Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đoàn kết QUỐC tế và sự vận DỤNG TRONG tư DUY đối NGOẠI của ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.71 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh, cùng với chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng (6/1991) khẳng định: " Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng".
Đảng ta chỉ rõ: "tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tạo điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc". Trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết toàn quốc tế có vị trí đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế, khu vực có sự vận động,biến đổi khó
lường. Đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế gia tăng, đặt ra không
một quốc gia nào có thể phát triển mà lại không mở rộng quan hệ, đoàn kết,
hợp tác với các nước khác. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát triển bền vững và nâng cao vị
thế của mình trên trường quốc tế, một trong những vấn đề quan trọng là phải
mở rộng đoàn kết hợp tác theo tinh thần " là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới ".
Chính vì vậy lựa chọn nội dung: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế và sự vận dụng trong tư duy đối ngoại của Đảng ta hiện nay" làm chủ
đề tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn.


NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế và những hoạt động
đoàn kết quốc tế trong thực tiễn của Hồ Chí Minh
* Những nhân tố hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.


Một là xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt
có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch
sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu
nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất,
nhân ái khoan dung.
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử của dân
tộc Việt Nam, đó cũng là nguồn sức mạnh thúc giục người thanh niên Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Lúc đầu,
chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo
Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu nước của dân tộc được
Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên con đường
bôn ba khắp năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao động trên
thế giới, đến với tình hữu ái vô sản và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đến với
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Tinh thần đoàn kết, tương ái, sống gắn bó trong tình làng nghĩa xóm,
tối lửa tắt đèn có nhau của người Việt Nam tạo thành sức mạnh đoàn kết của
dân tộc, và đó cũng cái nôi để hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế, phấn đấu
vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển trong con người Hồ Chí Minh
Ngoại giao truyền thống Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng
hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Lịch sử dựng nước và
giữ nước cha ông ta luôn phấn đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình,
đúng như nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất
nước: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”.
Hai là, xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết
2


quốc tế.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập đến đoàn kết quốc tế của giai cấp vô

sản như là một điều kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân. Sau khi Nguyễn Ái Quốc bắt gặp luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa. Người khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, gắn chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920)
Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng ra nhập Quốc tế III, trở thành
một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc làm đó,
Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế. Từ đoàn kết các dân
tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc và giai cấp
vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết những bài tham luận, phát biểu trong
các kỳ sinh hoạt đảng và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia
lãnh đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ….
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận
đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức với sự
tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những hẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác Lênin: “Lao động tất cả các nước đoàn kết lại” 1 và người khẳng định, chính
Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô sản thế gới sự
cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm
vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc
* Đoàn kết quốc tế trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
- Hoạt động đoàn kết của Hồ Chí Minh trên đất Pháp
Những năm tháng hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc không chỉ dừng
1

HCM toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H2000

3



lại ở việc quan sát mà còn thực sự đi vào hoạt động. Tại Pháp, Nguyễn Ái
Quốc chủ trương cùng với một số người cộng sản Angiêri, Tuynidi, Marốc…
họp bàn thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”. Trong Tuyên ngôn của Hội đã đề
cấp đến mối quan hệ, giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa
“Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc, giai cấp tư sản trong nước các bạn đã
lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược chúng tôi. Ngày nay,
vẫn cái chính sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản các bạn lại định dùng chúng
tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn. Đứng trước chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất”2.
Tháng 12/1921 tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp tại
Mácxây, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta
mới thấy tình hữu ái mới thực sự là quyền bình đẳng, và chỉ có nó chúng ta
mới có thể thực hiện sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và các nước
thuộc địa”3. Trong bài “Mấy suy nghĩ về vấn đề thuộc địa” đăng trên báo L'
Humanité ngày 25/5/1922, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu Đảng cần thực hiện lời
chỉ dẫn quan trọng của Lênin: Nhiệm vụ của giai cấp công nhân các nước đi
chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng
ở các nước thuộc địa, phải tăng cường đoàn kết để phá tan thủ đoạn chia rẽ
của tư bản, đế quốc.
Có thể nói, hoạt động tích cực và đa dạng của Nguyễn Ái Quốc trên đất
Pháp có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Đó là thời kỳ đầu quan trọng tạo nên
sự đoàn kết nhất trí trong nhận thức cũng như trong hành động đối với giai
cấp vo sản ở chính quốc và nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa. Đó cũng
chính là bước khởi đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
- Hoạt động đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong quốc tế cộng sản
Từ năm 1921 đến 1923, hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp - một bộ
phận trong Quốc tế Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc say mê nghiên cứu lý luận
2


