Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn thành phố đà lạt, tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.18 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ BÁ CHU

CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT,
TỈNH LÂM ĐỒNG

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội về: “Chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực
tiễn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” là hoàn toàn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Bá Chu



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT

Error: Reference source not found

1.1. Các khái niệm và đặc điểm

Error: Reference source not found

1.2. Vai trò của chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật 22
1.3. Nội dung của chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật

Error:

Reference source not found5
Chương 2: CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT
TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT TỈNH LÂM ĐỒNG 41
2.1. Tình hình kinh tế-xã hội, thực trạng người khuyết tật và trẻ em khuyết tật tại
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng 41
2.2. Tình hình thực hiện chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng 46
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật tại
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011-1015 58
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI

VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH
LÂM ĐỒNG Error: Reference source not found7
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách công tác xã hội đối với
trẻ em khuyết tật.

Error: Reference source not found7

3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật
68
3.3. Lộ trình thực hiện.

Error: Reference source not found4

3.4. Một số kiến nghị.

Error: Reference source not found4

KẾT LUẬN Error: Reference source not found7
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
LĐ-TBXH
NKT
TEKT
CTXH
CSXH
DV
DVCTXH


Từ đầy đủ
Lao động - Thương binh và Xã hội
Người khuyết tật
Trẻ em khuyết tật
Công tác xã hội
Chính sách xã hội
Dịch vụ
Dịch vụ công tác xã hội

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Phân loại, xác định mức độ khuyết tật tại cộng đồng

42


Bảng 2.2. Phân chia theo dạng tật tại cộng đồng

43

Bảng 2.3. Trẻ em khuyết tật tại các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo

43

dục chuyên biệt



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật nói
chung, đặc biệt là trẻ em khuyết tật để họ tự vượt qua những thiệt thòi về thể chất,
tinh thần vốn có, tích cực hòa nhập cộng đồng là những hoạt động có tính nhân văn
sâu sắc, biểu hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là trách nhiệm của mỗi người,
mỗi gia đình, tổ chức kinh tế, xã hội, quần chúng và các cấp chính quyền. Ngay từ
những ngày đầu tiên khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính
phủ ta đã kịp thời tổ chức nghiên cứu, ban hành các chính sách, chế độ, đồng thời
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp, đặc biệt đã tổ chức nhiều phong trào quần chúng
sâu rộng trong nhân dân nhằm chăm sóc và giúp đỡ trẻ em khuyết tật.
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới nền kinh tế của đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến đối tượng trẻ em khuyết tật thông qua các chính
sách, luật pháp như: Bộ Luật lao động, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em… cùng hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến chính sách
công tác xã hội. Trong đó đề cập đến những quyền cơ bản, bảo đảm cho trẻ em
khuyết tật được bình đẳng về mọi mặt trong xã hội, tạo nhiều thuận lợi cho trẻ em
khuyết tật tiếp cận tốt các lĩnh vực giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, học nghề,
lao động và việc làm…
Tuy nhiên, đất nước ta vốn trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế
chưa phát triển, thiên tai xảy ra thường xuyên, môi trường sống và công tác vệ sinh
phòng dịch-chữa trị bệnh đang tồn tại nhiều bất cập, việc chấp hành luật lệ giao
thông, bảo hộ lao động chưa nghiêm, sự lạm dụng thuốc tân dược, yếu tố di truyền,
thương tích thể thao, … đã tạo nên những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gia
tăng số lượng người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.
Thành phố Đà Lạt dù giữ vị trí trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch
vụ của tỉnh Lâm Đồng, với tốc độ tăng trưởng duy trì ổn định, nhưng cũng đồng
thời đối mặt với nhiều trở ngại khi số lượng người khuyết tật tại chỗ chiếm tỷ lệ khá
cao so với các địa bàn trong tỉnh và ngày càng biến động tăng cùng lượng dân nhập
1



