Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN QUỐC PHÒNG AN NINH vận DỤNG NGHỆ THUẬT CHIẾN TRANH NHÂN dân, TOÀN dân ĐÁNH GIẶC của tổ TIÊN TRONG CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ CAO HIÊN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.08 KB, 19 trang )

Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội có tính lịch sử. Trải qua thực
tiễn chiến tranh, nghệ thuật quân sự của mỗi quốc gia được hình thành và phát
triển. Nghệ thuật quân sự, suy cho cùng là nghệ thuật tạo ra sức mạnh để đánh
thắng đối phương trong mọi tình thế và nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình
thành, phát triển cũng không ngoài mục đích đó.
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, với
truyền thống đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, với tài thao lược kiệt
xuất của tổ tiên, nhân dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Cũng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại
xâm, dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc
hết sức sáng tạo, độc đáo và nó thể hiện rất sinh động trong khởi nghĩa vũ trang,
chiến tranh giải phóng.
Nền nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc hình thành
và phát triển từ mấy năm đánh giặc và giữ nước của dân tộc. Người Âu Lạc từ thuở
xa xưa (221 trước Công nguyên) đã đánh thắng 50 vạn quân Tần xâm lược. Dưới
sự thống lĩnh của Lý Thường Kiệt, quân và dân Đại Việt đã hai lần đánh thắng
quân Tống. Trần Hưng Đạo với đội quân “phụ tử chi binh" đánh thắng quân
Nguyên Mông - kẻ thống trị hàng loạt nước châu Á, châu Âu lúc bấy giờ. Lê Lợi Nguyễn Trãi đã đánh bại đạo quân Minh xâm lược trong cuộc chiến tranh giải
phóng phát triển từ khởi nghĩa.… Nghệ thuật quân sự ấy đã phát triển với chất
lượng mới bằng những thắng lợi oanh liệt trong các cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đánh bại
những đội quân xâm lược của chủ nghĩa đế quốc thế giới đông nhất và được trang
bị hiện đại nhất. Đó là những nấc thang đi tới đỉnh cao chói lọi của sự sáng tạo về
nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc nói riêng, nghệ thuật
quân sự Việt Nam nói chung của dân tộc ta.


Song nghệ thuật quân sự thuộc loại nhân tố chủ quan năng động trong tổng
thể các nhân tố tạo thành sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và chiến
tranh nhân dân. Nó thuộc lĩnh vực hoạt động thực tiễn của Nhà nước, quân đội và


nhân dân, của các tướng lĩnh nhằm thực hiện các tư tưởng và quan điểm quân sự
của Đảng, vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, tìm
ra phương pháp tác chiến, phương án tác chiến tối ưu, phù hợp với khả năng và
điều kiện lịch sử của đất nước để để đảm bảo chiến thắng. Trước yêu cầu mới, nội
dung mới của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân và sẵn sàng tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, đặc
biệt trong điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao thì nghệ thuật quân sự đòi
hỏi phải phát triển đáp ứng. Đó là một vấn đề rộng lớn cần có sự đóng góp của
nhiều trí tuệ.
Như vậy, nếu tương lai xảy ra chiến tranh vũ khí công nghệ cao ở nước ta,
việc phát huy nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc sẽ được thực
hiện như thế nào? Đó là vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn. Từ kiến thức của bản
thân, từ sự tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu có liên quan, bản thân xin trình bày một số
nét cơ bản về nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc của cha ông ta
và sự vận dụng nó trong điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao nếu xảy ra ở
nước ta trong tương lai.
1. Chiến tranh nhân dân thực chất là toàn dân tham gia đánh giặc với tinh thần
“cả nước chung sức, trăm họ là binh”. Đây vừa là đặc trưng, vừa là nội dung cơ
bản của phương châm chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân
dân, toàn dân đánh giặc luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ cuộc
kháng chiến mà chúng ta tiến hành, là cơ sở, là nền tảng để huy động sức mạnh
tiềm tàng trong nhân dân vào khởi nghĩa, kháng chiến tạo thành sức mạnh vô địch
để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc giang sơn, xã tắt. Tiến hành đường lối
và phương châm chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc đã biến cả nước thành


