa thứ cấp. Tiểu hệ thống thứ ba là các chính sách mang tính chất can thiệp
trực tiếp vào các vấn đề xã hội hay còn gọi là phòng ngừa tam cấp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau
bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng.
Phân tích những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề công tác xã hội
đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, công tác xã hội với trẻ em mồ côi.
Tìm hiểu, đánh giá nhận xét tài liệu có liên quan đến công tác xã hội với trẻ
em mồ côi và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em mồ côi.
Tìm hiểu công tác xã hội với cá nhân trong quá trình lên kế hoạch.
- Phương pháp trưng cầu ý kiến (bằng bảng hỏi đối với 73 trẻ mồ côi tại
Trung tâm)
Phương pháp trưng cầu ý kiến là phương pháp mà người được hỏi, trả lời với
hình thức tự viết vào bảng hỏi được thiết kế sẵn dưới dạng AnKét (bảng hỏi)
Phương pháp có tính thực nghiệm, trong thời gian ngắn chúng ta thu được
nhiều thông tin, đảm bảo tính bảo mật, khách quan. Thông qua việc thu thập, xử lý
và phân tích các thông tin định lượng, cũng như các dữ liệu thống kê sẵn có trong
các tài liệu thứ cấp, đề tài sẽ mô tả thực trạng việc thực hiện CTXH đối với trẻ em
mồ côi tại Trung tâm để tìm ra những phương pháp thực hiện đạt kết quả cao và
những vấn đề cần khắc phục. Từ đó, có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu và
10
dự báo xu hướng có thể thay đổi trong tương lai để thực hiện tốt công tác đối với trẻ
em mồ côi tại Trung tâm.
- Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin thông qua các tri
giác như nghe, nhìn…để thu nhận các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục
tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu và thu thập thông tin tôi sử dụng phương pháp
quan sát để thu thập thêm thông tin về thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp,
ứng xử giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với cán bộ, nhân viên và với khách đến Trung tâm
đồng thời kiểm tra độ chính xác của thông tin nhằm thấy được đời sống thực của trẻ
mồ côi, những khó khăn, tồn tại cần khắc phục của hoạt động công tác xã hội đối
với trẻ em mồ côi tại Trung tâm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Vận dụng sự hiểu biết về an sinh xã hội và các chính sách xã hội, đề tài đi
sâu vào nghiên cứu, đánh giá về các quy trình hoạt động của trung tâm Công tác xã
hội tỉnh Lào Cai. Đó là sự ứng dụng các kiến thức, kỹ năng công tác xã hội đã lĩnh
hội được vào thực tế để làm phong phú thêm kho tàng nghiên cứu về công tác xã
hội. Đồng thời dưới góc độ tiếp cận các lý thuyết công tác xã hội đặc biệt là lý
thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu; bằng nhiều biện pháp thu thập và phân tích
thông tin, đặc biệt là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, so sánh, nghiên cứu góp
phần làm sáng tỏ các lý thuyết, kiến thức cũng như phương pháp kỹ năng thực hành
công tác xã hội được sử dụng trong hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng tại
Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Lào Cai.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu các quy trình hoạt động công tác xã hội của Trung tâm Công
tác xã hội giúp những người làm công tác xã hội có cái nhìn tổng thể về hoạt động
của các trung tâm bảo trợ xã hội trong công tác trợ giúp các đối tượng yếu thế và
thấy rõ những tồn tại, hạn chế cơ bản của các hoạt động này. Từ đó, nghiên cứu đề
11
xuất giải pháp xây dựng mô hình công tác xã hội chuyên nghiệp góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của trung tâm.
Dưới góc độ tiếp cận của các lý thuyết, phương pháp công tác xã hội, nghiên
cứu góp phần thay đổi nhận thức của cán bộ công nhân viên đang làm công tác xã
hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội, cơ quan quản lý, đối tượng. Nghiên cứu giúp họ
nhận thức đúng về hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp, ý thức được vai trò
của mình trong các hoạt động đó. Đó là nhân tố quyết định đảm bảo cho hoạt động
bảo trợ xã hội có tính bền vững; đối tượng yếu thế có thêm các cơ hội phục hồi, hòa
nhập xã hội và phát triển.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
phần nội dung của Luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về CTXH đối với trẻ em mồ côi.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại Trung tâm
Công tác xã hội tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em mồ
côi tại Trung tâm công tác xã hội tỉnh Lào Cai.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI
1.1. Những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm Công tác xã hội
Theo Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác xã hội Mỹ (NASW – 1970): “Công
tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm, hoặc cộng đồng tăng
cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều
kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” [16, tr4].
Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm 2000 tại
Montreal, Canada (IFSW): “Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải
quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho con
người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mãi, dễ chịu. Vận dụng các
lý thuyết về hành vi con người và hệ thống, công tác xã hội tương tác vào những
điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các
nguyên tắc cơ bản của nghề” [16,tr4].
Nguyễn Thị Oanh cho rằng “Công tác xã hội là một hoạt động thực tiễn, mang
tính tổng hợp cao được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp nhất định
nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm người trong việc giải quyết các vấn đề đới sống của họ.
Qua đó công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến
bộ xã hội”.
Theo thuật ngữ Lao động – Xã hội thì “Công tác xã hội là một chuyên môn có
mục tiêu giúp cá nhân, cộng đồng thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo điều
kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. Công tác xã hội hướng đến cải thiện
các điều kiện xã hội của cộng đồng, tăng cường nguồn lực của các cá nhân và cải
thiện mối quan hệ giữa cá nhân và môi trường xã hội. Nhân quyền và công bằng xã
hội là các nguyên tắc căn bản của nghề công tác xã hội. Công tác xã hội thúc đẩy cá
13
nhân, cộng đồng và xã hội tham gia cải thiện các điều kiện xã hội của cộng đồng,
cải thiện nguồn lực và khả năng của cá nhân và cải thiệm mối quan hệ giữa cá nhân
và môi trường xã hội. Công tác xã hội trú trọng đến nhu cầu của những nhóm thiệt
thòi và bị cô lập về mặt xã hội” [3, tr 42]
Như vậy, có nhiều các khái niệm, định nghĩa khác nhau về công tác xã hội,
nhưng nhìn chung các khái quan niệm đều thống nhất:
Thứ nhất, công tác xã hội là một nghề, một khoa học ứng dụng, một dịch vụ
xã hội cung ứng cho các cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng khi họ gặp khó
khăn mà bản thân họ chưa tìm được hướng giải quyết.
Thứ hai, công tác xã hội với quan điểm và trọng tâm là làm giảm bớt các vấn
đề khó khăn trong quan hệ giữa con người với nhau, làm phong phú thêm cho cuộc
sống của họ thông qua mối quan hệ tương tác tích cực, giúp các cá nhân thực hiện
các chức năng của bản thân, chức năng xã hội và giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng có
vấn đề có thể tự đứng vững được trên chính đôi chân của họ.
Thứ ba, nhân viên công tác xã hội là những người được đào tạo chuyên
nghiệp, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm để trợ giúp cho các cá
nhân, nhóm người, cộng đồng. Họ trợ giúp các đối tượng khó khăn luôn tuân theo
những nguyên tắc nghề nghiệp và vận dụng các phương pháp, kỹ năng cơ bản của
công tác xã hội một cách linh hoạt trong hoạt động hỗ trợ đối tượng tự giải quyết
vấn đề của chính họ.
Thứ tư, công tác xã hội là một dịch vụ cung ứng các kiến thức, thông tin, kỹ
năng, hỗ trợ về tinh thần cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng thông qua sự quan tâm
giữa người với người và giúp họ tăng thêm khả năng cải thiện điều kiện, hoàn cảnh
để tự vươn lên cải thiện cuộc sống của mình.
1.1.2. Khái niệm trẻ em
Theo Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Việt Nam (2005) thì trẻ em là một
thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi, trong giai đoạn đầu của
sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể
chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo
14
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Về vị thế xã hội, trẻ em
là một nhóm thành viên xã hội ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là
những chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng là đối tượng cần được gia đình và xã
hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục.
Cho đến nay các quốc gia và các tổ chức quốc tế vẫn chưa thống nhất về độ
tuổi để xác định trẻ em. Công ước về quyền trẻ em thì trẻ em là người dưới 18 tuổi,
còn theo Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNEFA), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ
chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) thì trẻ em là
những người dưới 15 tuổi. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam thì
quy định trẻ em là công dân dưới 16 tuổi [14, tr.35] và Bộ Luật dân sự quy định
người vị thành niên là những người dưới 18 tuổi.