cư đến thành phố làm việc, học tập. Điều này đặt ra cho các cấp chính quyền, ban
ngành, đoàn thể của địa phương những thách thức trước việc xác định các biện pháp
hữu hiệu nhằm hạn chế những khó khăn đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận cơ
hội giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, việc làm, tạo thu nhập nuôi sống bản thân,
nâng cao năng lực hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật nói chung, đặc biệt là
đối tượng trẻ em khuyết tật của địa phương.
Mặt khác, xét ở góc độ nghiên cứu, tìm giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật thì cho đến nay ở Việt Nam vẫn rất
hiếm hoi các công trình khoa học nghiên cứu riêng về nội dung này. Ngay cả việc
tìm kiếm những tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu cũng gặp không ít khó
khăn. Các tài liệu có thể tìm được chủ yếu là các bài báo, các kế hoạch, chương
trình hành động… thiếu tính hệ thống.
Tuy những tài liệu trên ít nhiều thể hiện được những quan điểm, chính sách
công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật, nhưng trước thực tiễn tình hình đặc thù
của địa phương đã đề cập ở trên, thì việc nghiên cứu, đưa ra những giải pháp phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả, hoàn thiện chính sách công tác xã hội cho các đối
tượng dễ bị tổn thương, trong đó có trẻ em khuyết tật luôn là một bài toán khó. Bên
cạnh đó, cùng với nhu cầu tăng cường quản lý, hỗ trợ, định hướng hoạt động đối với
các tổ chức hội, đoàn thể giúp đỡ trẻ em khuyết tật, các cơ sở bảo trợ trẻ em khuyết
tật ngoài công lập ngày càng trở nên bức xúc và được cộng đồng xã hội quan tâm,
theo dõi, thì việc nghiên cứu, phân tích hệ thống các chính sách công tác xã hội đối
với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đúc rút kinh nghiệm nhằm tìm ra
những giải pháp hiệu quả hơn, khả thi hơn là một đòi hỏi cấp thiết. Vì lẽ đó và cùng
với sự cảm thông chia sẽ với những khó khăn, thách thức trong quá trình hòa nhập
cộng đồng của trẻ em khuyết tật, tác giả mong muốn đóng góp thêm các quan điểm
khoa học, giải pháp ban hành và thực hiện chính sách công tác xã hội đối với trẻ em
khuyết tật thông qua luận văn tốt nghiệp Cao học Công tác xã hội: “Chính sách

2



công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Lạt, tỉnh
Lâm Đồng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, các vấn đề về NKT nói chung và TEKT nói riêng
luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các
chuyên gia, học giả trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này,
tác giả lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu
biểu như sau:
Các nghiên cứu về pháp luật, chính sách xã hội đối với người khuyết tật
Việc đảm bảo quyền của NKT đã trở thành một trong những yêu cầu quan
trọng để đảm bảo công bằng, vì con người và phát triển bền vững của quốc gia.
Chính vì thế, có nhiều công trình nghiên cứu về khung pháp lý nhằm đảm bảo
quyền của NKT nói chung và TEKT nói riêng, có thể kể đến một số công trình tiêu
biểu sau:
Tác giả Trần Thái Dương (Trường Đại học Luật Hà Nội) đã nghiên cứu về
những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, đặc biệt là
những quy định của Công ước về quyền của NKT trong việc bảo đảm quyền tiếp
cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của NKT, từ đó đề xuất một số ý kiến
nhằm hoàn thiện pháp luật, thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ quốc gia khi Việt Nam phê
chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước. [7, tr.12].
Tác giả Trần Thị Thúy Lâm đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng
pháp luật Việt Nam hiện hành về dạy nghề cho NKT trên các phương diện: Chính
sách đối với cơ sở dạy nghề, NKT học nghề và giáo viên dạy nghề cho NKT; đồng
thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc học nghề đối với NKT
cả ở phương diện hoàn thiện pháp luật và biện pháp tổ chức thực hiện.[10, tr.18].
Ngoài ra, còn có các đề tài luận văn, luận án ngành luật học nghiên cứu về vấn
đề lý luận và thực tiễn để đảm bảo cho quyền của NKT được thực hiện như: “Hoàn
thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả


3


Nguyễn Thị Báo năm 2008 [5]; “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động dưới
góc độ pháp luật lao động” của tác giả Đỗ Minh Nghĩa năm 2012 [14]; …
Các nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Về vấn đề nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo CTXH đối với NKT, có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình nghiên cứu của Tác giả Hà Thị Thư đã trình bày một cách tổng
quát nhất về CTXH với NKT, các mô hình hỗ trợ, các phương pháp tiếp cận, các
chương trình chính sách của nhà nước đối với NKT, vai trò của nhân viên CTXH
đối với NKT, các kỹ năng làm việc với NKT... Đây là giáo trình đào tạo CTXH ở
hệ trung cấp nghề. [23].
Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa (chủ biên) cũng đã nghiên cứu và xây dựng giáo
trình đào tạo CTXH với NKT ở bậc Đại học và Sau đại học với ba nội dung chính.
Đó là tổng quan về về NKT; Trải nghiệm khuyết tật; và Các kỹ năng thực hành
CTXH. [9].
Để hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ làm việc với NKT một cách chuyên nghiệp, Cục
Bảo trợ xã hội thuộc Bộ LĐ-TBXH, phối hợp cùng Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ (USAID) và Tổ chức hỗ trợ NKT xây dựng tài liệu về quản lý trường hợp với
NKT đề cập tới những quan điểm về cung cấp dịch vụ cho NKT và các giai đoạn
của quản lý trường hợp với NKT. [3].
Ngoài ra, Cục Bảo trợ xã hội thuộc Bộ LĐ-TBXH còn xây dựng tài liệu nhằm
trang bị, cung cấp cho cán bộ xã hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong
công tác trợ giúp cho NKT, tăng cường các chức năng xã hội của NKT để họ có thể
hòa nhập cộng đồng một cách bền vững. [4].
Các nghiên cứu về các hoạt động thực hành công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Qua tìm hiểu, sưu tầm và nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng: Các đề tài luận văn

thạc sĩ ngành CTXH trong những năm gần đây có xu hướng chuyên sâu nghiên cứu
về thực trạng của CTXH đối với NKT tại các Trung tâm bảo trợ xã hội, tại cộng

