Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH lý LUẬN về THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội và sự vận DỤNG SÁNG tạo của ĐẢNG TA và THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.35 KB, 27 trang )

2

MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

1.

MỞ ĐẦU
Quan điểm Mác-Lênin về hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ

2.

nghĩa.
Quan điểm Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

3.

Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta lý luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

4.

Một số vấn đề cơ bản thực hiện con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Trang
3
4


5
10

17

4.1. Nhận thức đúng đắn đầy đủ hơn về đặc điểm tình hình, điều
kiện, khả năng, của đất nước và thời đại, trên cơ sở đó đề ra
4.2.

đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn.
Giữ vững lập trường, kiên định nguyên tắc định hướng xã hội

4.3.

chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với đổi

4.4.

18

19

21

mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội.
Đẩy mạnh cải cách tổ chức quản lý và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng củng


4.5.

cố khối liên minh công - nông - trí vững chắc.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên nguồn sức mạnh

4.6.

và động lực to lớn cho sự nghiệp cách mạng.
Giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam trong suốt tiến trình cách mạng.

22

24
25

KẾT LUẬN

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

28

MỞ ĐẦU


3

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời,

lần đầu tiên những nghiên cứu về lịch sử xã hội được trình bày một cách
khoa học trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng. Một trong những nội
dung quan trọng của học thuyết là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là hệ thống những quan điểm, sâu sắc toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội. Hệ thống lý luận đó đã được Mác-Ăngghen vạch ra
những nét cơ bản và Lênin đã tiếp thu, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo
trong điều kiện lịch sử mới, khi chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga. Hiện nay, lợi dụng sự
sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước Đông Âu và Liên Xô, các thế
lực phản động, các học giả tư sản ra sức tập trung chống phá, xuyên tạc, phủ
nhận lý luận về thời kỳ quá độ và chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ cho rằng lý luận
về hình thái kinh tế - xã hội về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã mất ý
nghĩa không thể áp dụng vào thế giới hiện đại, rằng chủ nghĩa xã hội hiện
thực là sự nhầm lẫn của lịch sử do vậy lý luận đó đã lỗi thời, không còn giá
trị. Đồng thời, không ít người hoài nghi lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, họ coi đó là sự cáo chung của lý luận Mácxít về chủ nghĩa xã hội nói
chung và về lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, từ đó đi đến phủ nhận
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ở nước ta sau 30
năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, hiện nay “nước ta vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách lớn, đặc biệt là
những ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế
toàn cầu và những thách thức bất ổn vĩ mô. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá hòng
làm thay đổi chế độ chính trị của nước ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo trên Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp”1.
Vấn đề đặt lên hàng đầu là phải tích cực, chủ động tranh thủ cơ hội,
vượt qua thách thức tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn,
1


Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb CTQG, H , 2015, tr.40


4

phát triển nhanh và bền vững hơn. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức
đúng đắn và làm sáng tỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta để
đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn, qua đó góp phần tích cực
trong việc đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

NỘI DUNG
1. Quan điểm Mác-Lênin về hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một
học thuyết khoa học và cách mạng, chứng minh xã hội loài người phát triển từ
thấp đến cao thông qua sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một bước chuyển biến cách mạng
trong nhận thức về xã hội – lịch sử, đưa lại quan điểm duy vật về xã hội, chỉ
ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết
định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung. Trước Mác, chủ
nghĩa duy tâm giữ vai trò chi phối trong việc giải thích về đời sống xã hội, các
nhà triết học duy tâm thường quan niệm xã hội một cách chung chung, trừu
tượng… chưa có sự nhìn nhận một cách hệ thống, khoa học. Mác đã vận dụng
phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu xã hội, nghiên cứu hoạt động sản
xuất vật chất và phát hiện ra mối quan hệ giữa con người với con người, mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong xã hội các yếu tố lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ với nhau và
bao giờ cũng gắn với một kiểu xã hội nhất định, sự tác động qua lại của các

yếu tố đó tạo thành các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Đó là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các