chin trng, ton dõn thnh chin s, to thnh thiờn la a vừng, lm cho quõn
ch i n õu cng b chn ỏnh nhng khi chỳng tp trung lc lng thỡ khụng
tỡm c i tng tỏc chin song li thng xuyờn b ỏnh khp ni, lc
lng phng tin phõn tỏn, cng kộo v thng xuyờn b hao ht. Do ú chin

tranh nhõn dõn, ton dõn ỏnh gic ca ta ó lm cho quõn ch ụng m húa ớt,
mnh m húa yu, tinh thn, tõm lý binh lớnh hoang mang, cng thng, n khụng
ngon, ng khụng yờn, sc mnh suy gim, tinh thn ru ró, th trn tan v, dn n
sa ly nờn sm mun gỡ cng s tht bi trong chin tranh trc ng li chin
tranh nhõn dõn, ton dõn ỏnh gic ca ta.
Toàn dân đánh giặc là truyền thống, nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của
dân tộc ta, truyền thống đó đợc xuất phát từ lòng yêu nớc, thơng nòi của nhân dân ta,
từ mục đích, tính chất các cuộc chiến tranh nhân dân ta tiến hành đều đánh vào thế
lực xâm lợc hiếu chiến để bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc. Vỡ vy nú ó tr thnh
mt ng lc tinh thn to ln thụi thỳc ton dõn tham gia, nh nh hng ng, ngi
ngi ỏnh gic gi nc. Lc lng ch yu l ngi dõn thuc cỏc b lc, b tc
vi trang b v khớ thụ s - cụng c sn xut hng ngy. H ó to nờn sc mnh to
ln nh mt thnh trỡ vng chc bo v vng chc b cừi.
T li th ca hai B Trng v ngha quõn: Mt xin ra sch nc thự; Hai
xin em li nghip xa h Hựng; Ba ko oan c lũng chng; Bn xin vn vn s
cụng lnh ny. n Hch tng s, Bỡnh Ngụ i cỏo, mt hc thuyt quõn s
Vit Nam ó hỡnh thnh v phỏt trin ly i ngha thng hung tn, ly chớ nhõn
thay cng bo. Hc thuyt quõn s ú c da trờn nn tng ca chin tranh
nhõn dõn, bit vn dng phộp bin chng: i yu thnh mnh, kt hp lc, th,
thi, mu, cui cựng t ti nguyn vng sõu xa l ginh li v gi vng ch
quyn t nc vi nhng t tng vt thi i: dp tt muụn i chin tranh,
em li thỏi bỡnh muụn thu.


Thc hin, chin tranh nhõn dõn, ton dõn ỏnh gic l mt ngh thut m ni
dung c bn ca nú th hin t chc ng viờn lc lng; th trn ỏnh gic c
ỏo, to ra nhiu cỏch ỏnh hiu qu.
Trong cuc chin tranh bo v T quc, cỏc nh nc phong kin i Vit ó
bit s dng lc lng v trang kt hp vi nhõn dõn biờn gii ỏnh tan, lm tht
bi õm mu lụi kộo nhõn dõn, xõm phm T quc. Thi nh Lý ó huy ng hng

trm vn dõn lp nờn honh trn ỏnh gic sụng Nh Nguyt. Trong tỏc
chin, quõn i triu ỡnh cựng dõn binh do Lý Thng Kit ch huy ỏnh gic
phớa sau lm cho tng gic l Quỏch Qu s hói, ỏn binh bt ng. Khi ta chuyn
sang tn cụng, quõn triu ỡnh ỏnh phớa trc, quõn dõn binh ỏnh phớa sau
lm cho quõn Tng hon lon. Cng do chun b tt lc lng, dõn quõn vựng
Lng Sn, Cao Bng phi hp vi quõn triu ỡnh tn cụng sang nc Tng nhm
phỏ v th tin cụng ca ch.
Thi nh Trn t chc hi ngh Diờn Hng, cựng nhõn dõn bn cỏch ỏnh
gic. Sau hi ngh ó dy lờn phong tro ỏnh gic lp cụng. Tiờu biu l i dõn
binh ngi Ty Lng Sn do Nguyn Th Lc v Nguyn Lnh ch huy cựng mt
b phn quõn triu ỡnh ó chn c quõn ch trong nhiu ngy ờm. Lc lng
dõn binh Tõy Bc do H Bng, H c, H Chng ó chn ỏnh kiờn quyt quõn
Nguyn Thu Vt, Bch Ht... Khi tin cụng ch Nam Thng Long, lc lng
dõn binh, quõn cỏc l ph ca Trn Thng, Nguyn Kh Lp ó phi hp vi quõn
triu ỡnh ỏnh gic, lp nờn chin cụng Tõy Kt, Hm T, Chng Dng. Thời
Trần kế sách giữ nớc tốt nhất là "chúng chí thành thành" (ý chí dân tộc mạnh hơn
thành luỹ), nâng thuyền, lật thuyền mới biết sức mạnh của dân, "phúc chu thuỷ, tín
dân do thuỷ", thực hiện "khoan th sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".
Khi ngha Lam Sn vi mc tiờu Kộo cựng dõn ra khi lm than, quõn
khi ngha c nhõn dõn ng h mnh m v phỏt trin thnh chin tranh gii
phúng dõn tc. Khi ỏnh gic, i n õu quõn khi ngha cng cht t ngi