Trong khuân khổ phạm vi nghiên cứu này sử dụng khái niệm trẻ em theo quy
định tại Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
1.1.3. Khái niệm trẻ em mồ côi
Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, việc xếp trẻ em mồ côi là những
“trẻ em tạm thời hoặc hoàn toàn không được sống trong môi trường gia đình hoặc
vì lý do ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân không được quyền tiếp tục sống
trong môi trường gia đình sẽ có quyền được nhận sự trợ giúp và bảo vệ đặc biệt
của Nhà nước” [4, tr8].
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì trẻ em mồ côi là những trẻ
em có hoàn cảnh như sau [14]:
- Mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi.
- Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo quy
định của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn
tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại cải tạo), không có nguồn
nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa.
Theo Luật Nuôi con nuôi ban hành năm 2010 [15]:
- Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người
đã chết và người kia không xác định được.
15
- Trẻ em bị bỏ rơi là trẻ em không xác định được cha mẹ đẻ.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, xác định trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ
rơi dưới 16 tuổi .
1.2. Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi
1.2.1. Quan điểm tiếp cận phát triển công tác xã hội với trẻ em mồ côi
a) Tiếp cận dựa trên quyền con người và quyền trẻ em
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng là việc đảm
bảo quyền sống, học tập, làm việc, tham gia, quyền được coi trọng… Trong tuyên
ngôn độc lập ngày 2/9/1945, khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình
đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”.
Quyền con người cũng được ghi nhận trong Hiến pháp. Các quyền chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được
quy định trong hệ thống pháp luật; Trên cơ sở tiếp cận từ quyền con người, Nhà
nước ban hành các chính sách và có những giải pháp phát triển hệ thống cung cấp
dịch vụ xã hội đối với trẻ em, trẻ em mồ côi trên các phương diện bảo đảm được
sinh ra, được sống, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, học tập, vui chơi, hòa
nhập... phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh cụ thể.
Đồng thời, để xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ công tác xã hội chăm
sóc trẻ em như những cá nhân khác trong xã hội. Nhân nhân viên công tác xã hội có
vai trò huy động được các nguồn lực trợ giúp góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em một cách tốt nhất.
b) Tiếp cận từ khía cạnh công bằng xã hội
Mỗi cá nhân con người sinh ra chịu ảnh hưởng của các yếu khách quan và chủ
quan đã dẫn đến không có điều kiện để tiếp cận và hưởng lợi từ thành quả phát triển
xã hội. Sự bất bình đang xuất phát từ các yếu tố:
Yếu tố tự nhiên: Sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các vùng địa lý (sự
khác biệt giữa nông thôn, thành thị; sự khác biệt giữa đồng bằng, miền núi và hải
đảo…), sự khác biệt về “đãi ngộ” của tự nhiên (bão lũ, hạn hán, khí hậu ôn hòa…);
16
Yếu tố năng lực: Cá nhân có năng lực sẽ có khả năng tạo dựng sự nghiệp tốt
hơn so với những cá nhân khác, tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân
cư. Ngược lại những người năng lực hạn chế như nhóm yếu thế lại không có khả
năng tiếp cận các nguồn lực sẵn có để tạo thu nhập cho bản thân.
Yếu tố cơ chế chính sách cũng sẽ tạo nên sự không công bằng, tạo cơ hội cho
một số nhóm, mặc dù mục đích của chính sách không mong muốn như vậy.
Những yếu tố trên cho thấy bất công xã hội về dịch vụ chăm sóc, cũng như
những điều kiện môi trường sống, hòa nhập của trẻ em vẫn còn có nhiều khác biệt.
Sự khác biệt này thể hiện ở khu vực sông (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng
bằng), nhóm cộng đồng dân tộc... Điều này đòi hỏi khi xây dựng và phát triển hệ
thống dịch vụ công tác xã hội chăm sóc trẻ em nói chung, trẻ em mồ côi nói riêng
phải tính đến đặc thù này.
c) Tiếp cận từ khía cạnh quyền được bảo đảm an sinh xã hội
Việc thừa nhận quyền được bảo đảm an sinh xã hội của công dân, cũng là thừa
nhận trách nhiệm của nhà nước, gia đình và cộng đồng xã hội trong việc thực hiện
các biện pháp đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Khi một cá nhân nào đó
không có khả năng bảo đảm an sinh cho chính bản thân họ thì gia đình, nhà nước và
cộng đồng xã hội có trách nhiệm bảo đảm an sinh xã hội, đảm bảo sự sinh tồn và
phát triển của họ. Quyền đảm bảo an sinh xã hội là một trong những quyền cơ bản
của con người, nhưng xét trên góc độ công tác xã hội thì đây là một trong những
quyền quan trọng. Nhà nước có chính sách và chương trình phù hợp với bối cảnh
kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, để đảm bảo an sinh xã hội cho mọi
người dân, đặc biệt là những người yếu thế, những người không may mắn gặp nhiều
thiệt thòi trong cuộc sống.
