Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.61 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUỆ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Học viện.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



NGUYỄN THỊ HUỆ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN
1.1 Khái niệm, đặc điểm tiếp công dân
1.2 Khái niệm, đặc điểm, hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về tiếp
công dân
1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

1
11
11
16
28

Chương 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIẾN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI

33

DƯƠNG
2.1. Thực trạng pháp luật về tiếp công dân của Uỷ ban nhân dân các cấp từ
thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
2.2. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương
2.3. Ưu điểm và hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân của Uỷ

ban nhân dân các cấp huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
2.4. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp
công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

33

45

49

60

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI

66

DƯƠNG
3.1 Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

66

3.2 Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân

67

3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân

71


KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, điều này khẳng định mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, là nhà nước do dân lập nên, dân làm chủ, dân ủng hộ, mọi hoạt động của
nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước luôn phải lắng nghe,
tiếp nhận những ý kiến, nguyện vọng của nhân dân thông qua việc tiếp nhận,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, hoạt động
này được gọi là hoạt động tiếp công dân.
Trong một xã hội dân chủ, hoạt động tiếp công dân là sự phản ánh, biểu
hiện ra bên ngoài của việc thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa Nhà nước với công dân. Mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân là mối
quan hệ hai chiều, công dân vừa là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước, khi

tiếp công dân là nhà nước tiếp nhận sự phản ánh lại những tác động từ hoạt động
quản lý của nhà nước, đồng thời công dân cũng là chủ thể của quyền lực nhà
nước khi công dân có quyền đề xuất, kiến nghị với nhà nước về những nội dung
liên quan đền quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, nhà nước có trách
nhiệm tiếp công dân để lắng nghe, tiếp nhận, xử lý, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh và cung cấp cho người dân những thông tin liên quan
đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đó.
Tiếp công dân có vai trò rất quan trọng, thời gian qua, Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về tiếp công dân; Ngay
từ ngày đầu xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến việc thể chế hoá và hiện thực
hoá các quyền tự do, dân chủ trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định một trong những nhiệm vụ

1


của Ban thanh tra là “Tiếp nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. Đây là văn
bản pháp lý quan trọng đầu tiên xác định quyền khiếu nại của công dân đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, cán bộ, nhân
viên làm việc trong cơ quan đó và trách nhiệm của cơ quan thanh tra trong việc
giải quyết các khiếu nại của nhân dân.
Tại Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn miền Bắc năm 1957, Chủ tịch Hồ
Chí Minh huấn thị: “Về công tác xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố giác,
nhiệm vụ của các Ban Thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh, kịp thời, làm
sớm chừng nào hay chừng ấy. Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, hoặc chưa
hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta giải quyết nhanh,
tốt chừng nào thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến quyền lợi
của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ cũng được

củng cố tốt hơn”.
Đến Hiến pháp năm 1992 tại Điều 8 có quy định: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân”.
Ngày 07/8/1997 Chính phủ ban hành Nghị định số 89/CP về ban hành
quy chế tiếp công dân đã nêu rõ các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp công
dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Ngày 06/3/2002 Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 09/CT-TW về một số vấn đề
cấp bách cần thực hiện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong đó quy định “các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải quan tâm
đến việc tiếp dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân,
phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, ngăn ngừa, khắc phục tình
trạng công dân khiếu tố vượt cấp...”
Quốc hội ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005; Chính Phủ ban hành Nghị
2