5

quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát
triển từ thấp đến cao. Trên cơ sở đó Mác đi đến kết luận sự vận động phát
triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác viết: “Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên”2. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác-Ăngghen đã đáp ứng
được những nhu cầu của thời đại, không những chứng minh sự vận động phát
triển của xã hội loài người, mà còn giải thích rõ hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa sẽ thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là vấn đề
mang tính quy luật. Đồng thời Mác-Ăngghen còn trình bày quan điểm của
mình về sự vận động phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, trong đó có lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn phong phú, sôi động của mình,
Mác-Ăngghen đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu
xã hội và đã hình thành những tư tưởng hết sức cơ bản về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Mác và Ăngghen không những phân chia lịch sử phát triển
của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân chia
mỗi hình thái kinh tế - xã hội thành các giai đoạn phát triển nhất định. Theo
Mác, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có tính chất quá độ và tính chất lịch
sử. Bằng cách phân tích khoa học quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và những vấn đề gắn liền với
các giai đoạn của quá trình ấy, các ông đã chứng minh chủ nghĩa tư bản tất
yếu phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản, đó là một quá trình lịch sử tự

nhiên. Mác và Ăngghen đã nhìn thấy xã hội mới phải trải qua nhiều giai
đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Quan điểm Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăngghen đã nói rõ tính
khách quan sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người tất yếu sẽ
đi lên chủ nghĩa cộng sản, các ông gọi chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu
2

C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQG. H, 1995, tr.21.


6

hiện thực. Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô ta” Mác đã đưa ra
định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mác viết:
“giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không phải
là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản ”3.
Thời kỳ quá độ “là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa do đó
là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang
những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra ” 4, đó là xã hội còn chưa
phát triển trên cơ sở của chính nó. Mác-Ăngghen đã nêu tư tưởng về hai
giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn thấp là xã hội – xã hội chủ
nghĩa, xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ, trong xã hội ấy tất yếu còn đấu
tranh giai cấp và vì vậy còn cần đến nhà nước của giai cấp vô sản, nó tồn
tại đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản. Giai
đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản, xã hội không còn phân biệt giữa lao động
trí óc và lao động chân tay, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Như
vậy thời kỳ quá độ là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn để loại bỏ dần cái

cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới, là thời kỳ tạo ra những tiền
đề vật chất, tinh thần để hình thành một xã hội mới cao hơn xã hội tư bản.
Trong điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế
quốc, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã trở thành vấn đề trực tiếp, Lênin đã kế
thừa và phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen về phân kỳ hình thái kinh tế
- xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ông đã đề cập đến khả năng
giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước, kể cả những
nước tư bản phát triển trung bình, thậm chí còn lạc hậu nhiều mặt. Cuộc Cách
mạng tháng Mười Nga (1917), cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về lý luận và thực
tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho lý luận đó ngày càng
3
4

C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG. H, 1995, tr.47.
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG. H, 1995, tr33


7

sáng tỏ hơn. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Lênin đã phân chia
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa qua ba giai đoạn: Giai đoạn một:
“những cơn đau đẻ kéo dài”, gọi là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Giai
đoạn hai: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, gọi là chủ nghĩa xã
hội; Giai đoạn ba: “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa” gọi là chủ
nghĩa cộng sản. Qua sự phân kỳ của Lênin, thời kỳ quá độ có vị trí độc lập
tương đối, không nằm trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa,
nhận thức như vậy thì mới xác định được vị trí, phạm vi, đặc điểm, tính chất
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin còn chỉ rõ:
“Những thời kỳ của lịch sử xã hội cũng giống như những thời kỳ của lịch sử