Chủ tịch Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, H1993

3

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, H. 1980

4


của Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt là vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Những hoạt động của Người trên đất Pháp là những đóng góp
cho Quốc tế Cộng sản. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài đề cập trên
bình diện quốc tế rộng lớn hơn gửi cho các báo cánh tả ở Pháp, báo Pravda
của Đảng Cộng sản Liên Xô, các tập san của Quốc tế Cộng sản nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong các nước thuộc địa, cung cấp cho Quốc tế
Cộng sản và các đảng cộng sản chính quốc hiểu rõ hơn về “Phương Đông
thức tỉnh” từ đó có sự hiểu biết nhau, xây dựng mối quan hệ giữa các dân tộc
thuộc địa và giai cấp vô sản phương Tây.
Trong bức thư gửi cho Pêtơrốp - Tổng thư ký ban Phương Đông của
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ “Nguyên nhân gây ra sự suy yếu
của các dân tộc Phương Đông đó là sự biệt lập”. Từ đó Người kiến nghị với
Quốc tế Cộng sản trong khi chỉ đạo chiến lược, cần chú ý đến tính đặc thù của
các dân tộc Phương Đông. Tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ngày
17/6/1924 Nguyễn Ái Quốc đã trình bày bản tham luận làm sôi nổi Đại hội,
Người nhấn mạnh: “Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và nêu lên để quốc tế thấy
rằng: Cách mạng ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa còn cả nguy cơ của
các thuộc địa. Song, tôi thấy hình như các đồng chí vẫn chưa hoàn toàn thấm
nhuần tư tưởng rằng, vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược
thuộc địa gắn chặt với vận mệnh giai cấp vô sản cấp bị áp bức ở các nước
thuộc địa”.

Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu - Trung Quốc, ở đây
Nguyễn Ái Quốc tranh thủ tìm hiểu qua tài liệu và tìm hiểu tình hình các nước
phương Đông, tìm hiểu nguyên nhân các nước này gặp khó khăn trong việc tổ
chức xây dựng lực lượng của bản thân, trong việc đoàn kết quốc tế là do sự ít
hiểu biết về vấn đề chính trị, sự đóng kín trong quan hệ quốc tế. Sau một thời
gian chuẩn bị, ngày 9/7/1925 tại Quảng Châu, Đại hội thành lập Hội được tổ
chức. Đây là tổ chức quốc tế của những người yêu nước Việt Nam, Trung
Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, Triều Tiên, Indonesia… Đại hội thông qua tôn chỉ
5


của Hội và nêu rõ: “Liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng
đánh đổ đế quốc”. Tuyên ngôn của Hội nhấn mạnh: “Con đường thoát duy
nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức
và giai cấp vô sản toàn thế giới”. Việc thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị
áp bức là sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc góp phần đoàn kết các dân tộc bị áp
bức ở châu Á nhằm đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
* Hoạt động đoàn kết quốc tế cho việc thành lập Đảng và thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 ở Cửu Long - Hồng Kông, Nguyễn
Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Các văn kiện
do Người soạn thảo đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thấm đượm sâu sắc
quan điểm dân tộc và giai cấp, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Từ giữa năm 1940, Nguyễn Ái Quốc triển khai nhiền hoạt động mang
tính quốc tế như thường xuyên liên lạc, đón nhận tin mới từ Quốc tế Cộng sản
gửi về, tổ chức gặp đại diện các Đảng cộng sản, trao đổi thời cuộc và bàn phối
hợp hoạt động giữa cách mạng các nước nhằm tranh thủ mọi lực lượng có thể
có thể đoàn kết, tạo hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam.
Mùa xuân 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước, cùng Đảng trực

tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến 19/5/1941, thay mặt Quốc
tế Cộng sản, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
VIII xác định tình hình thế giới và trong nước, thành lập “Việt Nam độc lập
đồng minh” gọi tắt là Việt Minh và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Hội nghị có
những nhận định đúng đắn về vấn đề quốc tế, đã hoàn chỉnh đường lối, chiến
lược của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sang năm 1945, Hồ Chí Minh phát hiện sự căng thẳng trong quan hệ
Mỹ - Anh, Pháp về vấn đề thuộc địa nói chung, vấn đề Đông Dương nói
riêng. Với nhãn quan chính trị sâu sắc và thực tiễn hoạt động quốc tế phong
phú, Người quyết định phải gặp Mỹ, tranh thủ Đồng Minh, thêm bạn cho cách
6