định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Đến năm 2011, nội dung khiếu nại,
tố cáo được quy định trong văn bản Luật riêng: Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố
cáo 2011.
Đăc biệt là năm 2013 Luật tiếp công dân năm 2013 ra đời đã quy định rõ
những vấn đề cơ bản của hoạt động tiếp công dân như trách nhiệm tiếp công
dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;
việc tổ chức tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của
cơ quan, tổ chức, đơn vị và điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân.
Đến Hiến pháp năm 2013 đã khảng định Khiếu nại, tố cáo là quyền của
công dân, tại Điều 30 của Hiến pháp ghi nhận: “1. Mọi người có quyền khiếu

nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của
pháp luật ”[17].
Tiếp theo đó, ngày 26 tháng 6 năm 2014 Chính Phủ ban hành Nghị định
số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tiếp công dân
năm 2013. Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày
31 tháng 10 năm 2014 quy định về quy trình tiếp công dân.
Như vậy, những quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân ngày
càng đầy đủ, hoàn thiện, các quy định này đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở
pháp lý giúp công dân thực hiện được các quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của mình, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong hoạt động tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố
cáo, phản ánh, kiến nghị chính đáng của người dân, thông qua công tác tiếp dân
mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân ngày càng được tăng cường, củng cố,
tiếp công dân là cầu nối trực tiếp, hữu hiệu nhất để người lãnh đạo chính quyền,
3


cán bộ nhà nước gần và sát dân hơn, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, giải quyết kịp
thời những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân, tạo được niềm
tin trong nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền, ổn định
tình hình chính trị địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung, tạo nên sức
mạnh đoàn kết toàn dân.
Tiếp công dân là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nói chung nhưng
đặc biệt quan trọng là trách nhiệm của UBND các cấp, bởi lẽ UBND các cấp là
cơ quan có thẩm quyền chung, quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội tại
địa phương, thường xuyên có quyết định, hành vi tác động đến quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân. Trách nhiệm, hiệu quả, tính chất của hoạt động tiếp
công dân phụ thuộc rất lớn vào tình hình kinh tế, xã hội, trình độ nhận thức của
cán bộ và nhân dân ở mỗi địa phương.
Tứ Kỳ là một huyện của tỉnh Hải Dương, dân số toàn huyện tại thời điểm
điều tra dân số và nhà ở ngày 31/12/2015 là 158.992 người. Nhân dân sản xuất
nông nghiệp là chính, những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ bước đầu phát triển, đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn.
Trong những năm qua các cấp chính quyền huyện đã thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp nhằm thu hút các dự án đầu tư vào huyện để phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động. Cùng với việc thu hút trên hàng chục
dự án lớn, nhỏ vào huyện, được sự quan tâm của UBND tỉnh và Bộ Giao thông
vận tải, huyện Tứ Kỳ đã được đầu tư nâng cấp tỉnh lộ 391, 392, đường ôtô cao
tốc Hà Nội-Hải Phòng, Cầu Bía, đường 191D và một số dự án khác. Chính vì
vậy UBND huyện và UBND các xã, thị trấn phải liên tục tổ chức thực hiện công
tác giải phóng mặt bằng để tiếp nhận các dự án giao thông, dự án thuê đất sản
xuất công nghiệp, dịch vụ. Do việc thu hồi đất có tác động trực tiếp đến sản xuất
và đời sống của một bộ phận nhân dân có đất bị thu hồi. Mặt khác, do tác động
4


mặt trái của cơ chế thị trường và thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở một
số địa phương thiếu công khai, dân chủ, cá biệt có nơi vi phạm chế độ chính
sách. Đó là những yếu tố tác động trực tiếp đến công tác tiếp dân và giải quyết
đơn thư những năm gần đây. Song với sự tập trung chỉ đạo, làm tốt công tác tiếp
dân, thực hiện nghiêm quy trình trong giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, công
tác tiếp dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ vững ổn định
tình hình nhân dân, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, công tác tiếp dân tại UBND các cấp trên địa bàn huyện Tứ Kỳ
cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn chủ yếu đó là:

Thứ nhất, nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân dân về các lĩnh vực
chưa cao, đặc biệt là về đất đai, giải phóng mặt bằng.
Thứ hai, còn tình trạng cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước chưa
nhận thức đúng về trách nhiệm, vai trò của mình trong công tác tiếp công dân, coi
nhẹ các đề nghị của công dân, tình trạng đùn đẩy, né tránh vẫn xảy ra.
Thứ ba, tình hình kinh tế, xã hội ngày càng phát triển cùng với nó là các
quan hệ xã hội diễn ra sôi động trên các phương diện, các tranh chấp giữa các tổ
chức, cá nhân về quyền và nghĩa vụ ngày càng nhiều và phức tạp đòi hỏi sự can
thiệp của nhà nước, bên cạnh đó có cả xung đột giữa nhà nước và nhân dân liên
quan đến lợi ích của người dân. Vấn đề đó dẫn đến các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh trở nên phức tạp.
Để khắc phục những hạn chế, khó khăn trong công tác tiếp dân trên địa bàn
huyện Tứ Kỳ hiện nay, góp phần ổn định trật tự xã hội trên địa bàn huyện, cùng với
điều kiện của bản thân có nhiều năm trực tiếp làm công tác tiếp công dân nên học
viên chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ,
tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Hiến
pháp và luật Hành chính. Với mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về tiếp
công dân trong hoạt động quản lý Nhà nước, đánh giá đúng đắn thực trạng địa

5


phương và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp công
dân của UBND các cấp tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật tiếp công dân, về thực tiễn
hoạt động công tác tiếp công dân nói chung trên cả nước, làm cơ sở lý luận và
nguồn tham khảo cho đề tài, cụ thể:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo của Ts. Bùi Mạnh Cường và Ts. Nguyễn Thị Tố Uyên sưu tầm và tuyển chọn,

Nxb Chính trị quốc gia, 2013. Đây là cuốn sách bao gồm các bài viết, bài nói
chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian về công tác
tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Quy trình tiếp công dân và xử lý đơn thư của Tạp chí Thanh tra, Thanh tra
Chính phủ, Nxb Thanh niên, 2013. Cuốn sách đã nêu bật được những vấn đề chung
của công tác tiếp công dân và những quy định của pháp luật hiện nay về công tác này;
- Nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của Viện Khoa
học Thanh tra và Trường Cán bộ Thanh tra, Tài liệu phục vụ bồi dưỡng nghiệp vụ
thanh tra, Hà Nội 2005;
- Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình
hình mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình bày một số vấn
đề đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tình hình mới; Kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các địa phương trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của Ủy ban nhân dân các cấp từ thực
tiễn thành phố Hà Nội của thạc sỹ Nguyễn Thị Hằng, 2015, làm rõ cơ sở lý luận về
tiếp công dân trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện pháp luật
về tiếp công dân của UBND thành phố Hà Nội;
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Thạc sỹ Bùi Mạnh Cường, 2013, Ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân. Đề tài nêu rõ thực trạng về tiếp
6


công dân và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong
những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động tiếp công dân trong thời gian tới ở nước ta;
- “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong các cơ quan của
Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Trinh.
- “Cải cách thủ tục hành chính trong tiếp dân, giải quyết KN, tố cáo”
(Chủ nhiệm- đồng chí Lê Đình Đấu- Vụ trưởng vụ xét khiếu tố), mục đích là

nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục
hành chính trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- “Giải quyết khiếu tố của nhân dân - thực trạng và những bài học kinh
nghiệm’’ (Khoa Nhà nước và Pháp luật- Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2001) được các tác giả bàn luận theo phương thức trên cơ sở lý luận về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo để rút ra một số bài học kinh
nghiệm, kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tình hình hiện nay”, Tham luận tại hội thảo Thanh tra 7 tỉnh miền
Bắc năm 2014. Các tham luận tập trung vào các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đều có đề cập vấn
đề tiếp công dân nói chung nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và trực
tiếp đến vấn đề tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Các đề
tài, bài biết, tham luận mới chỉ đề cập đến những vấn đề riêng hoặc ở một số khía
cạnh nhất định, rời rạc đến pháp luật về tiếp công dân và bất cập, khó khăn trong
quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân của các cơ quan, đơn vị.
Vì vậy, vấn đề “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ
Kỳ, tỉnh Hải Dương” là vấn đề cần được nghiên cứu. Đó cũng chính là một trong
những lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học Luật của mình.
7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học về tiếp công dân tại huyện
Tứ Kỳ, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tiếp công
dân nói chung và nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp công dân Ủy ban nhân dân
các cấp tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay. Đánh giá thực trạng thực hiện