trái đất đều không có ranh giới trừu tượng nào thật rành mạch cả”5. Hoặc “dĩ
nhiên là những cách phân giới hạn đó, cũng giống như những cách phân giới
hạn trong giới tự nhiên hoặc trong xã hội, đều chỉ có tính chất quy ước và
không cố định, đều là tương đối chứ không phải là tuyệt đối”6. Qua đó ta thấy
được tư tưởng biện chứng của các ông, khi nhận biết được vị trí, giới hạn của
thời kỳ quá độ, thì ngay trong vị trí, giới hạn đó còn hàm chứa cả những đặc
điểm, nội dung của thời kỳ quá độ và còn của cả giai đoạn xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến
cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội - xã hội chủ nghĩa, được bắt
đầu khi giai cấp vô sản giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản và
kết thúc khi xây dựng xong cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Trong đó, chính quyền tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại nhưng chế độ tư hữu
vẫn còn tồn tại, việc cải tạo và đi đến xoá bỏ nó phải tiến hành dần dần, khi
giai cấp vô sản phải tạo ra được khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết, thì lúc
đó xoá bỏ được chế độ tư hữu. Quan hệ phân phối còn chưa thể bình đẳng.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ không riêng gì lĩnh vực kinh tế mà các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội còn mang những tàn dư, dấu vết của xã hội cũ chưa
thể xoá bỏ, vẫn còn nhà nước, giai cấp và tất yếu còn đấu tranh giai cấp.
5
6

C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 537.
Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập 23, tr 175.


8

Kế thừa quan điểm Mác-Ăngghen, Lênin đã chỉ ra đặc điểm của thời kỳ
quá độ là: sự cùng tồn tại, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau của những
yếu tố, thuộc tính của cả xã hội cũ và xã hội mới, là thời kỳ đan xen, thâm

nhập vào nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là thời kỳ mà cái cũ
còn tồn tại và thậm chí còn phát triển lấn áp những mầm mống của cái mới.
Đây còn là thời kỳ lâu dài khó khăn, phức tạp, để vượt qua giai cấp vô sản
phải sẵn sàng đón đợi và phải trải qua nhiều lần thử nghiệm, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm, có như vậy mới tìm ra được hướng đi đúng đắn, hiệu quả. Theo
Lênin: “Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng
của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Gọi là thời kỳ quá độ ấy không thể nào
lại không phải là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và
chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư
bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã
phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”7. Người còn chỉ rõ: về phương diện
kinh tế, thời kỳ quá độ tồn tại những thành phần, những bộ phận của cả chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen,
thâm nhập lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau; về chính trị-xã hội
đây là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị
tiêu diệt tận gốc, chủ nghĩa xã hội đã phát sinh nhưng còn non yếu, do đó nhất
thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản, củng cố nền dân chủ của nhân dân;
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại cơ cấu giai cấp xã hội phức
tạp, với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau mà lợi ích cơ bản của họ
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặt khác, trong thời kỳ quá độ các thế lực
phản động bên ngoài luôn luôn tìm cách móc nối phá hoại công cuộc cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai
cấp, dân tộc diễn ra gay go phức tạp, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoáxã hội, quốc phòng-an ninh…với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.

7

V.I.Lênin, toàn tập, tập 39 Nxb tiến bộ, Matxcơva 1979, tr 309 - 310



9

Khi lý giải về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin còn đề cập đến con đường phát triển không qua tư
bản chủ nghĩa ở các nước chậm phát triển, tức là quá độ từ xã hội tiền tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Mác-Ăngghen cho rằng: với sự giúp đỡ của giai cấp vô
sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn được rất nhiều quá
trình phát triển của mình để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. “Một xã hội, ngay cả
khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó, cũng không
thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá
bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những
cơn đau đẻ”8. Như vậy, các nước tiền tư bản chủ nghĩa có thể đi lên chủ nghĩa
cộng sản bằng con đường bỏ qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa với những
điều kiện tiên quyết nhất định, một trong những điều kiện đó là các nước tiền
tư bản phải được sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến.
Trong điều kiện lịch sử mới, sau Cách mạng tháng Mười, Lênin khẳng
định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc
hậu có thể tiến lên tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất
định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”9. Lênin đã đưa ra quan điểm hai hình thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đó là trực tiếp và gián tiếp. Theo Lênin, những nước chủ nghĩa
tư bản phát triển cao, giai cấp công nhân đã trưởng thành mới có đủ những
tiền đề xã hội, kinh tế và chính trị cho sự chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Còn những nước lạc hậu chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián
tiếp, điều kiện để quá độ gián tiếp theo Lênin là: hình thái kinh tế - xã hội bỏ
qua đã lỗi thời lạc hậu, hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời đã thể hiện tính ưu
việt của nó; Đảng cộng sản giữ vị trí lãnh đạo xã hội và luôn được củng cố
vững mạnh; chính quyền công nông đủ điều kiện để làm nhiệm vụ chuyên
chính vô sản; liên minh công nông bền vững làm cơ sở xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân; phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến.