mạng Việt Nam, tiến tới giành độc lập dân tộc khi thời cơ cho phép. Bằng
việc cứu thoát viên phi công Mỹ Uyliam Sao và trao trả cho Mỹ để thể hiện
thiện chí của Việt Minh, đồng thời đặt mối quan hệ với Mỹ, tranh thủ sự giúp
đỡ của Mỹ đối với cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự kết hợp chặt chẽ những điều
kiện khách quan với điều kiện chủ quan, kết hợp những cố gắng phi thường của
nhân dân ta với chiến thắng oanh liệt của Liên Xô với các lực lượng tiến bộ trên
thế giới chống phát xít. Đó là thắng lợi của tư tưởng cách mạng kết hợp với đoàn
kết quốc tế, tự lực, tự cường và ủng hộ quốc tế của Hồ Chí Minh.
2. Một số nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
* Độc lập, tự do là mục tiêu, động lực và cơ sở của tư tưởng đoàn
kết quốc tế
Độc lập, tự do là quan điểm nhất quán, xuyên suốt cốt lõi, là cơ sở tạo
dựng chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Mác – Ăngghen đã từng
nhấn mạnh: "Trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc
khác nhau họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào
dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản" ; "Không khôi phục lại độc lập

và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực
hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác
giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích chung".
Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã làm việc quên mình cho sự
đoàn kết quốc tế rộng lớn nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do của dân tộc
Việt Nam và các dân tộc bị áp bức. Người sớm hiểu rõ, trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, cách mạng ở các nước thuộc địa tuy mang nội dung dân tộc,
dân chủ nhưng không còn thuộc phạm trù cách mạng tư sản nữa, mà đã trở
thành một bộ phận quan trọng không thể tách rời của cách mạng vô sản. Vì
thế ngay những năm 20 của thế kỷ XX, Người ra sức xây dựng mối liên minh
đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa với nhau, giữa các dân tộc thuộc địa với
giai cấp vô sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh chỉ rõ, vấn đề cơ bản, nhân tố
7


quyết định thắng lợi của cách mạng là sự kết hợp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, gắn lợi ích cách mạng một nước với lợi ích cách mạng thế
giới. Và chính Người là hiện thân của sự kết hợp đó.
Độc lập, tự do được Hồ Chí Minh đặt thành nhiệm vụ hàng đầu nhưng lại là
nhiệm vụ khó khăn nhất. Người đã kiên trì phấn đấu và đấu tranh với những quan điểm
tả khuynh. Quan điểm nay không chỉ thể hiện trí tuệ sáng suốt, tầm cao, nhìn xa trông
rộng của nhà chiến lược thiên tài, mà còn là một quyết định dũng cảm của Hồ Chí Minh
trước vận mệnh dân tộc và trước phong trào cách mạng thế giới.
Thực tế, khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Người khẳng định thời cơ
lớn chưa tới. Khi Đức tấn công Liên Xô, Người chỉ rõ: “Liên Xô và các lực
lượng dân chủ nhất định thắng lợi, đó là thời cơ cho dân tộc Việt Nam. Nhưng
điều quan trọng là phải chuẩn bị thực lực bên trong để đón thời cơ”. Khi lực
lượng Đồng Minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít, Hồ Chí Minh đã kịp thời
phát động Tổng khởi nghĩa với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải dành cho được độc lập dân tộc”. Thắng lợi của Cách mạng

Tháng tám là thắng lợi của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của
Hồ Chí Minh và cũng là thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Độc lập, tự do là động lực, mục tiêu, lý tưởng, là cơ sở của chiến lược
đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh, một chiến lược tổng hòa, biện chứng mối quan
hệ dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH đầy
sang tạo và năng động cách mạng, kết thành hạt nhân sáng chói có giá trị
trường tồn đối với dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới.
* Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, từ thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thấy sự cần thiết phải
liên minh, đoàn kết chặt chẽ không những giữa các dân tộc thuộc địa mà còn
giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở
chính quốc hay cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc. Người ví chủ nghĩa đế quốc như con đỉa 2 vòi, nếu chỉ cắt 1
8


vòi, cái vòi kia tiếp tục hút máu và cái vòi bị cắt sẽ tiếp tục mọc ra. Cho nên,
muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì nhân dân bị áp bức ở thuộc địa và giai
cấp công nhân, nhân dân lao động ở chính quốc phải đoàn kết, phối hợp hành
động, cắt đứt cả 2 cái vòi của “con đỉa”. Người đã viết: “Cách mệnh An Nam
cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới
đều là đồng chí của An Nam cả”. Người còn vạch rõ: “Chúng ta làm cách
mạng thì cũng phải liên lạc với tất cả các Đảng cách mạng trên thế giới để
chống lại Tư bản và Đế quốc chủ nghĩa”. Trong khi đặt cách mạng thuộc địa
trong mối quan hệ mật thiết với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh tính chủ động và khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc
địa, trở thành sự cổ vũ, ủng hộ to lớn đối với cách mạng chính quốc.
Với tầm nhìn chiến lược, Người cho rằng thuộc địa là khâu yếu nhất của
chủ nghĩa đế quốc, nơi tập trung những mâu thuẫn của thời đại. Vì thế, cách mạng