pháp luật về tiếp công dân, kết quả hoạt động tiếp công dân, điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa chính trị ảnh hưởng đến hoạt động tiếp công dân; ưu điểm, khó khăn,
hạn chế và tìm nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong công tác tiếp công
dân; Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ khái niệm, ý nghĩa, mục đích, đặc điểm của hoạt động
tiếp công dân nói chung và hoạt động tiếp công dân của huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương nói riêng.
- Làm rõ những đặc thù và thực tiễn hoạt động tiếp công dân của UBND
các cấp trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, đánh giá đúng đắn những kết quả đạt được,
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp Luật tiếp công
dân của UBND các cấp trên địa bàn huyện từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, Hải
dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND huyện Tứ
Kỳ và UBND 27 xã, thị trấn thuộc huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

8


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tiếp công dân của UBND huyện
Tứ Kỳ, UBND các xã, thị trấn thuộc huyện Tứ Kỳ gắn liền với việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015. Hoạt động tiếp công dân được nghiên cứu trong luận văn này
được giới hạn trong việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh

với UBND huyện, UBND cấp xã trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động tiếp công
dân nói chung và tiếp công dân của UBND cấp huyện, cấp xã nói riêng. Các phương
pháp nghiên cứu cụ thể đó là: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khảo sát, đánh
giá thực tiễn, phân tích, tổng hợp, logic, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Là công trình nghiên cứu tổng quát về pháp luật và việc thực hiện pháp luật
về tiếp công dân của UBND các cấp huyện Tứ Kỳ, luận văn có những đóng góp
mới sau:
- Góp phần làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động tiếp
công dân trong quản lý nhà nước, từ đó nêu bật vị trí, vai trò và trách nhiệm của
cán bộ, công chức trong tiếp công dân.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực
hiện pháp luật về tiếp công dân tại UBND các cấp huyện Tứ Kỳ, làm rõ những kết
quả đạt được, ưu điểm, những hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân của những
ưu điểm, hạn chế trong quá trình thực hiện những quy định của pháp luật về tiếp
công dân của UBND các cấp huyện Tứ Kỳ.

9


- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân nói chung và tiếp công dân trên địa bàn
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương nói riêng. Trong đó, tập trung vào giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức thực hiện hoạt động tiếp công dân.

Với những nội dung đạt được, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở,
là tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về tiếp công dân cũng như nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của thực hiện pháp luật về tiếp
công dân
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ
thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công
dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm tiếp công dân
1.1.1. Khái niệm tiếp công dân
Tiếp công dân là một hiện tượng khách quan phát sinh trong đời sống xã
hội, một hoạt động mang tính xã hội, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, nhà
nước thực hiện chức năng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu do các
cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành
để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, đây là hoạt
động thực thi quyền hành pháp. Bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở quy định
của pháp luật, nhà nước tác động và điều chỉnh hành vi, hoạt động của con
người và các quá trình xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân thường xuyên là đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp từ những quyết định hành chính hay hành vi

hành chính. Chính vì vậy, trong quản lý nhà nước luôn ẩn chứa nguy cơ phát
sinh những xung đột về lợi ích giữa một bên là các cơ quan nhà nước-chủ thể
của quản lý nhà nước với một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lýđối tượng của quản lý nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước không chỉ
ban hành quy định buộc các đối tượng quản lý phải tuân theo mà trong quá trình
quản lý nhà nước cũng luôn cần sự đóng góp ý kiến từ phía tổ chức, người dân
để khắc phục những hạn chế, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức cũng như chính sách,
pháp luật. Việc quản lý đạt hiệu quả hay không được đánh giá vào mức độ đồng
thuận giữa nhà nước và nhân dân, do đó, việc tiếp xúc giữa các cơ quan quản lý
nhà nước với các cơ quan, tổ chức, cá nhân là yêu cầu khách quan.
Nhà nước thực hiện việc tiếp nhận những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh từ phía nhân dân về những quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước,
của cán bộ, công chức nhà nước, đó là một sự phản ứng tự nhiên của con người