8
9

C .Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1993, T.23, tr21.
V.I.Lênin. toàn tập , Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập.41, tr. 295.


10

Lênin viết: “Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới
đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang
những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về trình tự của sự phát triển đó”10.
Lênin chỉ rõ, đối với những nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa phải trải qua những bước trung gian, quá độ, mới có thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta phải hiểu đường lối, thể thức,
thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ quan hệ tiền tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt vấn đề”11.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhằm cải tạo
xã hội cũ, tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần của xã hội mới, xã hội- xã
hội chủ nghĩa. Đó là quá trình đấu tranh để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nôn
nóng hoặc trì trệ bảo thủ, thụ động đều gây hậu quả tiêu cực, ngăn cản quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội không tách rời nhau-đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối của Đảng. Đường lối kiên định con đường

tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta là phù hợp với xu thế của thời đại và
điều kiện cụ thể ở nước ta. Con đường của Cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quan điểm của
Đảng, sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dựa trên nền nền tảng liên minh công nhân,
10
11

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập.45, tr.431.
V.I.Lênin.Toàn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập 43, tr. 274.


11

nông dân và trí thức đã được củng cố vững chắc, cách mạng Việt Nam chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, khi Miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, miền
Nam còn bị đế quốc Mỹ chiếm đóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ
trương, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ chặt chẽ
thống nhất với nhau là điều kiện thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát triển.
Đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
hoàn cảnh có chiến tranh là một sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và của Đảng ta, phản ánh đúng thực chất quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận định chính xác những khó khăn phức tạp mà cách mạng Việt

Nam phải trải qua. Theo Người về phương diện kinh tế “Miền Bắc nhất định
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”12. Chúng ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh, bối cảnh
quốc tế vừa có thuận lợi vừa có khó khăn. Điều đó buộc chúng ta phải có ý
thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, khắc phục những khó khăn để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chỉ rõ,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá trình khó khăn phức tạp, lâu
dài. Quá trình đó bao gồm hai mặt cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới,
trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt, trung tâm. Đồng thời Đảng ta nhấn
mạnh đến tính chất phức tạp khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…

12

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập10, Nxb CTQG, H, 2000, tr. 13.


12

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi (04/1975) đất
nước thống nhất, cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IV
của Đảng (1976) đã vạch ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng
khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây

dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa”13. Đồng thời Đảng cũng nhận rõ những khó khăn thách thức trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến, điểm xuất phát thấp, sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; đất nước lại trải qua
hai cuộc chiến tranh với hậu quả để lại hết sức nặng nề, vì vậy thời kỳ quá độ
là một quá trình đấu tranh giai cấp phức tạp lâu dài, phải tiến hành đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, trong đó nhiệm vụ xây dựng là quan trọng hàng đầu. Những
năm trước Đại hội VI (1986), do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, chủ quan duy ý chí, muốn xoá
bỏ nhanh các thành phần kinh tế không cơ bản, không tôn trọng quy luật
khách quan, áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội đã làm cho nước ta
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội. Đại hội VI của Đảng với
phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tổng kết những
thành tựu đạt được, chỉ ra những mặt còn hạn chế, yếu kém cần phải khắc
phục, trên cơ sở đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ trương của
Đảng là thực hiện mở cửa, đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy, tư
13

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IV, Nxb.St, H, 1977, tr 67.


13

duy về kinh tế, tư duy về chính trị, chú trọng đổi mới kinh tế làm cơ sở tiền đề
để từng bước đổi mới chính trị. Đảng ta xác định đổi mới không phải là thay
đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là tìm cách thực hiện mục tiêu đó một cách

có hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó Đại hội đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu
kinh tế, về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên,
thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, xoá bỏ
triệt để cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển hẳn sang hạch toán kinh
doanh, coi trọng lợi ích cá nhân và tập thể, chăm lo phát triển nhân tố con
người, đổi mới cơ chế chính sách xã hội. Đại hội VI là cột mốc đánh dấu
bước chuyển nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trước đây nhấn mạnh cách mạng quan hệ sản xuất, trong
đổi mới chúng ta đặt vấn đề một cách thực tế hơn, khẳng định rõ tư tưởng căn
bản của đổi mới là giải phóng lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó từng bước tạo
lập xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp.
Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, trên cơ sở lý
luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong
tình hình các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ và Liên xô đang có
nguy cơ đi đến tan rã. Kiên định mục tiêu, con đường đã chọn Đảng ta
khẳng định: Dẫu sự phát triển xã hội đang trải qua những bước quanh co,
phức tạp với những thăng trầm lịch sử, song loài người cuối cùng nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. Đại hội
cũng đã nêu lên sáu đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng. Đồng thời xác định rõ phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ: “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới
trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau ”14; xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, lấy liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là nhiệm vụ trung tâm nhằm phát triển lực lượng sản xuất; thiết lập từng
14

Đảng cộng sản Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxbst, H,1991.tr.11



14

bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu, phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất;
tiến hành cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá; thực hiện chính sách
đại đoàn kết dân tộc; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ đại hội Đảng VII,
đại hội Đảng VIII nhận định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn; xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực
hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa”15. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội,
cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Bước sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đại hội IX, X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại”16. Đại hội X của Đảng đã khái quát mô hình “xã hội chủ nghĩa
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ;

có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
15
16

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H, 1996, tr. 68.
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001. tr.21.


15

nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”17.
Đảng ta cũng chỉ ra phương hướng và điều kiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”18.
Đại hội đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta, Bác Hồ
và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xã hội mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.”19
Và gần đây nhất là Đại hội Đảng lần thư XII, một mặt tiếp tục khẳng
định sự kiên định về con đường trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011): “con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử” 20. Mặt khác, nhìn lại 30 năm đổi mới, đảng ta khẳng
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr. 68.
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr. 69.
19 Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.70.
20 Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr.16.
17
18


16

định “trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam” 21.
Như vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải
trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, là thời kỳ lâu dài và hết sức
khó khăn, phải trải qua nhiều chặng đường, do điểm xuất phát của chúng ta
thấp, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ... Đó là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng một chế độ xã hội mới
cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, là thời kỳ
đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt và phức tạp, đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Việc xác định đúng bước đi chặng đường đầu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã tạo những điều kiện cơ bản để chúng ta bước vào
chặng đường tiếp theo. Quá trình vận dụng sáng tạo lý luận về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là quá trình vận
dụng, bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: “Qua 30 năm đổi mới, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…. Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát
triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn
hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân
có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở
rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây
21

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr.69.


17

dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào
chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao”22. Thực tế sinh động đó đã minh chứng cho tính đúng đắn của lý luận về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo lý luận đó vào

thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đặt ra nhiều vấn đề cần phải bổ sung cho phù hợp với điều kiện
từng giai đoạn cách mạng, phải vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam như Đảng ta đã xác định
một trong những vấn đề quan trọng cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ là xác định
chặng đường, bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
“Cần đi sâu nghiên cứu đặc điểm, nhất là những tính đặc thù của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghiên cứu làm rõ một cách tổng quát lộ
trình và những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội dung cơ bản của từng
chặng đường đó”23.
4. Một số vấn đề cơ bản thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đặt ra đối với nước ta là làm sao
tận dụng được thời cơ, vượt qua những thách thức nguy cơ trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội, đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, vững chắc
theo con đường xã hội chủ nghĩa, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược mà
đường lối đổi mới của Đảng đã đề ra. Muốn vậy, thiết nghĩ chúng ta cần
quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

22
23

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr.65-66.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb CTQG, H , 2015, tr.216


