Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TIỂU LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc TRONG xây DỰNG KHỐI đại đoàn kết TOÀN dân ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.43 KB, 10 trang )

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta trong suốt lịch sử
dựng nước và giữ nước. Cùng chung vận mệnh sinh tồn, các tộc người ở nước ta đã
sớm đoàn kết, cố kết “chung lưng đấu cật” để chinh phục thiên nhiên, chống ngoại
xâm. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khối
đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố, xây dựng và phát huy, trở thành
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi
thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống; các dân tộc đoàn kết, tôn
trọng, giúp đỡ nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Hiện nay, nước ta có
54 dân tộc cùng sinh sống, dân số giữa các dân tộc không đều nhau. Dân tộc Kinh là
dân tộc đa số, chiếm khoảng 84% dân số, các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 17% dân
số của cả nước. Các dân tộc ở nước ta đã gắn bó lâu đời trong sản xuất, chiến đấu đã
bồi đắp nên truyền thống yêu nước, anh hùng, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, giàu lòng
nhân ái, tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau. Trong lịch sử dân tộc ta không có các cuộc chiến
tranh dân tộc, chiến tranh tôn giáo. Trái lại, trước họa ngoại xâm, các tộc người không
phân biệt miền xuôi, miền ngược, đa số và thiểu số đều đoàn kết chiến đấu để giành và
giữ độc lập dân tộc.
Từ khi có Đảng, có chế độ xã hội chủ nghĩa, các giá trị truyền thống đó đã được
phát huy cao độ, giúp cho dân tộc ta giành được những thắng lợi vĩ đại, vẻ vang. Quan
điểm, chính sách dân tộc nhất quán của Đảng, Nhà nước ta khẳng định rõ
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách; giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu
vừa là động lực của cách mạng Việt Nam.
Hai là, “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự


2
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn


hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia
rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và
các dận tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”1.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và an ninh - quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng
nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát
huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự
phát triển chung các cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi;
khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ bền vững
môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các
dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự tương trợ,
giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng trước hết là
sự nghiệp của chính đồng bào các tộc người định cư ở đó. Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế cần xác định thực thi tốt các chủ trương, kế
hoạch, chính sách kinh tế - xã hội phù hợp, hướng dẫn, giúp đỡ các tộc người ổn
định sản xuất, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội. Đồng bào các tộc người đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp.
Nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc “Thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để
các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế 1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tr .81.



3
xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số”2.
Thực hiện quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, trong những
năm qua khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta không ngừng được củng cố. Công cuộc
Đổi mới đã đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Giáo dục, đào tạo, được
quan tâm; quy mô giáo dục tiếp tục phát triển, xã hội hoá giáo dục, đào tạo thu được
thành tựu bước đầu; Bộ mặt của đất nước và đời sống nhân dân được cải thiện, nâng
cao.
Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, tiến bộ, sức
mạnh khối đoàn kết dân tộc được củng cố. Hiệu quả tổ chức, hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được nâng cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng từng bước được củng cố, nâng cao. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng
cường góp phần tạo thế và lực mới của đất nước. Đã tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát
triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới3.
Quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các tộc
người tiếp tục được củng cố, tăng cường. Hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc và
miền núi bước đầu được tăng cường và củng cố. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã có
bước trưởng thành, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị các cấp ngày
càng cao. Tình hình chính trị, trật tự xã hội vùng dân tộc cơ bản ổn định; an ninh, quốc
phòng được giữ vững4.
Văn hoá phát triển phong phú hơn; đời sống văn hoá của đồng bào được nâng cao
một bước; văn hoá truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy.
Các loại bệnh dịch cơ bản được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi; việc khám, chữa bệnh
cho người nghèo vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn.

2


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tr .81.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, tr.177
4
Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác dân tộc, ngày 29 tháng 7 năm 2009.
3


4
Bên cạnh những thành tựu trên, quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục:
Quan hệ dân tộc ở Việt Nam cũng tiềm ẩn những vấn đề phức tạp: Sự chênh lệch
về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các tộc người; vấn đề di dân tự do,
tranh chấp về quyền lợi giữa các tộc người; những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội; tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, yếu kém năng lực quản lý xã hội của cán bộ công
chức trong thực hiện chính sách kinh tế, xã hội và chính sách dân tộc... . Đặc biệt, kinh
tế vùng dân tộc còn chậm phát triển, lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; môi
trường sinh thái đang tiếp tục bị suy thoái… Chênh lệch về mức sống giữa các vùng,
giữa các dân tộc ngày càng tăng; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp,
công tác chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn; tập
quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển; bản sắc tốt đẹp trong văn hoá của
các dân tộc thiểu số đang bị mai một...
Một số dân tộc có tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn rất cao, như dân tộc Mông: 98,7%, Khmer: 97,7%,
Thái: 94,6%; các dân tộc thiểu số khác: 95,95%. Lao động đã qua đào tạo thi chủ yếu ở trình độ thấp, sơ cấp: 2,54%, trung cấp:
4.8%, cao đẳng 1,43%, đại học trở lên chiếm 4,81%.

Hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc còn yếu: trình độ của độ ngũ cán bộ
còn thấp, công tác phát triển Đảng chậm; cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể nhân dân
ở nhiều nơi hoạt động chưa hiệu quả, không sát dân, không tập hợp được đồng bào.
Ở một số nơi tôn giáo phát triển không bình thường, trái pháp luật và truyền

thống, phong tục, tập quán của nhân dân; một số nơi đồng bào bị các thế lực thù địch và
kẻ xấu lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc.
Vấn đề nghèo, chênh lệch giàu nghèo, Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc

thiểu số (21%) cao gấp 3,44 lần so với tỷ lệ nghèo chung của cả nước (5,8%) và
gấp gần 6 lần tỷ lệ nghèo của dân tộc Kinh5.

Thiếu đất sản xuất, Mai một văn hoá truyền thống, ngôn ngữ 5 dân tộc
5

Tiếp cận nghèo đa chiều - chìa khóa để giảm nghèo bền vững, www.giamngheo olisa.gov.vn, 2014.


5
dưới 1.000 người người (Pu Péo, La Ha, ơ-đu, Brâu, Rơ-măm) đang mất dấn; 16

dân tộc thiểu sổ có số dân dưới 10.000 người của nước ta cũng khó có thể duy trì
được ngôn ngữ của dàn tộc mình. Trang phục bị Kinh hóa, Tây hóa.
Chất lượng nguồn nhân lực: tỷ lệ lao động

chưa qua đào tạo còn rất cao 89,94% chưa qua đào

tạo (3thang), như dân tộc Mông: 98,7%, Khmer: 97,7%, Thái: 94,6%; các dân tộc thiểu số khác: 95,95%. Lao động đã qua đào
tạo thi chủ yếu ở trình độ thấp, sơ cấp: 2,54%, trung cấp: 4.8%, cao đẳng 1,43%, đại học trở lên chiếm 4,81%.

Các tệ nạn xã hội gia tăng, diễn biến phức tạp ở vùng dẫn tộc thiểu số

Tây Bắc có


số người nghiện ma tuý rất lớn cao gấp 10 lần so với tỷ lệ bình quân chung cả nước. Trong số 10 tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV/100.000
dân cao nhất năm 2012, có 7 tỉnh thuộc miền núi phía Bắc.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sợi dây kết nối, quan hệ đông tộc giữa đồng bào
các dân tộc trong và ngoài nước ngày càng thuận lợi, dễ dàng hơn. Các thế lực thù địch
sẵn sàng tạo cớ, can thiệp vào công việc nội bộ hòng gây bất ổn, chia cắt thốn g nhất, toan vẹn
lãnh thổ và chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, âm mưu của các thế lực thù địch là lợi dụng vấn đề dân tộc làm mũi
nhọn tiến công thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá từ bên trong,
thúc đẩy quá trình tự diễn biến với sự kết hợp từ bên ngoài nhằm làm chuyển biến chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục tiêu của chúng nhằm:
Một là, tạo ra sự mất đoàn kết, mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc thiểu số với
người kinh và giữa các dân tộc thiểu số, làm rạn nứt mối quan hệ dân tộc truyền thống
tốt đẹp ở nước ta.
Hai là, khơi dậy, kích động tư tưởng chống đối các phần tử bất mãn, tiêu cực,
làm cho chúng hướng ra ngoài, tạo lực lượng từ bên trong để khi có thời cơ kết hợp với
lực lượng bên ngoài chống phá sự nghiệp cách mạng.
Ba là, làm suy giảm niềm tin của đồng bào đối với Đảng, tạo sự bất bình trong
nhân dân, gây mất ổn định chính trị - xã hội, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Để thực hiện âm mưu phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, chúng đã và đang sử
dụng các thủ đoạn chủ yếu là:
- Tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, trực tiếp là quan