11


khi quyết định, hành vi quản lý của nhà nước đã được ban hành hoặc thực hiện
mà người dân thấy rằng nó không phù hợp, hoặc không đúng, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tổ
chức gặp gỡ, tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
của công dân. Đây chính là hoạt động tiếp công dân của cơ quan nhà nước, đặc
biệt là cơ quan hành chính nhà nước.
Hoạt động tiếp công dân là một trong những hoạt động thường xuyên
của các cơ quan nhà nước. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước kịp thời tiếp
nhận và xử lý những vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước, lắng nghe được
những ý kiến của dân, nhận được những thông tin kịp thời phản ánh về quá trình
thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trên
cơ sở đó Đảng và Nhà nước có thể điều chỉnh sửa đổi, bổ sung kịp thời các
chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế phát triển vận động của xã hội.
Trước khi có Luật tiếp công dân năm 2013, thuật ngữ tiếp công dân đã

thường xuyên xuất hiện trong đời sống hàng ngày, trong hoạt động quản lý của
nhà nước và trong các văn bản pháp luật, được hiểu rằng đó là một hoạt động
của quản lý nhà nước, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tiếp
công dân, trình tự, thủ tục tiến hành tiếp công dân...Tuy nhiên chưa có một khái
niệm chính thức về tiếp công dân trong bất kỳ văn bản nào.
Luật tiếp công dân năm 2013 khái niệm:“Tiếp công dân là việc cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đón tiếp để
lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải
thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh theo đúng quy định của pháp luật” [21].
Như vậy, tiếp công dân là hoạt động cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiếp nhận thông tin từ người dân thông qua ba hoạt động đó là: khiếu nại; tố cáo;
kiến nghị, phản ánh.

12


1.1.2. Đặc điểm của tiếp công dân
Là một hoạt động trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhằm đón
tiếp để lắng nghe, tiếp nhận; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực
hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật,
hoạt động tiếp công dân có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tiếp công dân là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể mang
quyền lực nhà nước, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Chủ thể mang
quyền lực nhà nước ở đây cụ thể đó là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
thẩm quyền trong việc tiếp nhận những thông tin từ công dân để lắng nghe, giải
quyết các yêu cầu của công dân, việc giải quyết phải theo một quy trình cụ thể do
luật định. Đặc điểm này nhằm xác định trách nhiệm của nhà nước, cụ thể là trách
nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, đồng
thời cũng nhằm hạn chế sự né tránh, đùn đẩy hay lạm quyền, tùy tiện trong công

tác tiếp dân.
Thứ hai, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà
nước thực hiện việc tiếp công dân nhằm phát huy dân chủ và đảm bảo quyền công
dân được thực hiện trên thực tế đó là các quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh đồng thời chính từ hoạt động đó nhà nước tiếp nhận và thấy được hiệu quả của
việc quản lý, là kênh thông tin quan trọng để nhà nước kiểm tra, giám sát bộ máy
quản lý, phát hiện và báo động về những khiếm khuyết, trục trặc của hệ thống quản
lý ở các tầng nấc, qua đó xem xét, điều chỉnh kịp thời, phản ánh sự đồng thuận của
xã hội, thái độ của công dân đối với nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, chính
là thước đo thái độ của công dân với chế độ chính trị.
Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phức tạp: Khác với hoạt động
tiếp xúc giữa công dân với cơ quan nhà nước để giải quyết các công việc cụ thể
thông thường diễn ra liên tục hàng ngày liên quan đến quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực theo thủ tục nhất định. Đối với quản lý hành chính nhà nước, nhà nước và
13