theo, ngha quõn nỏh gic õu thỡ nhõn dõn hng ng mnh m ú. Quõn
Lam Sn tin vo Ngh An, Tõn Bỡnh, Thanh Húa, ngi tr thỡ gia nhp ngha
quõn, ngi gi cng tham gia ỏnh gic. Khi tin quõn ra Bc B, c vựng u
tham gia ỏnh gic lp nờn chin thng Tt ng, Chỳc ng, ụng Quang, Chi
Lng. S sỏch cũn ghi li: Ho kit cỏc l kinh ụ v nhõn dõn cỏc l, ph
huyn tp np kộo n ca quõn ht sc liu cht ỏnh gic cỏc x. Trong
kháng chiến chống quân Minh, nghĩa quân Lam Sơn đi đến đâu cũng "đầy đờng rợu bày, chật đất ngời theo....".

Thc hin ton dõn ỏnh gic, Mi ngi dõn l mt ngi lớnh, ỏnh gic
theo cng v, chc trỏch ca mỡnh. Mi thụn, xúm, bn, lng l mt phỏo i dit
gic. C nc l mt chin trng, to ra th trn chin tranh nhõn dõn liờn hon,
vng chc lm cho ch ụng m hoỏ ớt, mnh m hoỏ yu, ri vo trng thỏi b
ng, lỳng tỳng v b sa ly.
Thc tin lch s cng cho ta bi hc vụ giỏ v s khụng vn dng hoc vn
dng sai ngh thut nờn hu qu tht to ln. Thi H Quý Ly cho dự cú thnh cao,
ho sõu nhng khụng chm lo cho dõn, ch lo búc lt tin ca v cụng sc ca dõn
xõy thnh p ly, lm lũng dõn oỏn hn nờn khi gic Minh tin cụng ó tht bi
nhanh chúng. V H Nguyờn Trng (con trai H Quý Ly) ó phi tht lờn vi vua cha
khi c hi v k sỏch ỏnh gic tụi khụng s ỏnh, ch s lũng dõn khụng theo.
Vi ngh thut chin tranh nhõn dõn, ton dõn ỏnh gic, cha ụng ta ó sỏng
to ra nhiu th trn c ỏo, nhiu cỏch ỏnh hiu qu cao. Thế trận đánh giặc
thể hiện "Cử quốc nghênh địch (cả nớc là một chiến trờng) mỗi thôn, xóm, bảng
làng là 1 pháo đài diệt giặc, thế trận này làm cho địch đông mà hoá tản, mạnh hoá
suy, làm cho giặc không phân biệt đợc đâu là chiến tuyến ở đâu, bất cứ chỗ nào
cũng bị ta tiến công. Tổ tiên ta đã biết tận dụng u thế của địa hình, vận dụng thủ
đoạn, mu kế, biện pháp để đánh địch: "Thanh nhã", cất dấu lơng thực, đầu độc
nguồn nớc, triệt hạ các điều kiện bảo đảm của giặc trong chiến đấu làm cho địch
mệt mỏi, suy yếu. Thc hin chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, ngoi


