Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.76 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
Những vấn đề lí luận về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS
1. Khái niệm
2. Ý nghĩa của nguyên tắc
3. Cơ sở của nguyên tắc
3.1.
Cơ sở lí luận
3.2.
Cơ sở thực tiễn
II.
Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự theo quy
định của BLTTDS
1. Quyền tự quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự và về
quyền, lợi ích dân sự của đương sự
1.1.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ
án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự
1.2.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu
1.3.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo,
thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo
1.4.
Quyền tự định đoạt của đương sự về nội dung hòa giải và
tự hòa giải


1.5.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra chứng
cứ, bổ sung chứng cứ, quyền cử người đại diện, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
1.6.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giai đoạn thi hành
án
2. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện nguyên
tắc quyền tự định đoạt của đương sự
III.
Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS và một số kiến nghị
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về nguyên tắc
1.1. Những thành tựu đạt được
1.2. Những tồn tại, hạn chế
2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Từ viết tắt:
TTDS :
BLTTDS:

Tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự

1


MỞ ĐẦU

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, các mối quan hệ kinh tế - dân sự trong xã hội ngày càng trở nên đa dạng,
phong phú, sinh động song cũng hết sức phức tạp, nảy sinh nhiều vấn đề mới.
Trong đó, việc giải quyết các tranh chấp dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng
không chỉ nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ dân sự mà còn nhằm góp phần bình ổn các quan hệ trong xã hội. Để thực
hiện được mục đích đó, đòi hỏi các chủ thể tham gia tố tụng và chủ thể tiến hành
tố tụng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc của Luật TTDS trong đó có nguyên tắc
quyền tự định đoạt của đương sự.

NỘI DUNG

I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
TTDS.
1.Khái niệm.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong
những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình TTDS và là một nguyên tắc cấu
thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự luôn luôn được coi trọng trong bất kỳ giai đoạn nào của
sự phát triển kinh tế xã hội, được quy định trong nhiều văn bản pháp luật do Nhà
nước ta ban hành. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 50 Hiến pháp
năm 1992 và Điều 5 BLTTDS năm 2004.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong những quyền tố tụng
quan trọng được quy định trong pháp luật. TTDS quy định các đương sự có quyền
tự định đoạt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước tòa án.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản của luật TTDS,
theo đó đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn
thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
quyền quyết định của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách
nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định

đoạt của họ.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc.
Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để xây
dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS thì nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự còn mang ý nghĩa riêng của nó: Thứ nhất, nguyên tắc này
đảm bảo cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình quyết định quyền,
lợi ích hợp pháp của họ đồng thời thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó. Qua đó quyền và lợi ích của đương sự sẽ được bảo
đảm và pháp huy một cách có hiệu quả. Thứ hai, nguyên tắc này còn có ý nghĩa
trong việc xác định rõ trách nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự. Giúp Tòa án nhận thức đúng về nghĩa vụ, quyền hạn cũng như
trách nhiệm của mình trong quá trình xét xử. Thứ ba, nguyên tắc này khẳng định
quan điểm nhất quán của nhà nước ta đó là đương sự được quyền tự do thể hiện ý
chí bằng việc tự mình lựa chọn các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
2


hợp pháp của mình. Nhờ đó mà hoạt động xét xử sẽ đảm bảo tính đúng đắn và
khách quan, pháp huy được vai trò đối với việc ổn định trật tự và kỷ cương xã hội.
3. Cơ sở của nguyên tắc.
3.1. Cơ sở lý luận.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các nguyên
tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình
đẳng giữa các chủ thể trong TTDS, nguyên tắc này thể hiện ở khả năng những
người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền
về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Từ
phân tích trên, có thể thấy rằng nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS chính là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình
thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội

dung quy định.
Mặt khác, nguyên tắc này được đặt ra do yêu cầu bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự. Như quy định tại Điều 9 và để bảo đảm cho đương sự bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì pháp luật phải có những quy định nhằm
giúp đương sự thực hiện tốt quyền này. Nếu không có những quy định về quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được việc thực thi
nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS
đã đưa ra quy định về nguyên tắc này tại Điều 5 BLTTDS.
3.2. Cơ sở thực tiễn.
Trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập, một mặt người dân không có hiểu
biết về pháp luật, nên không biết là mình có quyền yêu cầu tòa án giải quyết khi
nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường hợp có yêu cầu
nhưng đương sự lại hiểu sai quy định của pháp luật nên yêu cầu đó là trái pháp
luật và đạo đức xã hội. Và còn nhiều trường hợp, đương sự đưa ra yêu cầu không
đầy đủ. Vì vậy, cần phải quy định đương sự hoàn toàn có quyền chấm dứt, thay đổi
hoặc bổ sung yêu cầu. Mặt khác, bên cạnh đó, từ phía tòa án cũng còn tồn tại nhiều
sai sót. Có trường hợp nhận được yêu cầu của đương sự mà tòa án vẫn không tiến
hành giải quyết, hoặc là tòa án giải quyết không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu
của đương sự. Vì vậy mà việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS, trong đó ghi nhận trách nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự là hết sức cần thiết. Cho nên, BLTTDS năm 2004 đã đưa ra quy
định về nguyên tắc này tại Điều 5. Việc quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn khách quan. Góp phần bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
II.Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS theo
quy định của BLTTDS.
1. Quyền tự quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự và về quyền, lợi ích
dân sự của đương sự.
1.1.Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu
cầu giải quyết việc dân sự.

3


- Thứ nhất, về quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự.
Trong lĩnh vực dân sự, lợi ích của các bên được xem như là một tiền đề dẫn
đến tranh chấp dân sự. Để giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền tự quyết định
việc khởi kiện hay không khởi kiện, phản tố hay không phản tố. Khi tiến hành khởi
kiện, đương sự có toàn quyền quyết định trong việc khởi kiện ai và khởi kiện về
những nội dung gì. Tòa án chỉ thụ lí giải quyết khi có đơn khởi kiện và chỉ giải
quyết trong phạm vi đơn khởi kiện đó.
Nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi
kiện đối với bị đơn thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn. Quy định này đã thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định
đoạt của đương sự. Thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong những biểu hiện
của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
-Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong
các việc dân sự, không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên, thông thường trong
các việc dân sự một bên công nhận hay bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một
trách nhiệm dân sự nào đó. Người yêu cầu trong việc dân sự có lợi ích pháp lý độc
lập nên được đưa ra yêu cầu cho tòa án giải quyết như nguyên đơn trong vụ án
dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, yêu cầu của họ
chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận hay không công nhận một sự
kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc
công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự là một
trong những quyền cơ bản của đương sự trong TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền
này của đương sự đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS trên thực tế.
1.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu
cầu.
* Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu:

Khi đương sự thực hiện hành vi khởi kiện, họ hoàn toàn có quyền tự quyết
định các hành vi tố tụng tiếp theo của mình. Đương sự có quyền chấm dứt, thay
đổi, bổ sung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hay không. Trước khi
mở phiên tòa, quyền này được coi là quyền tuyệt đối của đương sự, theo đó đương
sự có toàn quyền trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu. Tại phiên tòa việc thay đổi
yêu cầu của đương sự chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu (Khoản 1 Điều 218). Mọi
yêu cầu thay đổi, bổ sung theo hướng bất lợi cho các đương sự khác đều không
được hội đồng xét xử chấp nhận.
* Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc rút yêu cầu:
Các đương sự không chỉ có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu mà còn có
quyền rút yêu cầu. Việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố
tụng đều có thể được Tòa án chấp nhận. Về mặt nguyên tắc đương sự có quyền rút
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, theo quy định
4


của pháp luật TTDS hiện hành thì trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc
thẩm, đối với việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện phải được sự đồng ý của bị đơn.
1.3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu kháng cáo.
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật trong việc chống lại bản án, quyết định của
tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật yêu cầu tòa án cấp trên xét xử lại
vụ án dân sự. Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự được
quy định tại điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Theo quy định của pháp luật thì
đương sự được tự quyết định việc thực hiện quyền này nên quyền kháng cáo cũng
thuộc nội dung quyền tự định đoạt của đương sự. Với ý nghĩa là một quyền của
đương sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng đã quy định rất rõ thời hạn kháng cáo