18

4.1. Nhận thức đúng đắn đầy đủ hơn về đặc điểm tình hình, điều
kiện, khả năng, của đất nước và thời đại, trên cơ sở đó đề ra đường lối

chiến lược, sách lược đúng đắn.
Trước hết, chúng ta phải nhận thức rõ thực chất, điều kiện và khả năng
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay. Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, đồng thời tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên, nhất là quá trình phát
triển kinh tế, không nóng vội chủ quan, duy ý chí. Bỏ qua bằng cách thông
qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ nhưng không bỏ qua
những tính quy luật chung của nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn. Bỏ qua
nhưng có kế thừa và phát triển những thành quả tích cực của chủ nghĩa tư
bản, đặc biệt là khoa học kỹ thuật công nghệ, đồng thời từng bước xây dựng
và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa là phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội loài người, với xu thế của
thời đại, với điều kiện nước ta và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Chúng ta có Đảng cộng sản dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo, có chính quyền,
có nền tảng liên minh công-nông-trí vững chắc, có sự hội nhập giao lưu kinh
tế thế giới, có sự ủng hộ cổ vũ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
có thành tựu của 30 năm đổi mới…. Đó là cơ sở, động lực cho phép nước ta
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thức
đúng những khó khăn thách thức mà cách mạng nước ta phải vượt qua. Việt
Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, lại không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Mặt khác,
sau khi cả nước thống nhất, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục tiến
hành trong bối cảnh hết sức khó khăn: bị bao vây cấm vận, phải giải quyết
gánh nặng hậu quả của chiến tranh để lại, những chấn động sâu sắc, to lớn của
cuộc khủng hoảng sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô. Trong khi



19

đó, đất nước còn nghèo, trình độ dân trí thấp, tăng trưởng kinh tế chưa vững
chắc, môi trường quốc tế cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. “Những vấn đề toàn
cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh
lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp.
Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức
an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình
thái chiến tranh kiểu mới” 24. Đó thực sự là những khó khăn thách thức đan
xen, tác động lẫn nhau, thường xuyên đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế
độ ta. Vì vậy, để con đường cách mạng nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội giành thắng lợi, vấn đề có ý nghĩa chiến
lược là phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về đặc điểm tình hình, điều
kiện khả năng của đất nước, thế giới, trên cơ sở đó xác định đúng đường lối
chiến lược, sách lược, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên
con đường xã hội chủ nghĩa.
4.2. Giữ vững lập trường, kiên định nguyên tắc định hướng xã hội
chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo.
Đảng ta xác định rõ lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng. Đòi
hỏi chúng ta phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Thực
chất là kiên trì sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, gắn liền
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, việc chậm khắc phục sửa chữa
những yếu kém khuyết điểm có thể dẫn đến mất phương hướng, thậm chí
mất chế độ như một số nước xã hội chủ nghĩa đã không đủ sức vượt qua
khi tiến hành cải tổ, cải cách. Kiên định lập trường nguyên tắc xã hội chủ
nghĩa, chính là giữ vững và kế thừa, bảo vệ các nguyên lý, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời nghiên

24

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.72


20

cứu và sáng tạo giải quyết những vấn đề cụ thể trên cơ sở phương pháp
luận Mácxít và xuất phát từ thực tế đất nước. Phải không ngừng điều chỉnh,
bổ sung, phát triển kho tàng lý luận Mácxít bằng những kinh nghiệm và tri
thức mới. Kế thừa, bảo vệ phát triển không phải làm xơ cứng, triệt tiêu sức
sống và làm trì trệ lý luận Mác xít, lại càng không có nghĩa là tuỳ tiện làm
biến dạng nó, gò theo ý muốn chủ quan và tách rời nó khỏi mảnh đất hiện
thực thời đại, mà là vận dụng nó một cách linh hoạt vào điều kiện thực tế
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Đồng thời với kiên định lập trường nguyên tắc xã hội chủ nghĩa
chúng ta phải tiến hành đổi mới sáng tạo. Trước hết là đổi mới tư duy, phải
nhận thức một cách đúng đắn những nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin,
không giáo điều mà vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với bối
cảnh cụ thể của đất nước ta, làm cho nó có sức sống mới trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, đổi mới tuyệt nhiên không phải thay đổi
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà là xuất phát từ lý luận đó để hành động một cách đúng đắn theo
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chỉ rõ:
“trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc
tế phù hợp với Việt Nam”25. Rõ ràng, không thể có đổi mới sáng tạo nếu
không xuất phát từ sự kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, ngược lại sự kiên định sẽ trở nên mất hết ý nghĩa, rơi vào chung
chung trừu tượng nếu không có sự đổi mới sáng tạo. Công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay chính là kết quả thể
hiện hết sức sinh động, thuyết phục về sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề
kiên định với đổi mới sáng tạo.