quân Triều đình, quân các lộ phủ và lực lợng dân binh làm nòng cốt còn phát huy
đợc các cách đánh của các lực lợng, vận dụng linh hoạt các hình thức đánh giặc
đạt hiệu quả chiến đấu cao nh mai phục (phục kích), đánh viện binh địch nh trận
Chi Lăng - Xơng Giang trong kháng chiến chống quân Minh thế kỷ XV hoặc bất
ngờ (tập kích) nh trận tập kích ở thành Ung - Khâm - Liêm trong kháng chiến
chống Tống thế kỷ XI...
Khi ngha Lam Sn, ngha quõn ó phỏt huy th mnh ca chin tranh gii
phúng dõn tc, sc mnh ca ton dõn, s dng cỏch ỏnh võy hóm thnh, ỏnh

quõn cu vin. Vi t tng gic ụng ta ớt, ly ớt ỏnh ụng, ch ni t him
mi c cụng v thc hin nh ngi n ch khụng ngi nh n trong
trn Chỳc ng, Tt ng.
Trong Khi ngha Tõy Sn, ngha quõn ó s dng k sỏch nghi binh thm
dũ, a mt b phn linh thuyn tin ỏnh phớa trc mt s trn thm dũ ri b
chy, mt khỏc sai ngi i m phỏn vi tng Xiờm, lm cho ch cng ch quan,
ỏnh giỏ sai v ta. Chỳng nhm tng quõn Tõy Sn nh yu, nờn quõn Xiờm Nguyn li dng lỳc nc cng, giú chng ờm ngy 8 thỏng chp nm Giỏp
Thỡn (18/01/1975) a ton b thuyn binh t Tr Tõn tin thng n M Tho,
tiờu dit quõn Tõy Sn. Bit ý nh quõn ch, quõn Tõy Sn t chc phc kớch trờn
sụng Tin Giang, tp trung tiờu dit ch trờn an sụng Rch Gm - Xoi Bỳt. Tn
dng a hỡnh kớn ỏo, quõn Tõy Sn b trớ thuyn binh chn ỏnh u, khoa uụi,
hóm ch trong khu quyt chin, ỏnh ch t hai bờn sn. Vi th trn hip ng
chin u thy, b, phỏo, quõn Tõy Sn ó tiờu dit gn 5 vn quõn Xiờm - Nguyn.
Trong ỏnh gic, cha ụng ta ó tn dng a hỡnh, xõy dng th trn lng,
nc vng chc, vn dng sỏng to cỏch ỏnh ca nhiu lc lng, nhiu th quõn.
Vn dng rng rói, sỏng to nhiu hỡnh thc ỏnh gic t hiu qu cao nh:
phũng ng sụng Cu, phc kớch Chi Lng, phn cụng Chng Dng, Hm t, tin
cụng Ngc Hi, ng a


2. Vũ khí công nghệ cao (VKCNC) là hệ quả của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ trong lĩnh vực quân sự. Nó được đánh giá bằng hàm lượng giá trị
công nghệ chứa trong vũ khí đó. Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp
của Liên hợp quốc) thì VKCNC hiện nay gồm 8 loại chủ yếu, đó là: vũ khí điều
khiển chính xác thế hệ mới, vũ khí tàng hình, vũ khí tác chiến điện tử, vũ khí năng
lượng định hướng (vũ khí la-de, vũ khí chùm hạt…), vũ khí vi-ba, pháo điện từ, vũ
khí thông minh và vũ khí vũ trụ. Về lý thuyết sản xuất cũng như thực tiễn sử dụng
đều cho thấy, nhiều loại VKCNC có ưu điểm nổi bật là: khả năng tự điều khiển, tự
nhận biết mục tiêu, khả năng tự loại bỏ nhiều yếu tố khí tượng, đặc biệt là khả
năng tiến công từ xa, độ chính xác và khả năng sát thương “mềm”, sát thương