của đương sự, tại Điều 245 BLTTDS. Ngoài việc quy định đương sự có quyền kháng
cáo thì pháp luật cũng quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo,theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTDS.
1.4. Quyền tự định đoạt của đương sự về nội dung hòa giải và tự hòa giải.
Trong tố tụng dân sự, hòa giải là thủ tục có ý nghĩa quan trọng nhằm giúp
đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau trong quá trình giải quyết vụ án và phải do
chính các đương sự thực hiện bởi các đương sự là những người có quyền lợi đang
bị xâm hại hoặc tranh chấp. Do đó, chỉ có đương sự mới có quyền hòa giải với
nhau về tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ án bằng chính ý chí và
sự tự nguyện của mình. Việc tiến hành hòa giải phải theo nguyên tắc được quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 180 BLTTDS, và Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có
trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này”.Trong quá trình hòa giải tòa án giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Mặc dù tòa
án không có quyền thỏa thuận vì không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật nội
dung được giải quyết nhưng kết quả hòa giải phụ thuộc rất lớn vào tòa án. Đối với
việc hòa giải ở cấp sơ thẩm, trước khi mở phiên tòa thì hòa giải là một thủ tục tố
tụng bắt buộc đối với những loại việc mà pháp luật quy định phải hòa giải trừ
trường hợp những vụ án dân sự không được hòa giải quy định tại Điều 181
BLTTDS và những vụ án không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 182
BLTTDS.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thể
hiện ở quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền tự thỏa
thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án
mà không thông qua tòa án, trong trường hợp này tòa án không phải là người chủ
động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự thỏa thuận với nhau.
1.5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra chứng cứ, bổ sung
chứng cứ, quyền cử người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
* Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra chứng cứ, bổ sung chứng cứ:

5


Cùng với việc đề ra yêu cầu các đương sự có quyền và nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của họ. Luật TTDS quy dịnh, các đương sự có
quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đương sự là người có yêu cầu có quyền đưa ra chứng cứ và ngược
lại đương sự là người phải trả lời yêu cầu của đương sự phía bên kia cũng có
quyền đưa ra chứng cứ để làm cơ sở cho việc phản đối yêu cầu mà phía bên kia đã
đưa ra. Do đó, quyền đưa ra chứng cứ, quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng
cứ của đương sự còn là một bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự quyết định
của mình trong việc rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện. Tòa án với tư cách là cơ quan
xét xử không được ngăn cấm đương sự trong việc cung cấp chứng cứ.
* Quyền cử người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đương sự có thể tự mình,
bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Đương sự cũng có
thể cử người đại diện thay mặt mình để bảo vệ quyền và nghĩa vụ lợi ích trước
Tòa án. Đương sự có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác một phần hoặc
toàn bộ các quyền của mình trong tố tụng. Mặc dù, đương sự đã ủy quyền cho
người đại diện nhưng đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho
hoạt động của người đại diện . Việc ủy quyền cho luật sư hoặc người khác tham
gia tố tụng, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự. Hay việc thay đổi,
chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự của họ cũng do hai bên
quyết định. Đây là một biểu hiện của quyền tự định đoạt của đương sự được pháp
luật tôn trọng.
Ngoài ra, quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện ở việc đương
sự có quyền tham gia phiên tòa để từ đó có điều kiện thực hiện quyền tự định đoạt
của mình. Đồng thời đương sự cũng có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người tiến
hành TTDS. Trong trường hợp họ không biết để yêu cầu thay đổi thì Tòa án có
trách nhiệm bảo đảm để những người tiến hành tố tụng từ chối tham gia tố tụng.

1.6. Quyền tự định đoạt của đương sự trong giai đoạn thi hành án.
Thi hành án là giai đoạn kết thúc của quá trình bảo vệ quyền lợi của đương
sự. Quyền tự định đoạt của đương sự không những thể hiện trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự mà nó còn thể hiện ở quá trình thi hành án. Quyền tự định đoạt
của đương sự trong giai đoạn thi hành án, trước hết thể hiện ở quyền yêu cầu thi
hành án. Đương sự là người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án ra quyết định thi hành án, đây là một quyền của đương sự thể hiện quyền tự
định đoạt của mình. Ngoài ra, đương sự còn được định đoạt trong việc yêu cầu
hoãn thi hành án, yêu cầu tạm đình chỉ việc thi hành án, yêu cầu đình chỉ việc thi
hành án.
2. Trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự.
Bên cạnh quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng,
quyết định quyền và lợi ích của mình trong TTDS thì BLTTDS cũng có quy định rõ
về trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS. Điều 5 BLTTDS quy định: Tòa án chỉ được
6


quyền thụ lí giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương
sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu của đương sự. Nếu như
không có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự thì tòa án không được phép
thụ lí, giải quyết bất kì vụ việc nào. Quy định trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng
luôn luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự hoàn toàn dựa trên sự định đoạt của đương sự.Trách nhiệm của Tòa án
trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể
hiện ở phương diện Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự
(bao gồm cả yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và yêu cầu kháng
cáo), không được giải quyết thiếu hay vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Từ
đó đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong

TTDS trên thực tế.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS và một số kiến nghị.
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về nguyên tắc.
1.1.Thành tựu đạt được.
Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây cho thấy nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự ngày càng được quan tâm. Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, tòa án đều đảm bảo cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các
quyền và nghĩa vụ TTDS của mình bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS nên trên thực tế nguyên tắc này đã được
thực hiện khá tốt. Đương sự đã chủ động hơn trong việc thực hiện quyền tự định
đoạt của mình khi họ có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Về cơ bản các tòa án đã
thực hiện tốt nguyên tắc này, xét xử trên cơ sở yêu cầu của đương sự, cũng không
vượt quá yêu cầu của đương sự. Tòa án đã thực sự phát huy được vai trò của mình
đối với việc thực hiện nguyên tắc này.
1.2. Những tồn tại, hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu việc thực hiện các quy định của pháp luật
TTDS về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong thời gian qua vẫn còn
bộc lộ những hạn chế nhất định. Những hạn chế này thể hiện trong cả các quy định
của pháp luật và hoạt động tố tụng trên thực tiễn của các đương sự và Tòa án.
- Về pháp luật TTDS: Một số quy định của pháp luật còn chưa hợp lý, có sự mâu
thuẫn, chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho quá
trình thực hiện nên trong một số trường hợp chưa đảm bảo được quyền tự định
đoạt của đương sự. Một số quy định không phù hợp với thực tiễn, nhiều thủ tục
còn chưa được pháp luật quy định một cách cụ thể khiến các Tòa, các Thẩm phán
trong quá trình áp dụng còn nhiều lúng túng, làm ảnh hưởng đến quyền tự định
đoạt của đương sự.
- Pháp luật TTDS nước ta hiện nay mới chỉ có quy định về đương sự trong vụ
án dân sự (Điều 56 BLTTDS) mà chưa có quy định về đương sự trong việc dân sự,
cụ thể là chưa có quy định về “người yêu cầu” và “người bị yêu cầu”. Sự thiếu hụt

này đã gây không ít khó khăn cho đương sự trong vụ việc dân sự khi họ tham gia
vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
7


- Pháp luật tố tụng hiện nay chưa quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nên việc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn nhiều vướng mắc.
- Việc quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại giai đoạn phúc thẩm phải hỏi
ý kiến của bị đơn là không bảo đảm được quyền tự định đoạt của đương sự.
- Hiện nay, BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và các việc
dân sự khác nhau, nhưng BLTTDS không quy định thủ tục chuyển hóa quá trình
giải quyết giữa các vụ việc dân sự dẫn đến việc phức tạp hóa quá trình giải quyết
các vụ việc cụ thể và gây khó khăn cho đương sự trong việc định đoạt việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Về quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự, hiện nay, một số quy định của
BLTTDS còn mâu thuẫn và chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện các quyền,
nghĩa vụ này không thống nhất.
* Về mặt thực hiện pháp luật:
Việc thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn
chế nhất định. Những hạn chế này thể hiện cả trong hoạt động TTDS của các
đương sự và Tòa án. Về phía đương sự do không hiểu biết đầy đủ các quy định của
pháp luật nên không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS của mình. Về
phía Tòa án, do đội ngũ Thẩm phán còn thiếu và nhiều Thẩm phán còn yếu cả về
năng lực chuyên môn nghiệp vụ nên còn có những sai sót, vi phạm pháp luật trong
giải quyết vụ án.
- Về phía các chủ thể tham gia tố tụng:
Thứ nhất, về đương sự do trình độ pháp luật còn thấp, không hiểu biết đầu đủ
các quy định của pháp luật, nên không thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ TTDS

của mình.
Thứ hai, do đội ngũ Thẩm phán còn thiếu và nhiều Thẩm phán còn kém về
mặt đạo đức, yếu về cả năng lực chuyên môn nghiệp vụ nên còn có những sai sót,
vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Một số Thẩm phán chưa nắm chắc
những quy dịnh của pháp luật nên đôi khi tiến hành giải quyết vụ án theo thói
quen và kinh nghiệm. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Bên cạnh đó, việc Tòa án xác định
chưa đúng hoặc bỏ sót đương sự trong vụ án dẫn đến việc các đương sự không
được tham gia tố tụng hay như tòa án không xem xét hết yêu cầu của đương sự
cũng là một trong các dạng vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
Về phía các cơ quan tổ chức xã hội, có thể thấy các cơ quan tổ chức này cũng chưa
làm tròn hết được vai trò và trách nhiệm của mình. Theo quy định của pháp luật
một số các cơ quan tổ chức có thẩm quyền có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước. Nhưng thực tế cho thấy, chưa có một cơ quan hay tổ chức nào thực hiện
quyền khởi kiện này, mặc dù các cơ quan, tổ chức này có quyền khởi kiện cho quy
định mang tính lý thuyết này.
8