4


đồng. Từ đó, vận dụng các phương pháp CTXH với cá nhân, phương pháp CTXH
với nhóm để thúc đẩy hoạt động trợ giúp cho NKT mang tính chuyên nghiệp hơn như
đề tài: “Công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người khuyết tật từ thực tiễn
Trung tâm dạy nghề từ thiện Quỳnh Hoa, huyện Thanh Trì, Hà Nội” của Nguyễn
Ngọc Tùng [21]; đề tài “Công tác xã hội đối với người khiếm thị từ thực tiễn huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” của Lê Thanh Thủy [22];…
Đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế chuyên ngành quản lý nguồn nhân lực “Nghề
CTXH ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hà (2010): Đã nghiên cứu một số lý
luận và thực tiễn về nghề CTXH; đánh giá về pháp luật, cơ chế chính sách về
CTXH, thực trạng nghề CTXH ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng và
giải pháp phát triển nghề CTXH ở Việt Nam như: Hoàn thiện thể chế, chính sách;
xây dựng các tiêu chuẩn cơ sở bảo trợ ở Việt Nam; đào tạo đội ngũ cán bộ nhân
viên CTXH và phát triển, nâng cấp mạng lưới các cơ sở cung cấp DVCTXH.
Tác giả Nguyễn Thụy Diễm Hương và Tạ Thị Thanh Thủy (trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) cũng có bài viết nhấn mạnh đến việc
thực hành CTXH đối với NKT có thể sử dụng các phương pháp “Tăng quyền lực”,
“Dựa trên quyền” và “Điểm mạnh” để có thể làm tăng năng lực cho NKT, giúp cho họ
tham gia vào xã hội, đồng thời chống lại những rào cản do phân biệt đối xử và thành
kiến gây nên. [8].
Nhìn chung, các nghiên cứu đã dần mở ra nhiều hướng tiếp cận mới trong
vấn đề thực hành CTXH đối với NKT nói chung trong đó có TEKT, góp phần hoàn
thiện hệ thống lý luận về CTXH đối với NKT và TEKT. Song, các công trình, đề tài
nghiên cứu nêu trên chỉ dừng lại ở một khía cạnh như: Chính sách CTXH, hoặc là
CTXH, chưa thấy có công trình nào nghiên cứu đầy đủ: Chính sách CTXH đối với

TEKT.
Các báo cáo khoa học về người khuyết tật và các hoạt động trợ giúp đối với
người khuyết tật

5


Nghiên cứu về NKT luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế nói chung và
Việt Nam nói riêng. Vì vậy, trong những năm qua, có nhiều báo cáo khoa học nghiên
cứu về NKT và các hoạt động trợ giúp họ trong đời sống xã hội, tiêu biểu như:
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện một cuộc nghiên cứu vấn đề việc
làm của NKT dựa trên cơ sở giới vào năm 2010 và đã đưa ra “Báo cáo khảo sát về
Đào tạo nghề và tạo việc làm cho NKT tại Việt Nam”. Báo cáo này cung cấp một
cách nhìn tổng thể về các tổ chức của NKT, các tổ chức đại diện NKT và các dịch
vụ đào tạo nghề, việc làm và phát triển doanh nghiệp cho NKT, đặc biệt tập trung
vào các tổ chức của phụ nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết
tật. [11].
Trong “Báo cáo thường niên năm 2013 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật
Việt Nam” của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ NKT Việt Nam (NCCD), đã
tổng kết những hoạt động và kết quả chủ yếu về hỗ trợ NKT đã triển khai trong năm
của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng, tổ chức xã hội với sự điều phối của NCCD,
đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ NKT trong năm 2014 của các cơ
quan, tổ chức thành viên NCCD. [2].
Các hội thảo, dự án liên quan đến việc hỗ trợ cho người khuyết tật
Trong những năm qua có nhiều hội thảo, dự án nghiên cứu các hoạt động hỗ
trợ cho NKT được tổ chức. Tiêu biểu một số hội thảo, dự án như sau:
“ Hội thảo Quốc tế về Công ước quyền người khuyết tật và vai trò của các Hội
người khuyết tật” do Bộ Ngoại giao chủ trì vào ngày 10/12/2013. Đây là hoạt động
trong khuôn khổ Dự án về “Tăng cường năng lực đảm bảo các quyền con người của

Việt Nam” do Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ. Qua quá
trình trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn của các Hiệp hội NKT trong toàn
quốc đã cho thấy Công ước về quyền NKT đã mở ra một cách nhìn nhận, tiếp cận
mới của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với NKT. Công ước thúc
đẩy việc bảo đảm NKT được thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản như tất cả mọi
người.