“cứng”. Nói cách khác, VKCNC là vũ khí thế hệ mới, có sự vượt trội về tính năng
kỹ thuật, chiến thuật so với hệ vũ khí thông thường.
Các nhà lý luận quân sự mác-xít từng chỉ ra rằng, vũ khí, kỹ thuật chiến đấu
mới ra đời và việc chúng được trang bị với số lượng lớn cho quân đội bao giờ cũng
dẫn đến những biến đổi lớn về tổ chức bộ đội và nghệ thuật quân sự. Ph. Ăngghen
viết: “Sự tiến bộ về kỹ thuật, một khi đã có thể áp dụng được và được áp dụng vào
trong lĩnh vực quân sự, thì lập tức và hầu như cưỡng bức, thường thường là ngược
lại với ý muốn của cấp chỉ huy-phải có những sự thay đổi, thậm chí những sự đảo
lộn cả về phương pháp tác chiến”.
Thật vậy, sự ra đời của VKCNC và việc chúng được sử dụng ngày càng phổ
biến trong một số cuộc chiến tranh gần đây cho thấy, VKCNC đã có sự tác động sâu
sắc đến những vấn đề lý luận và thực tiễn quân sự nói chung, nghệ thuật quân sự nhất
là phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc nói riêng.
Một là, làm thay đổi các loại vũ khí trang bị kỹ thuật được sử dụng trong
chiến tranh. Chiến tranh trong tương lai vũ khí sẽ càng ngày càng hiện đại. Tiến
công bằng vũ khí công nghệ cao được kẻ thù sử dụng là chủ yếu, là phương thức


tiến hành chiến tranh kiểu mới đồng thời là biện pháp tác chiến của địch. Nhiều
loại vũ khí “thông minh”, “tinh khôn” ra đời và sẽ được sử dụng nhằm mục đích
giành quyền làm chủ trên không, làm chủ chiến trường, đánh hủy diệt làm “mềm
hóa chiến trường” và phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đánh qụy khả năng
chống trả của ta, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng tiến công trên bộ, trên
biển, đổ bộ đường không và các hoạt động bạo loạn lật đổ của lực lượng phản động
bên trong lãnh thổ. Vũ khí công nghệ cao có khả năng tự động hoá cao, nó thay thế
dần sức lực và hành động con người trên chiến trường. Ngoài ra nó có tầm bắn
(phóng) xa, độ chính xác cao, uy lực sát thương lớn, ít phụ thuộc vào điều kiện địa
hình, thời tiết. Đồng thời vũ khí công nghệ cao có hoả lực và sức đột kích rất
mạnh, là thế mạnh của kẻ thù. Vì vậy, để chiến tranh nhân dân của ta đánh thắng
tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch đòi hỏi ta phải linh hoạt, sáng tạo kết

hợp các loại vũ khí trang bị thô sơ, tương đối hiện đại và hiện đại với khả năng cao
nhất của ta để đánh trả quân địch có vũ khí công nghệ cao. Phải tìm ra và biết cách
hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của vũ khí công nghệ cao của địch vì đôi
khi càng hiện đại thì càng bị khắc tinh bởi những thứ đơn giản.
Hai là, làm thay đổi nhận thức và hành động của con người trong tác chiến.
Chiến tranh tương lai đòi hỏi người chiến sỹ phải có trình độ nhận thức, khai thác và
làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới tiên tiến và hiện đại, phải có trình độ hiểu biết
về khoa học kỹ thuật nhất là kiến thức về tác chiến điện tử và tin học. Nhiều hành
động và việc làm của người chiến sỹ trên chiến trường sẽ được máy móc, phương
tiện thay thế. Thậm chí hành động chiến đấu cơ bản là ngồi trong phòng lạnh, điều
khiển vũ khí trang bị qua màn hình máy tính và ra lệnh hoặc không ra lệnh tiến
công. Chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao sẽ là chiến tranh phi tiếp xúc và phi
đối xứng. Con người chủ yếu tập trung vào việc điều khiển vũ khí trang bị, trinh sát,
điều chỉnh, điều khiển và “ấn nút”. Do đó đòi hỏi người chiến sỹ phải có nhận thức