công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy định về thủ
tục hành chính trong từng lĩnh vực, khi công dân đáp ứng đầy đủ các yêu cầu liên
quan đến hồ sơ, thủ tục thì nhà nước có nghĩa vụ thực hiện để giải quyết một công
việc cụ thể cho công dân, kết quả của việc thực hiện này là người có thẩm quyền
ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính.
Đối với hoạt động tiếp công dân, việc tiếp xúc giữa nhà nước và công dân
là để nhà nước tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của
công dân. Các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị xuất phát từ chính hoạt động
quản lý nhà nước nêu trên khi công dân cho rằng quyết định hay hành vi của người
có thẩm quyền, của cán bộ, công chức nhà nước là trái quy định của pháp luật, xâm
phạm đến quyền, lợi ích của công dân, của xã hội. Hoạt động tiếp công dân bao
gồm tiếp công dân khiếu nại, tiếp công dân tố cáo, tiếp công dân kiến nghị, phản

ánh, trong mỗi trường hợp thì việc tiếp xúc giữa nhà nước và công dân cũng được
thực hiện một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú tùy theo tính chất phức tạp của
từng vụ việc, theo từng nội dung, cụ thể đó là:
- Đối với khiếu nại: Khi công dân khi có căn cứ cho rằng quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì công dân thực hiện quyền khiếu nại, tức là
quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính [20]. Do vậy, việc tiếp nhận và giải quyết khiếu
nại của công dân được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, xác định về nội dung, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục, thời hạn khiếu nại, đối với khiếu nại không đúng quy định thì
hướng dẫn, giải thích cho công dân về các quy định của pháp luật liên quan.
- Đối với tố cáo: Khi công dân nhận thấy có hành vi vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì
14


công dân có quyền tố cáo, tức là báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết. Việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân được thực hiện theo
quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố
cáo, trường hợp tố cáo thuộc thẩm quyền thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiến hành xác minh, giải quyết kịp thời nhằm ngăn chặn hành vi vi
phạm pháp luật, trường hợp khẩn cấp thì cán bộ tiếp công dân phải có trách nhiệm
báo cáo với cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn kịp thời hành vi nguy hiểm và có
biện pháp bảo vệ người tố cáo. Trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền thì cán
bộ tiếp công dân hướng dẫn công dân hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, người có
thẩm quyền giải quyết [19].
- Đối với kiến nghị, phản ánh của dân: Ngoài việc công dân thực hiện

quyền khiếu nại, quyền tố cáo nêu trên, công dân còn được thực hiện quyền cung
cấp các thông tin, trình bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các
lĩnh vực đời sống xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
đó. Những kiến nghị, phản ánh của công dân không phải là nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trước quyết định hành chính hay
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và không phải là việc thông báo về
hành vi vi phạm pháp luật. Việc kiến nghị, phản ánh của công dân chính là việc
công dân trình bày nguyện vọng, tâm tư của mình hoặc phản ánh những vấn đề
có liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật,
công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội, nội dung kiến nghị, phản
ánh của công dân đa dạng về các lĩnh vực.

15


1.2. Khái niệm, đặc điểm, hình thức và nội dung thực hiện pháp luật
về tiếp công dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về tiếp công dân
1.2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân
Về phương diện lý luận, thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay đang
tồn tại những quan điểm sau: Theo quan điểm của Trường Đại học luật Hà Nội:
“Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định
của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Quan điểm của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những
quy định pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”.
Như vậy, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, chính
trị và xã hội, nhưng vai trò đó chỉ trở thành hiện thực khi pháp luật được mọi chủ

thể tuân thủ, chấp hành, sử dụng có hiệu quả và các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, các chủ thể được Nhà nước trao quyền áp dụng một cách đúng đắn pháp
luật. Hay nói cách khác pháp luật đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc
sống. Nghiên cứu thực hiện pháp luật cho thấy, nó được thể hiện dưới các hình
thức như tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật. Như vậy, thực hiện
pháp luật tuy được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng cuối cùng nó
đều là những hoạt động có mục đích, có định hướng để đưa các quy phạm pháp
luật đi vào cuộc sống. Với cách tiếp cận này, có thể hiểu khái niệm thực hiện pháp
luật như sau: Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, có chủ
định để làm cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hoạt
động thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Từ khái niệm thực hiện pháp luật cũng như khái niệm và các đặc điểm
của tiếp công dân như đã nêu trên làm cơ sở để tác giả nghiên cứu khái niệm
thực hiện pháp luật về tiếp công dân như sau:

16


Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, để thực
hiện tốt mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và công dân, giải quyết các vấn đề
phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, tạo sự đồng thuận
giữa nhà nước và công dân, nhà nước có trách nhiệm tiếp công dân, việc ban
hành pháp luật về tiếp công dân làm cơ sở pháp lý cho hoạt động tiếp công dân
được thực hiện trên thực tế. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong thực hiện, tổ
chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân, nhà nước quy định cụ thể trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức trong việc tổ chức tiếp công dân;
trách nhiệm quản lý công tác tiếp công dân; các hành vi bị nghiêm cấm; quyền
và nghĩa vụ của công dân.
Từ sự phân tích trên có thể đi tới khái niệm: Thực hiện pháp luật về tiếp
công dân là quá trình hoạt động có mục đích, có chủ định của các cơ quan Nhà

nước, các cá nhân, tổ chức, nhằm làm cho các quy phạm pháp luật về tiếp công
dân được thực hiện trong thực tế, đảm bảo cho các cá nhân có thẩm quyền lắng
nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích,
hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo đúng quy định của pháp luật, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về tiếp công dân
Thực hiện pháp luật về tiếp công dân ngoài những đặc điểm của thực hiện
pháp luật nói chung, còn có những đặc điểm riêng được qui định bởi vị trí, vai trò
của nó trong đời sống xã hội. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật về tiếp công
dân ở Việt Nam cho thấy thực hiện pháp luật về tiếp công dân có một số đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân là các cơ quan
hành chính nhà nước, thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập và công dân.

17


Đặc điểm này xuất phát từ vị trí, vai trò hết sức quan trọng của pháp luật
về tiếp công dân, đó là việc thông qua thực hiện pháp luật về tiếp công dân góp
phần lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân;
giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, địa điểm thực hiện pháp luật về tiếp công dân là trụ sở làm việc
của cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân. Điều đó được hiểu là
việc tiếp công dân được tiến hành tại nơi quy định được gọi là Trụ sở tiếp công
dân, nơi để công dân trực tiếp đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với lãnh
đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương hoặc lãnh đạo Đảng, chính quyền ở địa
phương hoặc là nơi để lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở Trung ương hoặc địa phương

trực tiếp tiếp công dân trong những trường hợp cần thiết.
Thứ ba, người được hưởng lợi từ thực hiện pháp luật về tiếp công dân là
người có khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được giải thích, hướng dẫn về
việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của
pháp luật, được giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, đồng thời
cũng góp phần nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.
Thứ tư, kết quả của thực hiện pháp luật về tiếp công dân là việc ban hành
những văn bản hành chính cá biệt theo quy định, tùy theo từng nội dung tiếp
công dân, theo từng trường hợp cụ thể bộ phận tiếp công dân ban hành một
trong các loại văn bản sau: phiếu đề xuất thụ lý đơn, phiếu hẹn, báo cáo, hướng
dẫn, công văn đôn đốc, thông báo, phiếu chuyển.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về tiếp công dân có vai trò rất quan trọng
trong các hoạt động của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
chính trị ở nước ta. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ
chức tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên
quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các
biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện
18


bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân
dân với Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp
cho Đảng và Nhà nước tiếp nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế,
những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống, từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách
đúng đắn, hợp lòng dân.
1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về tiếp công dân
Hình thức thực hiện pháp luật được hiểu là cách thức, biện pháp mà chủ
thể sử dụng để đưa pháp luật vào đời sống. Nghiên cứu thực hiện pháp luật về
tiếp công dân, cho thấy các hình thức thực hiện pháp luật bao gồm tuân thủ pháp
luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về tiếp công