6


Hội thảo “Thúc đẩy cộng đồng: Tăng quyền cho người khuyết tật” được diễn
ra vào ngày 26/3/2015 tại Hà Nội, nhằm giới thiệu dự án Rights Now!, đánh giá
thực trạng thực thi quyền của NKT sau khi Công ước quốc tế về quyền của NKT
được phê chuẩn tại Việt Nam, đồng thời cũng là cơ hội để chia sẻ kỹ năng, công cụ,
kinh nghiệm và tài liệu hỗ trợ nâng cao năng lực cho Hội/nhóm/tổ chức của hoặc vì
NKT Việt Nam trong tương lai. Chương trình do MIUSA (tổ chức vận động quốc tế
Hoa Kỳ), DREDF (Quỹ Bảo vệ và Giáo dục Quyền của NKT), IFES (Quỹ quốc tế
về hệ thống bầu cử Hoa Kỳ), USICD (Hội đồng Quốc tế về NKT) và Trung tâm
ACDC đồng tổ chức.
Hội thảo khoa học với chủ đề: “Quản lý trường hợp với người khuyết tật tại
Việt Nam” do Khoa Công tác xã hội của Học viện khoa học xã hội Việt Nam tổ
chức vào ngày 22/10/2015, là hội thảo khoa học mang nhiều ý nghĩa khi nội dung
nghiên cứu, thảo luận hướng đến vấn đề “Quản lý trường hợp với NKT” – đây là
hướng đi mới hỗ trợ NKT đang được triển khai ở nhiều địa phương theo Thông tư
01/TT-Bộ LĐTB-XH về công tác Quản lý trường hợp với NKT nhưng còn nhiều
khó khăn như: kinh phí, nguồn nhân lực, nhận thức của chính quyền địa phương các
cấp về công tác này. Đồng thời, thông qua các bài báo cáo của các chuyên gia và
phần hỏi - đáp, thảo luận đã gợi mở những định hướng nghiên cứu cho học viên cao
học, nghiên cứu sinh lựa chọn để làm chủ đề, phát triển nghiên cứu của đề tài luận
văn cao học.

Dự án “Chương trình trợ giúp người khuyết tật ” do tổ chức DAI và Hội trợ
giúp NKT Việt Nam (VNAH) thực hiện với tài trợ của USAID. Dự án được thực
hiện trong ba năm nhằm hướng đến việc xây dựng hệ thống quản lý trường hợp, tăng
cường các dịch vụ y tế, giáo dục và việc làm cho NKT, đồng thời nâng cao các
chương trình y tế công cộng nhằm ngăn ngừa khuyết tật.
Qua tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể
thấy rằng NKT nói chung và TEKT nói riêng luôn là mối quan tâm của cộng đồng
quốc tế và của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp cận từ góc nhìn về
chính sách CTXH đối với TEKT còn hạn chế về số lượng và chất lượng, riêng tại

7


thành phố Đà Lạt cũng như toàn tỉnh tỉnh Lâm Đồng – hiện chưa có công trình
nghiên cứu chính thức về chính sách CTXH đối với TEKT được đề cập đến. Đó cũng
là một trong những lý do chính để tác giả thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về chính sách CTXH đối
với TEKT ở Việt Nam từ thực tiễn thực hiện chính sách CTXH đối với TEKT tại
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong việc hoàn thiện và thực hiện chính sách CTXH đối với TEKT, góp
phần đưa CTXH sớm trở thành một nghề chuyên nghiệp tại thành phố Đà Lạt, tỉnh
Lâm Đồng nói riêng và cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
(i).Làm rõ các khái niệm liên quan đến chính sách CTXH đối với NKT,
TEKT;
(ii).Nghiên cứu những vấn đề lý luận về NKT, TEKT, chính sách CTXH đối

với TEKT;
(iii).Tìm hiểu, đánh giá thực trạng chính sách CTXH đối với TEKT cũng như
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách CTXH đối với TEKT tại thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng;
(iv). Đưa ra một số quan điểm, mục tiêu, giải pháp và lộ trình hoàn thiện chính
sách CTXH đối với TEKT tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng nói riêng và cả
nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ sở lý luận và chính sách CTXH đối với TEKT từ thực tiễn
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