và trình độ cao, luôn làm chủ và khai thác hết tính năng của vũ khí trang bị, ra lệnh
cho máy móc, vũ khí trang bị kỹ thuật thực hiện theo ý đồ tác chiến của mình.
Ba là, làm thay đổi phương thức tác chiến và nghệ thuật quân sự trong
chiến tranh. Chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao là chiến tranh phi tiếp xúc,
đánh chính xác từ xa, không phân tuyến, ít bị hạn chế bởi địa hình tác chiến; không
gian tác chiến có xu hướng hẹp nhưng chiến trường lại mở ra rất rộng; tác chiến
tiến công đường không và chống tiến công đường không; tác chiến điện tử là loại
hình tác chiến chủ yếu; tính ác liệt, biến động cao, thương vong và tiêu hao vật
chất, trang bị kỹ thuật lớn. Sử dụng phương thức tác chiến liên hợp và phi đối xứng
trong đó quân xâm lược sử dụng và phát huy sức mạnh vượt trội của mình đánh
vào điểm yếu, chỗ yếu để tiêu diệt đối phương. Chiến tranh diễn ra quyết liệt và
phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình, các tình huống diễn ra mau lẹ, khẩn
trương, tính biến động, bất ngờ cao, tổn thất thương vong lớn, hậu quả kéo dài. Các
hoạt động tác chiến tiến hành đan xen, đồng thời với xu hướng ngày càng gần

nhau. Phòng ngự sẽ mang tính tích cực hơn, muốn tiến công phải tổ chức phòng
ngự tốt. Chuyển hoá giữa các hướng chủ yếu, thứ yếu, giữa tiến công và phòng
ngự, thắng và bại sẽ nhanh chóng. Chiến tranh sẽ diễn ra trên không gian rộng
nhiều chiều. Hình thái chiến tranh nhìn chung không phân tuyến, hậu phương tiền
tuyến khó phân biệt. Tuy nhiên sớm hay muộn gì vẫn xuất hiện lực lượng trực tiếp
tác chiến trên chiến trường. Vì vậy, nhìn chung trong giai đoạn đầu ta cơ động
phòng tránh để bảo toàn lực lượng là chính. Đến khi lực lượng địch xuất hiện trên
chiến trường ta mới tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp…Tất cả các yếu tố
đó sẽ tác động tới phương châm tiến hành, nghệ thuật quân sự vận dụng trong
chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc.
3. Để phòng chống địch tiến công hoả lực bằng vũ khí công nghệ cao trong
chiến tranh tương lai có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn Đảng, toàn


quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị trên tất cả các lĩnh vực từ nhận thức đến
hành động. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng phòng chống địch
tiến công hoả lực có hiệu quả trong mọi tình huống. Mọi công tác chuẩn bị của các
cấp, các ngành và của người dân phải được chuẩn bị ngay từ thời bình, chống chủ
quan, coi nhẹ, luôn luôn theo dõi chặt chẽ, đánh giá đúng, chính xác âm mưu thủ
đoạn của kẻ thù, khả năng sử dụng vũ khí công nghệ cao và những phát triển mới về
vũ khí trang bị, phương pháp tác chiến trong chiến tranh tương lai của địch. Công
tác chuẩn bị phải chu đáo từ thế trận phòng tránh, đánh trả, đến công tác huấn luyện,
diễn tập cách phòng chống tiến công hoả lực của địch bằng vũ khí công nghệ cao.
Nghệ thuật quân sự trong thời bình, ứng phó với chiến tranh công nghệ cao
chứa đựng những nội dung mới so với nghệ thuật quân sự trong chiến tranh. Nhiệm
vụ đặt ra cho nghệ thuật quân sự ngày nay là phải được phát triển vượt bậc về trình
độ khoa học công nghệ trong quân sự và nghệ thuật tác chiến trong điều kiện chiến
tranh mới, để chống lại vũ khí công nghệ cao. Dưới góc độ phát huy, vận dụng sáng
tạo nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc trong điều kiện địch sử
dụng VKCNC, thiết nghĩ chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Tăng cường giáo dục quốc phòng an ninh, nâng cao hiểu biết về vũ khí công
nghệ cao của địch nhất là biện pháp phòng tránh cho nhân dân.
Trong những năm qua, từ khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 12- CT/TƯ
ngày 03 tháng 5 năm 2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
giáo dục quốc phòng an ninh trong tình hình mới và Nghị định giáo dục quốc
phòng an ninh số 116/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ thì công tác giáo dục
quốc phòng an ninh cho toàn dân không ngừng được tăng cường. Việc tiến hành
công tác giáo dục quốc phòng an ninh được triển khai cơ bản, đồng bộ, chặt chẽ ở