vô sản không nhất thiết phải nổ ra ở chính quốc mà có thể nổ ra từ các nước thuộc
địa. Người phân tích “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy thuộc phần lớn
vào các nước thuộc địa”, “Tất cả các sinh lực của chủ nghĩa đế quốc đếu lấy ở các
xứ thuộc địa”. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ “Việt Nam dân
tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Từ nhận thức tính chất thời đại của mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa
và cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của cách mạng
thuộc địa và vai trò của nó đối với cách mạng ở chính quốc. Đây là luận điểm
đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh, bởi lúc này Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng
sản ở châu Âu cho rằng, thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và
các nước thuộc địa giành độc lập trong thế kỷ XX đã chứng minh luận điểm của
Người được nêu ra từ năm 1921 là rất đúng đắn và sáng tạo.
Xác định cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới,
Hồ Chí Minh nêu rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
9


mạng XHCN thì mới thắng lợi hoàn toàn”, vì chỉ có CNXH mới đảm bảo cho
các dân tộc được độc lập, tự do thực sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chỉ
có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ”. Tiên đoán về thắng
lợi sớm của cách mạng thuộc địa so với cách mạng chính quốc được tiến trình
lịch sử của thời đại khẳng định. Nhiều dân tộc thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa
thực dân giành độc lập và tiến lên con đường XHCN, trong khi ở các nước tư
bản giai cấp vô sản đang phải tìm con đường phù hợp để tiến đến con đường
mục tiêu đặt ra.
* Độc lập, tự chủ, tự cường gắn với đoàn kết quốc tế
Trong khi hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết quốc tế và khẳng

định sự cần thiết của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh đã xác định vai trò quyết
định nhất vẫn là sự nỗ lực chủ quan của cách mạng mỗi nước. Người nhấn
mạnh: “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, mà phải: “Đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta” là phương thức, là động lực chủ yếu để phát triển cách mạng
nước ta. Người coi tự lực tự cường là “Cái gốc”, là “Cái điểm mấu chốt” của
mọi chính sách và sách lược.
Độc lập, tự chủ nhằm đảm bào lợi ích dân tộc, thực hiện các quyền dân
tộc cơ bản. Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực tự cường hoàn toàn xa lạ với sự
biệt lập và chủ nghĩa biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình
gấp nhiều lần, Hồ Chí Minh luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ
sự hợp tác quốc tế, Người coi đây là vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong
đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là
tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc
tế, tăng thêm khả năng tự lực tự cường, tạo điều kiện chuyển biến tương quan
lực lượng có lợi cho cách mạng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự hợp tác toàn diện trong phe CNXH và tăng
cường sức mạnh vật chất của các nước XHCN là yếu tố quyết định để ngăn
10


chặn nguy cơ chiến tranh, thúc đẩy sự tiến bộ và củng cố độc lập dân tộc ở
các nước vừa thoát khỏi chủ nghĩa thực dân. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng
chủ trương mở rộng hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau.
Người khẳng định, Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ kinh tế, buôn bán,
văn hóa với các nước như: Pháp, Nhật Bản… Trong khi coi “cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới”, Người căn dặn đội ngũ cán bộ
làm công tác đối ngoại: “Phải làm cho đúng đường lối và chính sách Đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta… Tăng cường đoàn kết hữu nghị với các
nước XHCN, với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân thế giới… Vì lợi ích của

hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội”.
* Đoàn kết quốc tế theo tinh thần: "Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước"
Tư tưởng này của Người được thể hiện rõ trong dịp trả lời phỏng vấn
báo chí nước ngoài (năm 1947): Việt Nam mong muốn: "làm bạn với tất cả
các nước dân chủ không gây thù oán với một ai" 4. Năm 1949, trả lời phỏng
vấn một nhà báo người Mỹ hỏi: Sau khi đã độc lập, Việt Nam có hoan nghênh
tư bản ngoại quốc không? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: Bất kỳ nước nào
thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi
cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến
để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt.
Ngay đối với nước Pháp, nước đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Việt Nam sẵn sang hợp
tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân,
thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ
được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”. Sau năm
1945 nhiều lần Người đã tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì
chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để
4

Hồ Chí Minh toàn tập( tập 5), Nxb chính trị quốc gia, H1995,Tr.220

11


giữ gìn hòa bình”. “Thái độ của Việt Nam đối với những nước Á châu là một
thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Có thể xem những
tuyên bố trên đây là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm đa dạng hóa, đã
phương hóa, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
* Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại

Xuất phát từ nhận thức cách mạng Việt Nam và thế giới có mối quan hệ
thống nhất biện chứng, Hồ Chí Minh cho rằng việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là một tất yếu, một cơ sở tạo ra sức mạnh lớn nhất cho
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và cũng tạo cho Việt Nam góp phần
xứng đáng vào tiến trình phát triển của nhân loại. Sinh thời, trong mọi hoàn
cảnh, Người đều tìm ra phương thức, biện pháp để gắn cách mạng Việt Nam
và phong trào tiến bộ trên thế giới.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền
thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, là sức mạnh của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết
tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, làm cho Việt Nam sánh vai với
các nước trên thế giới. Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ
vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Sức mạnh của thời đại là sức mạnh đoàn kết quốc tế của giai cấp công
nhân, là sức mạnh của sự kết hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế, là tình đoàn kết chiến đấu giữa các đảng cộng sản, các phong
trào và các lực lượng cách mạng trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Sức mạnh thời đại còn là sự thực hiện quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau. Sức mạnh của thời đại luôn mang nội dung mới, phản ánh sự phát triển
của lịch sử và quá trình vận động của chính trị thế giới.
Thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ Chí
Minh luôn đặt cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng mỗi nước trong tình
hình nhiệm vụ chung của cách mạng thế giới và tác động qua lại giữa chúng.
Mặt khác, Người xác định rõ vị trí, nhiệm vụ của cách mạng dân tộc với cách
12


mạng thế giới: cách mạng dân tộc không chỉ để giành thắng lợi cho riêng
mình mà còn góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân thế giới. Trong quá

trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh đến vấn đề phải biết dựa vào sức mình là chính. Chỉ như vậy mới
giữ được độc lập, tự chủ, mới chủ động, sáng suốt trong hoạt động quốc tế để
phân định rõ Bạn - Thù, cảnh giác với những âm mưu phá hoại núp dưới danh
nghĩa “giúp đỡ”, “nhân đạo”, “hữu nghị”.
Theo Hồ Chí Minh muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, các đảng cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai
lầm chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh… Những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lượng cách
mạng thế giới.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan
hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay
Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay
được xác định và thực hiện với tư cách là một bộ phận của chiến lược xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, làm cầu nối nước ta với thế giới, gắn sự
nghiệp của toàn thể dân tộc ta với trào lưu phát triển và tiến bộ của thời đại.
Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế được
vận dụng trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trong
chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN
trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên bình diện chung, nhất là sau đổi mới Việt Nam đã xây dựng và phát
triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Không ngừng mở rộng,
củng cố quan hệ với các nước và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Hoạt
động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay đã triển khai một
cách tích cực, chủ động và giành được những thắng lợi quan trọng.
Chúng ta đã không ngừng củng cố và phát triển quan hệ với các Đảng
Cộng sản và công nhân, các Đảng cánh tả, phong trào độc lập dân tộc và các
13



lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, từng bước mở rộng quan hệ với các
tổ chức chính trị, Đảng cầm quyền ở các nước trong khu vực và trên thế giới,
tạo điều kiện thúc đẩy và phát triển quan hệ về mặt nhà nước với các quốc
gia, vùng, lãnh thổ và các tổ chức trên thế giới.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (tháng 7/1995)
đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông
Nam Á. Tăng cường quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào, duy trì quan hệ láng giềng, hữu nghị với Campuchia
Sau khi Việt Nam và Trung Quốc ký tuyên bố bình thường hóa quan hệ
giữa hai Đảng hai nhà nước (11/1991), chúng ta xây dựng mối quan hệ chiến
lược ổn định, lâu dài, hữu nghị, láng giềng thân thiện với Trung Quốc; Củng
cố tình đoàn kết với Cuba; Thúc đẩy quan hệ với cộng hòa dân chủ nhân dân
Triều Tiên; Tăng cường hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ
và mở rộng hợp tác với khu vực Nam Á.
Xác lập quan hệ với các nước lớn, Xây dưng quan hệ đối tác chiến lược
với Liên bang Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây; đã bình
thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ (tháng 7/1995) và xây dựng mối quan
hệ đối tác toàn diện; Đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản nhằm
khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực của Nhật Bản. Chúng ta đã quan hệ
với Canada, Ôxtraylia, Niudilân và các nước công nghiệp với nhằm tranh thủ
vốn, kỹ thuật, công nghệ cho phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta đã ký hiệp
định khung về hợp tác giữa Việt Nam với EU (tháng 7/1995), chính thức
tham gia hiệp định hợp tác ASEAN - EU, cải thiện quan hệ với các nước Tây
Âu, Bắc Âu để tranh thủ ưu đãi mà EU dành cho các nước ASEAN. Đặc biệt,
Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên
sáng lập, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) (tháng 12/2006),
không những tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương
mại, thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học, công nghệ và tận dụng những ưu
đãi về thương mại với các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực, mà
14



còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, chúng ta đã mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân từ các tổ
chức chính trị - xã hội như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông
dân, Hội cựu chiến binh và các Hội hữu nghị. Đối ngoại nhân dân tiếp tục phát
huy vai trò cầu nối hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, các tổ chức
phi chính phủ. Ngoại giao nhân dân đã thể hiện một cách sinh động đoàn kết quốc
tế của Hồ Chí Minh cũng như đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa
của Đảng và Nhà nước ta, góp phần vào việc tăng cường đoàn kết và sự hiểu biết
lẫn nhau giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới.
Thực tế cho thấy, sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập vào
khhu vực và quốc tế, Việt Nam đã thể hiện là một tấm gương ổn định về chính trị,
phát triển về kinh tế và đánh dấu bước đầu thành công của sự hội nhập. Trong những
năm vừa qua, Việt Nam từng đón nhiều đoàn khách quốc tế của các nước đang phát
triển đến để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Phát triển kinh tế và hội nhập thành công
của Việt Nam được bạn bè trên thế giới tiếp tục bày tỏ sự khâm phục và tôn trọng vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việt Nam có vai trò quan trọng và tích cực trong việc đoàn kết, giữ
vững an ninh của khu vực Đông Nam Á. Kể từ khi chính thức là thành viên
của ASEAN, Việt Nam đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự liên kết của
hiệp hội, đặc biệt trên lĩnh vực an ninh. Trải qua các kỳ họp cấp cao, Việt Nam đã
có những đóng góp to lớn trong việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
nước trong hiệp hội cũng như các nước lớn là bên đối tác. Thực hiện ngoại giao
phòng ngừa đem lại sự ổn định, an ninh cho khu vực này. Các nước trong khu vực
và các đối tác đã đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong việc duy trì an ninh của
khu vực, đặc biệt là trong việc giải quyết xong vấn đề cơ bản về biên giới trên bộ,
trên biển với Trung Quốc và Campuchia. Việt Nam đã chủ động đưa ra “Bộ ứng xử
biển Đông”, được các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua tại diễn đàn an ninh
chính trị ARS (tháng 9/2002) là một trong những thành công lớn của ngoại giao

công tác phòng ngừa, giữ gìn an ninh khu vực.
15


Việt Nam là thành viên hoạt động tích cực nhất trong các tổ chức quốc
tế, các nước đang phát triển, đấu tranh, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc. Là
một thành viên không chính thức của phong trào không liên kết (tháng
9/1976), Việt Nam đã có nhiều nỗ lực hoạt động nhằm thúc đẩy sự đoàn kết,
phấn đấu vì mục tiêu của phong trào. Việt Nam đã trở thành biểu tượng cho
tinh thần bất khuất của một dân tộc nhỏ yếu trước những đế quốc hùng mạnh
bằng thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc.
Việt Nam đã trở thành tấm gương sáng ngời, cổ vũ khích lệ mạnh mẽ các dân
tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột vùng lên đấu tranh để tự giải phóng bản thân
mình, làm chủ vận mệnh mình.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam là một trong những điểm
sáng mới, một trong những mô hình phát triển có hiệu quả để các nước tham
khảo. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam đã nêu ra những bài học kinh nghiệm về
sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, về kinh
nghiệm xóa đói giảm nghèo… cho các nước trong phong trào không liên kết.
Việt Nam đã đề xuất đóng góp nhiều kinh nghiệm, sáng kiến nhằm tăng
cường hợp tác giữa các nước đang phát triển, thúc đẩy hợp tác đấu tranh với
các phát triển, để các nước này dành nhiều ưu đãi và viện trợ cần thiết cho các
nước đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước và vùng
lãnh thổ , hơn 200 Đảng phái chính trị và hang trăm tổ chức phi chính phủ.
Góp phần nâng cao vị thế nước tá trên trường quốc tế.
Với những thành tựu đạt được, trên cơ sở kế thừa, bổ xung, phát triển tư duy đối
ngoại của các kỳ Đại hội trước gắn với tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đại
hội XI tiếp tục khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ

động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình,
16


độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”5.
Nội dung phát triển đường lối đối ngoại của Đảng trong nghị quyết Đại
hội lần thứ XI thể hiện cụ thể ở những nội dung chính sau:
- Mục tiêu công tác đối ngoại: Cương lĩnh và Báo cáo chính trị Đại hội
XI của Đảng đã nêu rõ mục tiêu công tác đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia dân
tộc; vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh”6.
- Nhiệm vụ công tác đối ngoại: Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng
định là: “giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”7.
Điểm mới về nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XI
so nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong văn kiện Đại hội X là xác định nhiệm vụ
nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới là phục vụ các
mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và “nâng cao vị thế đất nước”. Nhiệm vụ đối
ngoại này cho thấy rõ yêu cầu và vai trò quan trọng của công tác đối ngoại đó là giữ
vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; phải đáp ứng những phát triển mới của tình hình đất nước trong bối cảnh hội
nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với những thuận lợi và những khó khăn thách
thức mới. Đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của công tác đối ngoại trong
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại là: độc lập, thống nhất, CNXH,

đồng thời phải rất sáng tạo, linh hoạt, năng động, phù hợp với vị thế, điều
kiện và hoàn cảnh nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu
vực với đặc điểm từng đối tượng quan hệ.
- Các nguyên tắc hoạt động công tác đối ngoại:
5

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (bổ sung, phát triển 2011), Nxb
CTQG, H, tr.83
6
Sdd, tr.83.
7
Sdd, tr.236.
17


+ “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển” trên cơ sở “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”8 đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
+ Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, Đại hội XI của Đảng còn nêu thêm nguyên
tắc: Giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm
lục địa với các nước liên quan trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực - DOC”9.
Đây là sự bổ sung mới của Đảng ta trước những diễn biến mới của tình hình
khu vực Đông Nam Á, nhất là sự tranh chấp chủ quyền biển Đông hiện nay, đồng
thời khẳng định sự tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc ứng xử chung của khu vực.
- Phương châm chỉ đạo hoạt động công tác đối ngoại:
Trên cơ sở kiên trì bốn phương châm xử lý các vấn đề đối ngoại được
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII. Điểm mới phương châm đối ngoại trong

văn kiện Đại hội XI nêu lên là: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; “và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.Có thể hiểu phương
châm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; “và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế” của Đảng trên những nội dung cơ bản sau:
+ Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế: Với chủ trương này, nội hàm
của hội nhập quốc tế không còn bó hẹp ở lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất
cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đồng thời mang những nội dung mới, thể hiện:

8

Sdd, tr.236.
Sdd, tr.237. DOC- “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” giữa các nước ASEAN với Trung
Quốc năm 2002. Tuyên bố này tuy không mang tình ràng buộc pháp lý nhưng là một bước tiến trong việc
giải quyết hòa bình các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các bên ở biển Đông.
COC- “Bộ quy tắc về ứng xử ở biển Đông” là những quy định rành buộc mang tính pháp lý từ DOC, hiện
nay các nước ASEAN đang nổ lực đám phán cùng Trung Quốc tiến tới xây dựng Bộ quy tắc này.
9

18


> Thứ nhất, chủ động hội nhập quốc tế là tự mình quyết định hành
động, không vì ảnh hưởng hoặc chịu sự chi phối của đối tác khác hay là của
hoàn cảnh.
> Thứ hai, lộ trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là chủ động, tích
cực triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế mạnh mẽ, toàn diện trên mọi
lĩnh vực trên cơ sở phát huy nội lực, xây dựng lực lượng, tạo lập thế trận quốc
phòng - an ninh, xác định bước đi phù hợp, đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế.

> Thứ ba, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế kết hợp chặt
chẽ với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, giữ vững chủ quyền và an
ninh đất nước.
> Thứ tư, “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập quốc tế”10.
> Thứ năm, chủ động và tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức
khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống...; với quan điểm: “Chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất
bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định
chính trị của Việt Nam” 11.
- Là thành viên có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế
Đây là bước phát triển mới trong tư duy đối ngoại của Đảng, khẳng định việc
Việt Nam không chỉ tham gia tích cực mà còn đóng vai trò là “thành viên có trách
nhiệm trước cộng đồng quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình và phát triển bền vững.
- Phương hướng hoạt động đối ngoại: Đại hội XI của Đảng xác định:
+ Triển khai toàn diện và đồng bộ, hiệu quả các hoạt động đối ngoại,
tiếp tục đưa các mối QHQT vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
10
11

Sdd, tr.236.
Sdd, tr.236.
19


+ Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa
phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, Hiến chương LHQ.

+ Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế
trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, những
vấn đề có liên quan đến dân chủ, nhân quyền.
+ Chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động can
thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
+ Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ,
ranh giới biển và thềm lục địa giữa nước ta với các nước có liên quan.
Đây là lần đầu tiên Văn kiện Đại hội Đảng có một định hướng riêng
giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ và xây dựng, phát triển
tuyến biên giới với các nước láng giềng. Định hướng này chỉ rõ: Ưu tiên
hàng đầu trong tiển khai công tác đối ngoại là tập trung thúc đẩy giải quyết các
vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ giữa nước ta với các nước có liên quan.
Làm tốt công tác quản lý biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; tích cực cùng với các nước có chung biên giới xây
dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Lực lượng tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại trên không chỉ là trách
nhiệm của ngành ngoại giao nhà nước mà là trách nhiệm của cả hoạt động đối
ngoại Đảng, đối ngoại quốc phòng, an ninh đối ngoại, ngoại giao nhân dân và
cả hệ thống chính trị.
Cơ sở để giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ là các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử ở khu vực.
* Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
- Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng
(Lào,Campuchia, Trung Quốc) và khu vực.

20


+ Lào, Campuchia là địa bàn chiến lược sống còn đối với Việt Nam

trên tất cả các lĩnh vực, nhất là chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Lịch
sử chứng minh: Lào, Campuchia hòa bình, ổn định, phát triển, có quan hữu
nghị và hợp tác toàn diện với VN là lợi ích chiến lược lâu dài của VN để “nội
yên - ngoại tĩnh”. Chính sách quan hệ VN - Lào - CPC hiện nay: Tôn trọng
độc lập, chủ quyền... trên cơ sở luật pháp quốc tế và lợi ích của nhau.
+ Xây dựng cộng đồng ASEAN
+ XD đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển
+ Giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển
và thềm lục địa đối với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế, quy
tắc ứng xử của khu vực và bằng biện pháp hoà bình, thông qua đàm phán
+ Tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng
trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Tăng cường củng cố quan hệ với các nước anh em, bạn bè truyền thống
- Coi trọng, mở rộng quan hệ với các nước phát triển, các nước lớn, các
trung tâm kinh tế, chính trị trên thế giới, trên nguyên tắc cơ bản của QHQT.
- Đoàn kết, mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển, phong trào
không liên kết.
- Mở rộng quan hệ với các đảng phái chính trị, các lực lượng chính trị
trên thế giới trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, vì
hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
- Mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương, song phương; tích
cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong đối phó với
những thách thức an ninh phi truyền thống, với vấn đề toàn cầu; sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế, khu vực có liên quan về vấn đề dân
chủ, nhân quyền.

21


KẾT LUẬN

Suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã có nhiều cống hiến
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cách mạng Việt Nam nói
riêng và cách mạng thế giới nói chung trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đặc biệt, Người xây dựng mối quan hệ đoàn kết quốc tế trong
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Người đã bắc nhịp cầu đoàn kết,
hữu nghị giữa các quốc gia dân tộc. Giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… là những nội dung cơ bản trong tư
tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh. Những quan điểm đó là tài sản quý báu của
Đảng và Nhà nước ta và nhân dân tiến bộ trên thế giới đến nay vẫn còn
nguyên giá trị.
Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết, kế thừa, phát
triển và vận dụng sáng tạo những tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định “Nhiệm vụ của công tác đối
ngoại làgiữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ nêu trên, đòi hỏi việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế là một trong những nội dung quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện tốt đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”, góp phần chung vào sự nghiệp cách mạng thế giới vì công bằng,
dân chủ và tiến bộ xã hội.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia,
H1993
2. Các Mác-Ph.Ăngghen, Tuyển tập tập 1. Nxb.sự thật, HN.1980
3. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátcơva. 1981, t.3
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX. Nxb.Chính trị quốc gia. H.2001
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị quốc gia, HN.2006.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI. Nxb.Chính trị quốc gia, HN.2011.
7. Giá trị Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Nxb Khoa học xã hội.
H. 1993.
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập tập 1, tập 2, tập 5, tập 12. Nxb.Chính trị
quốc gia, HN.2000.
9. Lê Văn Yên, Một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb.Thanh niên. HN.1999.
10. Nguyễn Thành: Chủ tịch HỒ CHÍ MINH ở Pháp, Nxb Thông Tin
Lý Luận, H1988
11. Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp. Nxb Sự thật, H.1990
12. Tư tưởng Hồ Chí Minh - một số nội dung cơ bản, Nxb
CTQG.H.1994.
13. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế, Nxb
CTQG.H.1995.
14. Nguyễn Thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp, Nxb.Thông tin lý
luận, HN.1988.
15. Viện quan hệ quốc tế, Giáo trình quan hệ quốc tế, Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận Chính trị, HN.2006
23




×