8


- Nội dung nghiên cứu: Tình hình thực hiện chính sách CTXH đối với TEKT.
- Địa bàn nghiên cứu: Tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực trạng về
đời sống của NKT nói chung và TEKT nói riêng, thực trạng chính sách CTXH đối
với TEKT tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, rút ra được những lý luận và đưa
ra được những đề xuất về giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
CTXH đối với TEKT tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và
khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm
các văn kiện, giáo trình, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ
ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu

thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách CTXH đối với TEKT ở trong nước nói chung
và thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng nói riêng.
Nghiên cứu, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả trong và ngoài
nước liên quan đến đề tài trong thời gian qua; kết hợp với các phương pháp thống
kê, khái quát thực tiễn, phương pháp phân tích định tính, suy luận logic, diễn giải
trong quá trình phân tích, đánh giá chính sách CTXH đối với TEKT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên
môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố
hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình
nghiên cứu.

9


Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu
để: (i). Phân tích những công trình nghiên cứu liên quan đến NKT, TEKT, vấn đề
chính sách CTXH đối với NKT, TEKT; (ii). Đọc và phân tích các tài liệu có liên
quan, phân tích báo cáo của các cấp quản lý như báo cáo của Bộ LĐTB-XH, Ủy ban
nhân dân tỉnh Lâm Đồng, UBND thành phố Đà Lạt, Hội NKT thành phố Đà Lạt,
ngành LĐ-TBXH thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng…; (iii). Tìm hiểu, đánh giá
nhận xét tài liệu có liên quan đến các chính sách hỗ trợ đối với TEKT gia đình
TEKT, NKT và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ giúp đỡ đối tượng TEKT.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin thông qua các tri giác
như nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu
nghiên cứu của đề tài. Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp
quan sát nhằm thu thập, bổ sung thông tin còn thiếu và kiểm tra độ tin cậy của các

thông tin thông qua việc quan sát hoàn cảnh sống, thái độ, thể trạng... của đối tượng
được tiếp xúc, cụ thể:
Quan sát về môi trường, không gian sống và điều kiện sinh sống trong sinh
hoạt hằng ngày của NKT, TEKT; quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái
tâm lý của NKT, TEKT; quan sát thái độ, hành vi của cán bộ trực tiếp làm việc đối
với NKT, TEKT, gia đình TEKT và quan sát thực trạng đời sống kinh tế - xã hội địa
phương, thái độ, hành vi của người dân, của chính quyền đối với các vấn đề liên quan
đến chính sách CTXH đối với TEKT… Những quan sát này sẽ góp phần làm sáng tỏ
thêm những kết quả nghiên cứu định lượng đã thu thập được.
5.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu thống kê, khai thác có hiệu quả các số liệu; rút ra
được những nhận xét, kết luận khoa học khách quan đối với vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ lý luận về chính sách CTXH đối với
TEKT từ thực tiễn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, qua đó bổ sung và làm phong

10


phú thêm về cách nhìn nhận, đánh giá về chính sách CTXH đối với TEKT ở thành
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng nói riêng và trên cả nước nói chung.
Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết về
CSXH, lý thuyết về CTXH nói chung và CTXH đối với TEKT nói riêng là cần thiết
trong quá trình nghiên cứu thực tiễn, từ đó góp phần hoàn thiện chính sách CTXH
với TEKT ở nước ta nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc xây dựng cũng
như tổ chức thực hiện. Là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người có
quan tâm đến lĩnh vực chính sách CTXH nói chung và chính sách CTXH đối TEKT
nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về thực
trạng chính sách CTXH đối với TEKT, qua đó có thể bổ sung vào công tác đóng
góp ý kiến, tham vấn chính sách pháp luật cho Nhà nước trong việc hoàn thiện cơ
chế, chính sách đối với TEKT nói riêng và NKT nói chung, đồng thời nâng cao
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chương trình có liên quan đến TEKT,
NKT cũng như toàn thể người dân biết và thực hiện kiệp thời, có hiệu quả các chế
độ, dịch vụ, chính sách thụ hưởng...
Kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần nâng cao nhận thức đối với lãnh đạo
chính quyền, các tổ chức, hội đoàn thể các cấp hiểu rõ hơn về lý luận chính sách
CTXH đối với TEKT ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả thực
hiện chính sách CTXH đối với TEKT tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, từ đó
định hướng góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chất lượng của chính sách
CTXH đối với TEKT ở Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển CTXH trở
thành một nghề chuyên nghiệp.
Kết quả nghiên cứu là đề xuất quan điểm, mục tiêu và giải pháp để chính sách
CTXH đối với TEKT được hoàn thiện hơn, tích cực góp phần sớm phát triển CTXH
thành một nghề chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; cung
cấp tương đối đầy đủ về thực trạng chính sách CTXH đối với TEKT ở địa phương
nói riêng và trên cả nước nói chung. Trên cơ sở đó, gợi mở một số biện pháp hỗ trợ
11


nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho TEKT và gia đình TEKT tiếp cận với các chính
sách, dịch vụ dành cho TEKT, gia đình TEKT, khắc phục những khó khăn vươn lên
hòa nhập với cộng đồng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh sách
các phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, phần nội dung của luận văn được chia làm
ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách công tác xã hội đối với trẻ em

khuyết tật.
Chương 2: Chính sách công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách công tác xã hội đối đối với trẻ em
khuyết tật từ thực tiễn thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Các khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khuyết tật,người khuyết tật và trẻ em khuyết tật
1.1.1.1. Khuyết tật
Có nhiều cách hiểu cũng như nhiều định nghĩa khác nhau về khuyết tật, tuy
nhiên mỗi cách hiểu đều xét trên những mục đích và quan điểm khác nhau.
Từ “khuyết tật” có nguồn gốc từ “disability” trong tiếng Anh. Theo nguyên
ngữ từ này có nghĩa là sự hàm ý hạn chế hoặc thiếu khả năng thực hiện một hoạt
động gì đó do có khiếm khuyết. [9, tr.23].
Từ “khuyết” có nghĩa là không đầy đủ, thiếu mất một bộ phận, một phần; từ
“tật” có nghĩa là “điều gì đó không được bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu,
dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất thường, nói chung không thể chữa được,
của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra”
trong từ điển Tiếng việt. Như vậy, có thể hiểu khuyết tật là khiếm khuyết thực thể ở
một bộ phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ
chức của cơ thể và khiếm khuyết đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
[23, tr.7].
Trong hệ thống “Phân loại Quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe”
(ICF) (năm 2001) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa khuyết tật

như sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận
động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa cá
nhân một người (về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của người đó
(bao gồm yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)”[9, tr.26]. Như vậy, với
khái niệm này có thể hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà không
phải xác định nguyên nhân của một dạng khuyết tật.
Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới có thể hiểu
là: “Tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý

13


bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi
giải trí và sinh hoạt”. [23, tr 8].
1.1.1.2. Người khuyết tật
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về người khuyết tật ở các quốc gia khác
như Úc, Anh hay Trung Quốc, song tựu chung lại đều xoay quanh hai vấn đề đó
chính là các khiếm khuyết hay sự suy giảm các chức năng khác nhau và những điều
đó cản trở cá nhân tham gia một cách bình thường vào cuộc sống xã hội. [4, tr. 9].
Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng định nghĩa về người khuyết tật theo Luật
Người khuyết tật Việt Nam ban hành vào năm 2010. Đây là định nghĩa khá đầy đủ,
tổng hợp được các cách hiểu khác nhau về khuyết tật và phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh Việt Nam, đó là: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến
cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.[4, tr.10].
1.1.1.3. Trẻ em khuyết tật
Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về TEKT rất quan trọng nhưng
không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia và pháp luật quốc
tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi các tiêu chí xác định
khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống nhất.

Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của Việt
Nam: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”; trong
Bộ luật tố tụng Hình sự sử dụng khái niệm “người chưa thành niên” là người đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi”. Trong thực tế việc thực hiện một số chính sách trợ giúp cho
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nước ta vẫn vận dụng cho những người trong độ tuổi
vị thành niên từ 16 đến dưới 18 tuổi như chính sách trợ cấp xã hội, trợ giúp về giáo
dục, y tế…
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng khái niệm TEKT căn cứ theo
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2014: “Trẻ em khuyết tật là trẻ em
dưới 16 tuổi không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật, bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau,

14


làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều
khó khăn”. [4,tr.12].
1.1.1.4. Đặc điểm của trẻ em khuyết tật
TEKT đương nhiên là đối tượng thuộc nhóm yếu thế cần sự giúp đỡ của toàn
xã hội, đây cũng là nhóm đối tượng đặc thù trong hoạt động CTXH. Họ gặp khó
khăn về nhiều mặt trong cuộc sống, trong đó có khó khăn về học tập, việc làm, bị
kỳ thị, phân biệt... Những đặc điểm tâm lý cũng như thể chất của TEKT luôn ảnh
hưởng đến hoạt động trợ giúp cho đối tượng, cụ thể:
- Về tính cách: TEKT thường bi quan, chán nản, tự ti, mặc cảm, tủi phận, cho
mình là người bỏ đi, là gánh nặng của gia đình, người thân, ngại giao tiếp với mọi
người. Tuy nhiên các em rất giàu nghị lực để vượt qua những khó khăn, tật nguyền
để đạt được thành tích cao trong học tập, lao động nếu được sự hỗ trợ thích hợp của
gia đình và xã hội.
- Về trí tuệ: Trí tuệ của TEKT nói chung giảm sút, tùy theo dạng tật ( khiếm
thị, khiếm thính…) do đó số lượng cảm giác, tri giác giảm và ảnh hưởng tới độ