d) Tiếp cận dựa theo vòng đời của trẻ em
Một trong những phương pháp tiếp cận xây dựng chính sách được nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm hiện nay là phương pháp tiếp cận dựa trên vòng đời. Việc
tiếp cận theo vòng đời cho phép chúng ta nhận dạng được những khó khăn, rủi ro, rào
cản, nhu cầu của con người trong từng giai đoạn vòng đời từ giai đoạn (i) ấu thơ, (ii)
17
trẻ em, (iii) thanh niên, (iv) trung niên, (v) người già. Trong đó trẻ em lại được chia
nhỏ các giai đoạn 36 tháng tuổi, dưới 6 tuổi, 6-16 tuổi... Đây là cách tiếp cận mang
tính tổng thể, không bỏ sót bất cứ khó khăn nào trong các giai đoạn của vòng đời
của trẻ.
Hình 1.1. Mô hình tiếp cận vòng đời xây dựng phát triển chính sách
[Nguồn: Dự thảo đề án đổi mới và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội
Việt Nam giai đoạn 2016- 2030]
Mỗi giai đoạn của vòng đời đều có những vấn đề mà con người phải đối mặt
và trong quá trình đối phó với những rủi ro, thách thức đó con người cần sự trợ giúp
của nhà nước và cộng đồng, từ đó chính sách trợ giúp xã hội ra đời nhằm giúp các
thành viên trong xã hội đối phó với những rủi ro, thách thức, khó khăn trong cuộc
sống trong từng giai đoạn vòng đời; cách tiếp cận xây dựng chính theo vòng đời sẽ
18
không bỏ sót bất cứ thách thức, rủi ro nào đối với con người trong từng giai đoạn,
đó là phương pháp tiếp cận hệ thống, được nhiều quốc gia áp dụng.
đ) Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu của trẻ là cách tiếp cận dựa trên việc đáp ứng tốt nhất
của các dịch vụ CTXH đối với các nhu cầu của trẻ em.
Thứ nhất, nhu cầu vật chất: bao gồm thực phẩm, nước uống, nơi ở, điều kiện
chăm sóc vệ sinh sức khỏe. Tất cả các yếu tố này đảm bảo cho sự phát triển thể lực
của các em.
Thứ hai, nhu cầu mái ấm gia đình: Đó là tình thương yêu của ông bà, cha mẹ
và anh chị em, họ hàng. Gia đình êm ấm là chỗ dựa vật chất và tinh thần, sự an toàn
đối với các em. là cái nôi đầu tiên cho các em học cách xã hội hóa cá nhân, từ đây
các em học cách làm người, học cách “cho” và “nhận” tình yêu thương nhân loại,
học cách gánh trách nhiệm của người cha, người mẹ, người anh, người chị… Mối
quan hệ xã hội sau này ở tuổi trưởng thành có thành công hay không phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng mối quan hệ trong gia đình của trẻ.
Thứ ba, nhu cầu được vui chơi, học hành, được phát triển trí tuệ: Hoạt động
vui chơi cũng như học hành sẽ giúp trẻ trải nghiệm cuộc sống, phát triển trí tuệ và
tích lũy những hiểu biết, kiến thức cho mai sau.
Thứ tư, là nhu cầu được thừa nhận, được tôn trọng: Việc thừa nhận những
đặc điểm, tính cách sẽ làm tăng tính tự tin ở trẻ, những lời khen, những công nhận
thành tích của trẻ sẽ làm tăng nghị lực của trẻ, giúp trẻ vượt qua những khó khăn
mỗi khi vấp ngã.
c) Tiếp cận dựa trên hoạt động bảo vệ trẻ em
Hoạt động bảo vệ trẻ em được hiểu là những hoạt động hướng đến đảm bảo
các yếu tố vật chất và tinh thần giúp cho trẻ em được phát triển một cách toàn diện.
Các yếu tố liên quan đến bảo vệ trẻ em như bảo vệ quyền trẻ em, bảo vệ thể chất,
bảo vệ tâm sinh lý, bảo vệ chế độ chính sách dành cho trẻ em, bảo đảm môi trường
sống an toàn, lành mạnh…
19