2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS.
* Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật:
Sau một thời gian thực hiện BLTTDS cho thấy vẫn còn những vướng mắc,
trong đó có cả những vấn đề về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Vì
vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn một số quy định của BLTTDS.
Một là, sửa đổi, bổ sung các quy định về khái niệm đương sự trong vụ việc
dân sự. Việc quy định đầy đủ, rõ ràng những vấn đề liên quan đến đương sự không
những bảo đảm cho họ có điều kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà
còn bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án được đúng đắn.Cụ thể,

cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 56 BLTTDS theo hướng quy định bổ sung các đương
sự trong việc dân sự cũng như quy định các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ như
các đương sự trong vụ án dân sự.
Hai là, quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và
nghĩa vụ tố tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau.
Ba là, không nên quy định về trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện
trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị
đơn. Vì như vậy là hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự và mâu thuẫn với quy
định tại Điều 5. Do vậy cần sửa đổi Điều 269 theo hướng cho đương sự thực hiện
tốt nhất quyền tự định đoạt của mình trong TTDS. Nếu bị đơn thấy việc nguyên
đơn có khởi kiện rồi lại rút đơn khởi kiện mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân
phẩm hoặc với tài sản thì họ có quyền khởi kiện nguyên đơn bồi thường thiệt hại.
Bốn là, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự và việc dân sự. Mặc dù hiện nay BLTTDS quy định việc giải quyết vụ
án dân sự và việc dân sự theo các thủ tục khác nhau, nhưng lại không có quy định
chuyển hóa giữa hai thủ tục nên đã gây không ít khó khăn cho đương sự trong
việc tham gia tố tụng, trong đó có cả việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương
sự. Vì vậy cần phải sửa đổi thủ tục giải quyết các loại việc này theo hướng quy
định thủ tục chuyển hóa việc giải quyết vụ án dân sự sang việc dân sự và ngược lại
để đẩy nhanh việc giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm việc thực hiện quyền tự
định đoạt của đương sự.
* Về nâng cao năng lực xét xử của thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật.
Việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự vừa phụ thuộc
vào Tòa án vừa phụ thuộc vào đương sự. Vì thế vừa phải nâng cao năng lực xét xử
của thẩm phán vừa phải đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật để nâng
cao nhận thức pháp luật cho các đương sự. Thứ nhất, cần nâng cao năng lực xét
xử của Thẩm phán. Tòa án là cơ quan xét xử có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực
hiện được quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Đương sự có thực hiện

được quyền tự định đoạt trên thực tế hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào
Tòa án. Tuy vậy, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của nhiều thẩm phán còn thiếu
nên còn có những sai sót trong việc giải quyết vụ việc ảnh hưởng đến quyền tự
9


định đoạt của đương sự. Vì vậy mà việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của tòa
án, nâng cao trình độ xét xử, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm
phán là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
pháp luật. Có như vậy mới có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Điều
này cũng góp phần làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật
và đảm bảo quyền tự định đoạt của mình trong quá trình tham gia tố tụng.

KẾT LUẬN
Qua sự phân tích trên, có thể thấy nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự đã
được quy định khá cụ thể trong BLTTDS. Để nguyên tắc này được thực hiện hiệu
quả trong TTDS thì phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS trong đó có
các quy định liên quan đến nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS. Đồng thời phải không ngừng đổi mới về tổ chức và cán bộ của Tòa án và
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tố tụng trong nhân
dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tung dân sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009;
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011);
3. Bộ luật dân sự năm 2005;
4. Hiến pháp năm 1992;
5. Nguyễn Ngọc Khánh, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
BLTTDS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2005;

6. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội, 2011;
7. Nguyễn Nữ Giang Anh, Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sư trong
TTDS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010;
8. Nguyễn Tiến Trung, Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS, Luận văn
thạc sĩ luật học, Hà Nội, 1997;
9. .

10



×