chính xác, tính trọn vẹn của hình ảnh sự vật, hiện tượng nên tài liệu để tư duy hạn
chế. Khái niệm được hình thành không trọn vẹn, thiếu chính xác ( ở trẻ khiếm thị);
trí tuệ kém phát triển, tư duy trừu tượng kém, nghèo nàn ( do thiếu ngôn ngữ ở trẻ
điếc bẩm sinh, trẻ bị thiểu năng trí tuệ…).
- Về đời sống tình cảm: Nhìn chung TEKT rất cởi mở và muốn được giao tiếp.
Mặt khác do mặc cảm tàn tật nên các em hay tự ái, dễ bị kích động, hay nghi ngờ
mọi người xung quanh. Đời sống nội tâm của các em rất nhạy cảm, tế nhị, dễ thông
cảm với những khó khăn của người khác hơn so với người bình thường.
- Về nhu cầu: TEKT có nhu cầu được giao lưu, được tôn trọng, được chấp
nhận như người bình thường khác và được đáp ứng các phương tiện, tiện nghi sinh
hoạt phù hợp; nhu cầu học văn hóa, học nghề phù hợp với dạng tật, tình trạng sức
khỏe; nhu cầu được khám chữa bệnh, phục hồi chức năng ( thẩm mỹ, tâm lý, sinh
lý, xã hội).

15


Trong quá trình tương tác xã hội, khi TEKT tiếp xúc và nhận biết được thái độ kỳ
thị hay những hành vi phân biệt đối xử của những người xung quanh xuất phát từ sự
khác biệt bên ngoài của họ, TEKT có thể đánh mất ý thức về con người thực sự của
mình, khiến cho họ hoài nghi về giá trị bản thân, tự nhìn nhận bản thân thông qua hình
thể bên ngoài thay vì nhân cách bên trong. Điều đó có thể dẫn tới sự xói mòn lòng tự
trọng bản thân và có thái độ tiêu cực trong gặp gỡ, giao tiếp với mọi người. Chính điều
này còn khiến cho việc chăm sóc sức khỏe của TEKT bị hạn chế, ảnh hưởng tới sức
khỏe của họ.
1.1.2. Công tác xã hội và công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật
1.1.2.1. Khái niệm công tác xã hội
CTXH là một nghề chuyên môn, một khoa học đã xuất hiện trên thế giới hàng
trăm năm. Tùy vào những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như nền
tảng tư tưởng CTXH tại mỗi khu vực, mỗi quốc gia trên thế giới lại có những đặc điểm

riêng biệt. Do đó, có rất nhiều định nghĩa về CTXH.
Định nghĩa của IFSW - Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế (tại đại hội
Montrean tháng 7/2000): CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội việc
giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực và giải
phóng người dân giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái dễ chịu. Vận dụng các
lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở các điểm
tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là
các nguyên tắc căn bản của nghề. [12, tr.10].
CTXH ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác
nhau, điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: CTXH là hoạt động thực
tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc, phương
pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. CTXH theo đuổi mục
tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. [12, tr.11].
CTXH tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết khoa
học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức năng xã
hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế

16


hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên
môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để thỏa mãn
những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai
trò xã hội của mình.
Như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của Nguyễn
Hồi Loan được thông qua tháng 7 năm 2014 tại Hội thảo quốc tế của APASWE,
Melbourne như sau: “CTXH là một hoạt động thực tiễn xã hội, được thực hiện theo
những nguyên tắc và phương pháp nhất định và được vận hành trên cơ sở văn hóa
truyền thống của dân tộc, nhằm trợ giúp cá nhân của họ, vì phúc lợi và hạnh phúc
con người và tiến bộ xã hội”. [12,tr.11].

1.1.2.2. Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật
Trong tất cả các đối tượng mà CTXH cần trợ giúp, hỗ trợ thì TEKT có thể nói
là một nhóm đối tượng cần được sự quan tâm, trợ giúp đặc biệt. Việc trợ giúp của
nhân viên CTXH đối với TEKT được coi là một lĩnh vực chuyên môn sâu của
người làm CTXH, lĩnh vực này được gọi là “CTXH đối với TEKT”.
CTXH với TEKT như một lĩnh vực hoạt động của thực hành CTXH, làm việc
với TEKT có nghĩa là làm việc với những trẻ em bị khiếm thị, khiếm thính, thiểu
năng, và những trẻ em là nạn nhân của các khiếm khuyết thân thể khác bao gồm cả
những trẻ ốm đau về tâm thần và tật nguyền.
Mục đích của CTXH đối với TEKT là tạo điều kiện để giúp đỡ TEKT phát
triển năng lực bản thân một cách tốt nhất và tạo được môi trường phát triển, hòa
nhập tốt cho TEKT. Muốn đạt được mục đích nêu trên, bản thân TEKT cần được
giúp đỡ về mọi mặt, từ chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục, đến tạo cơ hội việc làm
và thu nhập; từ việc nâng cao đời sống vật chất đến nâng cao đời sống tinh thần…
Mặt khác TEKT là đối tượng có hạn chế về thể lực, tâm lý… vì vậy đòi hỏi nhân
viên CTXH khi làm việc với TEKT phải có tấm lòng bao dung, nhân hậu, cảm
thông và chia sẽ đồng thời nhân viên CTXH phải có những phẩm chất, đạo đức,
phương pháp và kỹ năng làm việc chuyên nghiệp thì mới có thể đem lại hiệu quả tốt
nhất cho TEKT.