25

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.68


21

4.3. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với đổi mới chính trị và
các mặt khác của đời sống xã hội.
Trong thời kỳ toàn cầu hoá hiện nay, hầu hết các nước đều phải xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường, đó là xu thế khách quan, tuy nhiên, ở
mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích
khác nhau. Đối với các nước tư bản, kinh tế thị trường là kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Ở nước ta, kinh tế thị
trường phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là
thành tựu chung của văn minh nhân loại, là kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, của quá trình phân công lao động
xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu thế phát triển chung
của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước
ta là nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như Đảng ta đã khẳng định: “phát triển
kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi

trường và động lực cho phát triển kinh tế xã hội”26.
Gắn liền với phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai
trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức
mạnh đại toàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, phát triển kinh tế phải phát triển và xây dựng nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, đào tạo nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội thực
hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

26

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.273


22

4.4. Đẩy mạnh cải cách tổ chức quản lý và hoạt động của Nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, xây dựng củng cố khối liên
minh công - nông - trí vững chắc.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ chính quyền là vấn đề cơ bản của
mọi cuộc cách mạng, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó
hơn. Qua 71 năm lãnh đạo xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi việc xây
dựng nhà nước là một nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách
mạng. Trong quá trình đổi mới Đảng luôn quan tâm, đánh giá về thực
trạng: cả thành tựu và yếu kém của bộ máy nhà nước, chỉ rõ nguyên nhân,
xác định hệ thống quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ và giải pháp nhằm xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ, tăng cường pháp

chế. Một mặt, nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành
chính được cải cách một bước, quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh
vực được phát huy, một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ
của nhân dân trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện, tăng cường được
pháp chế, giữ vững được kỷ cương phép nước. Tuy nhiên, còn nhiều mặt
hạn chế khuyết điểm: bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, cơ chế chính sách
có mặt còn thiếu đồng bộ, dân chủ còn mang tính hình thức, một số cán bộ
công chức còn quan liêu, tham nhũng, xa rời dân, suy thoái về phẩm chất
đạo đức cách mạng. Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến động phức tạp, đòi hỏi phải cải cách tổ chức và hoạt động của nhà
nước, bảo đảm thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, coi đây là vấn
đề có ý nghĩa chiến lược trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, đòi hỏi chúng ta phải, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng,
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, làm cho nhà nước
thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; phải
tiến hành cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước, mở
rộng và phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.


23

Đồng thời với việc cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, phải xây dựng
cũng cố khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, và đội ngũ trí
thức. Tổng kết thực tiễn, Đảng ta khẳng định xây dựng củng cố khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là
một vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ phát triển mạnh mẽ, sự tác động của xu thế toàn cầu hoá nền kinh

tế thế giới, sự tác động của kinh tế tri thức thì nhu cầu liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức lại càng trở nên bức thiết. Để
xây dựng củng cố khối liên minh công-nông-trí, phải xây dựng và hoàn thiện
một hệ thống chính trị thực sự dân chủ; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào nông nghiệp và
đô thị hoá nông thôn; xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo phù hợp, có hiệu quả; thực hiện chính sách
giai cấp đúng đắn và thích hợp. Trước mắt phải nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn nghề nghiệp, tác phong công tác và trí thức hoá giai
cấp công nhân; phải có chính sách hỗ trợ tổ chức tiêu thụ nông sản, đưa công
nghệ sản xuất tiên tiến vào nông nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây
trồng vật nuôi, mở rộng các loại hình đào tạo nghề, thực hiện tốt các chính
sách phát triển nông nghiệp; có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng của đội ngũ trí thức. Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh, liên minh công-nông-trí là nền tảng cơ sở chính trị-xã hội,
là lực lượng tiên phong đi đầu trong sự nghiệp đổi mới đất nước, là chỗ dựa
vững chắc của Đảng và Nhà nước, lực lượng trung thành tin cậy bảo vệ Đảng,
Nhà nước. Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức là nguyên tắc chiến lược là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định sự thành bại của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội nhất thiết phải xây dựng củng cố khối Liên minh công-nông-trí vững
chắc, đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong giai đoạn cách mạng hiện nay.