dân. Cụ thể là:
Tuân thủ pháp luật về tiếp công dân là một hình thức thực hiện pháp luật
về tiếp công dân, trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân kiềm
chế không thực hiện những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật:
- Đối với cán bộ tiếp công dân không được: Gây phiền hà, sách nhiễu
hoặc cản trở người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Thiếu trách nhiệm
trong việc tiếp công dân; làm mất hoặc làm sai lệch thông tin, tài liệu do người
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cung cấp; Phân biệt đối xử trong khi tiếp
công dân [21].
- Đối với công dân, pháp luật nghiêm cấm: Lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh để gây rối trật tự công cộng; Xuyên tạc, vụ khống, gây
thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; Đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ
chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ; Kích động, cưỡng
ép, dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc người khác tập trung đông người tại nơi tiếp công
dân; Vi phạm các quy định trong nội quy, quy chế tiếp công dân [21].
Chấp hành pháp luật về tiếp công dân là một hình thức thực hiện pháp
luật về tiếp công dân, trong đó các chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân
thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Pháp luật về tiếp
19


công dân có nhiều quy định cho các chủ thể và các đối tượng khác tham gia vào
quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân có những nghĩa vụ nhất định trong
hoạt động của mình. Đối với công dân khi đến nơi tiếp công dân có các nghĩa vụ
sau đây: Nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền
(nếu có); Có thái độ đúng mực, tôn trọng đối với người tiếp công dân; Trình bày
trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh; ký hoặc điểm chỉ xác nhận những nội dung trình
bày đã được người tiếp công dân ghi chép lại; Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy
tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân; Trường hợp nhiều người

cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung thì phải cử người
đại diện để trình bày nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại, tố cáo của mình. Đối với người
tiếp công dân, khi tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ
công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định; Có thái độ đứng mực, tôn
trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà công dân trình bày; Giải thích,
hướng dẫn cho công dân chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật,
kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền; hướng dẫn công dân đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải
quyết; Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền
xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân [21].
Sử dụng pháp luật về tiếp công dân cũng là một hình thức thực hiện pháp
luật về tiếp công dân, trong đó các chủ thể tích cực thực hiện các quyền của mình
theo quy định của pháp luật. Pháp luật về tiếp công dân quy định nhiều quyền cho
các chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân. Chẳng
hạn: Công dân có các quyền sau đây: Trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh; Được hướng dẫn, giải thích về nội dung liên quan đến
20


khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của mình; Khiếu nại, tố cáo về hành vi vi
phạm pháp luật của người tiếp công dân; Nhận thông báo về việc tiếp nhận, kết
quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Trường hợp người khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh không sử dụng thông thạo tiếng Việt thì có quyền sử
dụng người phiên dịch... Người tiếp công dân có quyền được từ chối tiếp công
dân trong các trường hợp công dân trong tình trạng say do dùng chất kích thích,
người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình; Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ

quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành
vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân; Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã
giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn
nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài; Những trường hợp khác theo quy
định của pháp luật [21].
Áp dụng pháp luật về tiếp công dân là một hình thức thực hiện pháp luật
về tiếp công dân, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, các cá nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các quy định của pháp
luật về tiếp công dân để ra các văn bản áp dụng pháp luật cá biệt làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật trong hoạt động tiếp công dân. Chẳng
hạn, Điều 28 Luật tiếp công dân năm 2013 quy định về thông báo kết quả xử lý
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày tiếp nhận nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, người tiếp công
dân có trách nhiệm trả lời trực tiếp hoặc thông báo bằng văn bản đến người đã
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một trong các nội dung sau đây:
Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đã được thụ lý để giải quyết; Việc xem
xét khiếu nại, tố cáo để thụ lý cần kéo dài thời gian do cần xác minh thêm theo
quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo; Từ chối thụ lý đối với khiếu nại, tố cáo
không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình hoặc
21


×