17


Từ những phân tích, nhận định về CTXH đối với TEKT như trên, chúng ta có
thể hiểu: CTXH đối với TEKT là hoạt động chuyên nghiệp của nhân viên CTXH
giúp đỡ những TEKT tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã
hội của họ, huy động nguồn lực, xác định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ TEKT,
gia đình và cộng đồng triển khai hoạt động chăm sóc trợ giúp họ một cách hiệu quả,
vượt qua những rào cản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hội trên
nền tảng sự công bằng như những người khác trong xã hội.

1.1.3. Chính sách, chính sách xã hội và chính sách công tác xã hội đối với
trẻ em khuyết tật
1.1.3.1. Chính sách
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội,
qua tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu cho thấy khái niệm, định nghĩa chính sách
được thể hiện khác nhau như: (i). Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra. (ii). Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng
phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội…
Có rất nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như: Chính
sách đối ngoại, chính sách kinh tế…, trong các loại chính sách chung lại có các
chính sách riêng đối với từng lĩnh vực. Tóm lại, có nhiều loại chính sách khác nhau,
có chính sách chung, chính sách cụ thể tuỳ thuộc vào nội dung và lĩnh vực kinh tế xã hội. Chính sách được thực thi khi được thể chế hoá bằng pháp luật. Nói một cách
khác, pháp luật là kết quả thể chế hoá đường lối, chính sách, là công cụ để thực thi
chính sách. Do chính sách có các loại và cấp độ khác nhau, có những chính sách
mang tính định hướng, có những chính sách cụ thể, nên các cấp phê duyệt chính
sách và nguồn chính sách cũng khác nhau, do các cấp khác nhau ban hành.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, Chính sách của Nhà nước được
hiểu là tập hợp văn bản mà Chính phủ xây dựng, ban hành với mục đích rõ ràng, tác
động đến nhóm người hoặc toàn bộ người dân trong xã hội. Ở nghĩa rộng hơn,
18


chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những
mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể.
1.1.3.2. Chính sách xã hội
CSXH là công cụ để đảm bảo nền an sinh xã hội. CSXH ở một nghĩa rộng
nhất được hiểu như một bộ phận cấu thành chính sách chung của một Nhà nước,
chính quyền hướng tới lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết vấn đề liên quan tới cuộc

sống của con người, đến lợi ích của nhóm người trong xã hội góp phần điều chỉnh
các quan hệ xã hội cho phù hợp với mục tiêu của giai cấp, chính đảng.
CSXH được xem như sự định hướng hay những can thiệp liên quan tới các
vấn đề xã hội tạo nên sự thay đổi hoặc duy trì điều kiện sống đảm bảo an sinh cho
con người. Các CSXH được xây dựng nhằm cải thiện an sinh xã hội và đáp ứng nhu
cầu của con người như: y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở và an toàn xã hội…
Dinitto & Dye (1983) định nghĩa về CSXH: “ Tất cả những điều chính quyền
làm hoặc không làm mà ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi công dân”. Theo định
nghĩa tổng quát này thì CSXH có thể bao gồm tất cả những vấn đề về thuế, quốc
phòng, bảo vệ môi trường, giáo dục, y tế, nhà ở và những chương trình cứu trợ. Và
trong phạm vi hẹp có thể định nghĩa CSXH một cách cụ thể là những hoạt động của
chính quyền có mục đích tác động đến sự an sinh của công dân thông qua những
chương trình, dịch vụ tạo thu nhập, các chính sách liên hệ trực tiếp đến chương
trình xã hội có tính chất trợ giúp và bảo hiểm với những nhóm đối tượng đặc biệt
trong hoàn cảnh khó khăn.
Xét về nội hàm: CSXH thường hướng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng cầm quyền và Nhà nước trong từng thời kỳ, các CSXH thể hiện tính trách
nhiệm, mang hàm nghĩa văn hóa – văn minh, phản ánh tính chất tiến bộ, đảm bảo
công bằng của xã hội. CSXH lấy con người làm trung tâm, làm đối tượng tác động
trực tiếp. Vì vậy, tất cả nội dung, mục tiêu của chính sách đều hướng tới con người.

19


×