6
điểm, chính sách dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin hiện đại
như đài RFA, một số đài khác bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc, mạng Interne… để

phát tán tài liệu phản động, sai trái; khai thác tối đa công cụ truyền miệng để tung tin
thất thiệt, sai lệch về đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, ly khai… như đòi cái gọi
là quyền “tự trị” của các dân tộc thiểu số, thành lập “Vương quốc Mông độc lập”, “nhà
nước Đê ga độc lập”, “quốc gia Khơ me Crôm”… Triệt để lợi dụng sự chênh lệch giữa
các dân tộc về chính trị kinh tế - xã hội, sự khác nhau về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng tôn giáo giữa các dân tộc, những tồn tại của lịch sử để tuyên truyền
kích động đòi ly khai, tự trị và tìm cách luật pháp hóa, quốc tế hóa vấn đề dân tộc để can
thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tung hô cái gọi là “vấn đề người Thượng ở Tây
Nguyên”, “vấn đề người Chăm”, “vấn đề người Khơ-me”, “vấn đề người Mông”...
- Dùng tiền, vật chất để mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc chống
đối chính quyền, di cư và vượt biên trái phép, gây bất ổn chính trị - xã hội. Thâm độc
hơn, chúng gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo và nhân quyền gây xung đột, bạo
loạn, tạo các “điểm nóng” để vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, vi phạm “dân
chủ”, “nhân quyền”…
- Lợi dụng những sơ hở, sai sót của chính quyền cơ sở, phức tạp hóa những vấn
đề nhạy cảm, bức xúc trong xã hội như tranh chấp đất đai, quan liêu, tham nhũng,… để
thổi phồng khuyết điểm, nói xấu chính quyền, làm mất uy tín và vai trò của Đảng; từ đó
kích động, tiếp tay, can thiệp, gây mâu thuẫn, xích mích trong nhân dân, đối lập nhân dân
với chính quyền. Chúng lợi dụng trình độ nhận thức còn hạn chế của đồng bào để lừa bịp
mê hoặc, lôi kéo quần chúng tham gia hậu thuẫn cho lực lượng chống phá, bạo loạn lật đổ
khi có thời cơ.
- Nuôi dưỡng các phần tử bất mãn, tiêu cực ở trong nước, xây dựng các tổ chức
phản động người Việt Nam ở nước ngoài, tạo lực lượng bên trong cấu kết với lực lượng
bên ngoài, khi thời cơ đến thì tạo cớ, lấy cớ cán thiệp vào công việc nội bộ ở nước ta.
Chúng tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các tộc người ở trong nước hoạt
động chống phá cách mạng Việt Nam, như: Liên đoàn Khơ - me Cam-pu-chia Crôm thế


7

giới, Mặt trận dân tộc giải phóng Khơ-me Cam-pu-chia Crôm, Trí thức Mông, Hiệp hội
người Thượng Đề - ga, Trung tâm Thái học, Văn phòng Chăm-pa quốc tế ,…
- Hỗ trợ thành lập các đài phát thanh như VOKK (Khơ-me Cam-pu-chia Crôm),
RFA (Châu Á tự do), đài Đề-ga và in ấn báo chí, tạp chí, tài liệu bằng tiếng dân tộc, tán
phát băng đĩa có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “chiếm đất”, “đàn
áp, kìm kẹp người dân tộc thiểu số”, “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế”, tuyên
truyền về một cuộc sống giàu sang… xây dựng ảo tưởng, khoét sâu tâm lý ly khai, kích
động tư tưởng đòi “tự trị”, “ly khai” “chia nhỏ”, “xé lẻ” Việt Nam.
- Lợi dụng hoạt động tôn giáo, thực hiện “Đạo hoá” dân tộc để lôi kéo, tập hợp lực
lượng, hình thành các khung chính quyền ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, trên cơ sở đó
dùng thần quyền để lừa bịp và tập hợp lực lượng, hình thành các nhen nhóm phản động
dưới vỏ bọc tôn giáo, chuẩn bị nguồn lực bên trong, khi hội đủ điều kiện thì kích động
đồng bào các dân tộc gây bạo loạn, tạo cớ can thiệp.
- Lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo, thăm thân, du lịch, ngoại giao, hợp tác,
nghiên cứu văn hóa dân tộc… để thu thập thông tin tình báo, tập hợp lực lượng, móc nối
xây dựng cơ sở, tạo dựng “ngọn cờ” tiến hành các hoạt động phá hoại. Chúng lợi dụng
chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ quốc tế của Nhà nước ta để tranh thủ đưa người từ
nước ngoài vào xâm nhập vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm đi sâu tìm hiểu
các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đời sống của dân tộc thiểu số cũng như chủ trương của
đảng, nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là các xã vùng sâu,
vùng xa.
Những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là hết sức toàn diện, đa dạng,
tinh vi và thâm độc; đã và đang làm tổn hại đến quan hệ giữa các tộc người, cản trở quá
trình xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta và trực tiếp ảnh hưởng đến
mọi mặt đời sống xã hội. Vì vậy, để chủ động đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, tập trung thực hiện có
hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của đồng bào về chính
sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù



8
địch. Trong suốt các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán
quan điểm: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính
sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các
dân tộc thiểu số”6. Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta đã và đang được cụ thể
hóa, hiện thức hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện bản chất ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta là không có cơ sở và đi ngược lại lợi ích của các dân tộc. Để nhân
dân nhận thức sâu sắc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, đề cao cảnh giác với
những luận điệu sai trái, phản động cần đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tuyên
truyền, giáo dục phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng khu vực, từng dân tộc. Cần đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền: đổi
mới hình thức học tập chính trị, sinh hoạt cộng đồng; tăng cường tuyên truyền thông qua các
phương tiện đại chúng (sách, báo, tài liệu, đài phát thanh, truyền hình, mạng Internet…);
lồng ghép tuyên truyền chủ trương, chính sách khi tổ chức các lễ hội; tranh thủ già làng,
trưởng bản, trưởng dòng họ; tăng cường cán bộ, đảng viên xuống những nơi khó khăn, phức
tạp để làm tốt công tác vận động quần chúng.
Hai là, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các lực
lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường thực hiện các chính sách xã hội bảo
đảm an sinh xã hội, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Không ngừng hoàn thiện pháp luật, thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở
gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật nhằm động viên, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo

6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr 81


9
sự đồng thuận cao trong đời sống xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả nạn quan liêu, tham nhũng, củng cố niềm tin
của nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số. Tập trung thực hiện thắng lợi các chương trình, dự án phát triển kinh
tế - xã hội, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi
trường sinh thái; huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, thực
hiện tín dụng ưu đãi để người dân có vốn phát triển sản xuất; tư vấn giúp đỡ đồng bào áp dụng
tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất và đời sống, nâng cao dân trí, đào tạo và thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao về vùng sâu, vùng xa. Chăm lo đời sống tinh thần của các dân
tộc thiểu số và đồng bào theo đạo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa từng dân tộc.
Năm là, tích cực chăm lo xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
về mọi mặt, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với
công tác dân tộc, tôn giáo. Cần coi trọng xây dựng tổ chức đảng, chính quyền cấp huyện,
xã, làng, bản thực sự trong sạch, vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các
cấp; xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cấp, các ban ngành đoàn thể, chú
trọng nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách về dân tộc, tôn
giáo ở địa phương. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, khắc phục
bệnh quan liêu xa rời cơ sở, xa rời quần chúng trong cán bộ, đảng viên.
Sáu là, tăng cường quốc phòng, an ninh làm thất bại mọi hoạt động lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch. Chăm lo xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng quân

đội và công an thực sự trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc; chủ động nắm chắc tình hình địa phương, phát hiện và xử lý kịp thời
những mâu thuẫn trong nhân dân theo đúng pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa các lực
lượng vũ trang đấu tranh chủ động tấn công địch từ bên ngoài, ngay tại sào huyệt của
chúng, tập trung vào số đối tượng cốt cán, cầm đầu phản động ở nước ngoài.


10
Đại đoàn kết dân tộc là di sản văn hóa quý giá của dân tộc ta, là nền tảng tinh thần
cao đẹp và là cội nguồn của sức mạnh Việt Nam. Mọi âm mưu, thủ đoạn chia sẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc là đi ngược lại truyền thống, lợi ích và khát vọng ngàn đời của
dân tộc ta. Do đó, cần sử dụng đồng thời nhiều giải pháp, chủ động đấu tranh làm thất bại
mọi thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng và củng cố vững
chắc khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy động lực to lớn phát triển đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb
CTQG, H , 2015.
2. Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX
về công tác dân tộc, ngày 29 tháng 7 năm 2009.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG,
Hà Nội 2001.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, Hà Nội.
7. Tiếp cận nghèo đa chiều - chìa khóa để giảm nghèo bền vững,
www.giamngheo olisa.gov.vn, 2014.




×