24

4.5. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên nguồn sức mạnh và
động lực to lớn cho sự nghiệp cách mạng.
Đoàn kết dân tộc là truyền thống vô cùng quí báu trong lịch sử dựng

nước và giữ nước của dân tộc ta. Ngay từ khi ra đời cha ông ta đã biết phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã làm nên những kỳ tích lịch
sử, những bản anh hùng ca bất hủ. Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc,
Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường
lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn cho sự nghiệp cách
mạng nước ta. Ngay khi mới thành lập Đảng ta đã quan tâm đến việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước,
nhờ phát huy được khối đại đoàn kết của dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta làm nên những chiến thắng lẫy lừng, đánh bại những thế lực thực dân, đế
quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn ta nhiều lần. Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành
công, đại thành công”27. Trong giai đoạn cách mạng mới, đại đoàn kết dân tộc
được coi là động lực chủ yếu để phát triển đất nước, là cơ sở để phát huy sự
năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, phải
không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, coi đây là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay
như Đảng ta khẳng định: “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân”28. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là thực hiện liên minh
chặt chẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp và mọi thành viên trong
đại gia đình dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, ý
chí tự lực tự cường và tự hào dân tộc, giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn
27
28

Hồ Chí Minh : toàn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr350
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.76



25

lãnh thổ, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau trong xây dựng đất
nước, phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây
dựng đồng bộ và đổi mới các chính sách kinh tế-xã hội, phát huy sức sáng tạo
của nhân dân. Giữ gìn và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn quân, các cấp, các ngành, của toàn dân tộc. Lịch sử đã
chứng minh, đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh vô địch, đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết, mọi sự chia rẽ dân tộc đều bị lịch sử lên án và loại bỏ. Trong
điều kiện tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, yêu cầu
củng cố tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc càng trở nên quan trọng và cấp
thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4.6. Giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam trong suốt tiến trình cách mạng.
Giữ vững và nâng cao sức lãnh đạo của Đảng là nội dung cơ bản, nổi
bật nhất của sự kiên định con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chủ nghĩa tư bản ở nước ta, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng. Nhìn lại những thành tựu của sự nghiệp đổi mới 30 năm qua, càng thấy
vai trò to lớn của Đảng. Do vậy, giữ vững, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
có ý nghĩa sống còn đối với đất nước, dân tộc và chế độ, nhân tố bảo đảm
quyết định cho những thắng lợi của công cuộc đổi mới. Hiện nay, các thế lực
thù địch luôn chống phá Đảng cả về tư tưởng, tổ chức, phá hoại sự đoàn kết
thống nhất của Đảng từ bên trong, làm suy yếu và tiến tới tước bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng mưu đồ xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phải không ngừng xây dựng Đảng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Việc giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng ta là vấn đề nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đồng thời là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Chúng ta đều hiểu rằng Việt Nam sẽ không thể đổi mới thắng
lợi, không thể đi tới chủ nghĩa xã hội, nếu như Đảng không thực sự trong
sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu như Đảng ta đã xác


26

định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ”29. Từ nhận thức đó, Đảng ta đã và đang không ngừng vươn lên xây
dựng, chỉnh đốn ngày càng vững mạnh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, lãnh đạo xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung cơ bản
trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận đó
đã đáp ứng những nhu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại. Trong quá
trình hoạt động cách mạng Mác-Ăngghen, Lênin đã không ngừng phát triển lý
luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là cơ sở, phương pháp luận để
các Đảng cộng sản vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa MácLênin đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam và thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh
cho tính đúng đắn của sự vận dụng sáng tạo đó. Trong giai đoạn hiện nay,
trước sự biến động phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, đòi hỏi
Đảng ta phải kiên định nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới sáng
tạo; phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về đặc điểm, tình hình, điều kiện
khả năng của đất nước và thời đại để có đường lối chiến lược sách lược đúng;
đẩy mạnh cải cách tổ chức, quản lý và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế; xây dựng củng cố khối liên minh giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vững chắc; phải không ngừng
xây dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng, xem đây là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lý luận thời kỳ quá độ lên chủ
29

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H , 2016, tr.76


×