mọi cấp, mọi nghành, mọi địa phương, từ Trung ương đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Thông qua công tác giáo dục quốc phòng an ninh làm cho nhân dân nhận thức
đúng về các quan điểm đường lối quân sự của Đảng, phương châm chỉ đạo, phương
thức tiến hành, nghệ thuật quân sự vận dụng trong chiến tranh nhân dân toàn dân
đánh giặc và đó là cơ sở điều kiện để nhân dân tham gia chiến tranh nhân dân có
hiệu quả hơn. Mặt khác, thông qua công tác giáo dục quốc phòng an ninh đã trực
tiếp nâng cao nhận thức cho nhân dân về âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, hiểu đúng
đắn về vũ khí công nghệ cao của địch để có biện pháp phòng chống nó có hiệu quả.
Vũ khí công nghệ cao cho dù có cao đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng là do con
người chế tạo ra nên con người sẽ có cách để chế khắc nó, càng hiện đại thì càng bị
vô hiệu bởi những thứ thô sơ nhất, đơn giản nhất. Vì vậy cần tuyên truyền, giáo dục
nhân dân không nên quá đề cao, tuyệt đối hoá uy lực của vũ khí công nghệ cao dẫn
đến tâm lí hoang mang, lo sợ khi đối mặt. Ngược lại, cũng không được coi thường
đánh giá thấp nó dẫn đến chủ quan mất cảnh giác, không chủ động đề phòng. Thông
qua công tác giáo dục quốc phòng an ninh hướng dẫn nhân dân linh hoạt, sáng tạo
trong phòng chống trinh sát; nắm chắc thời cơ, nhanh chóng cơ động, phân tán, sơ
tán, phòng tránh, giảm thiểu tổn thất khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; mưu trí
dũng cảm, phát huy mọi thứ vũ khí, phương tiện có trong tay để tiêu diệt và đánh trả
có hiệu quả vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh.

Tổ chức phòng, chống, làm giảm hiệu quả trinh sát, che dấu lực lượng
phương tiện và nghi binh lừa dụ địch.
Hệ thống trinh sát là một trong những hệ thống bảo đảm quan trọng nhất của
vũ khí công nghệ cao, vũ khí công nghệ cao sẽ không sử dụng được nếu không
trinh sát được. Khi các phương tiện thực hành trinh sát đều thông qua việc tìm
kiếm các dấu hiệu đặc trưng của mục tiêu. Vì vậy, sử dụng các biện pháp kĩ chiến


thuật làm hạn chế đặc trưng của mục tiêu, xoá bỏ sự khác biệt giữa mục tiêu với
môi trường xung quanh là có thể phòng chống trinh sát của địch. Triệt để lợi dụng
môi trường tự nhiên như đêm tối, sương mù, mây mưa, địa hình địa vật, rừng cây,
bụi cỏ, hang động, gầm cầu… để che giấu âm thanh, ánh sáng, bức xạ điện từ, bức
xạ nhiệt. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động của ra đa và các thiết bị thông tin liên lạc.
Sử dụng các khí tài ngụy trang như màn khói, màn che, lưới ngụy trang... để chống
trinh sát hữu hiệu và kinh tế. Thay đổi phổ tần quang học hoặc phản xạ điện từ, đặc
tính bức xạ nhiệt của mục tiêu… khiến chúng gần như hoà nhập vào môi trường
xung quanh. Thông qua việc làm thay đổi hình thể của mục tiêu khiến mục tiêu
không bị địch chú ý. Đặc biệt tổ chức nghi binh, tạo hiện tượng giả để đánh lừa
địch làm sai số kết quả trinh sát của địch, làm cho địch nhận định sai dẫn đến hành
động sai. Đồng thời, tổ chức tốt việc bày giả, dấu thật, thực hư, hư thực, thật giả
lẫn lộn đánh lừa, mê hoặc đối phương. Lừa dụ địch đánh bằng vũ khí công nghệ
cao vào những mục tiêu giả có giá trị thấp làm chúng tiêu hao lớn. Gây nhiễu các
trang bị trinh sát của địch, làm giảm hiệu quả trinh sát hoặc làm cho chúng không
trinh sát được dẫn đến không thể sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Tổ chức nhân dân phân tán lực lượng, cơ động phòng tránh kết hợp với chủ
động đánh trả vũ khí công nghệ cao, phá thế tiến công của địch.
Tổ chức và hướng dẫn nhân dân, lực lượng vũ trang ở địa phương, cơ sở cơ
động, sơ tán và phân tán lực lượng, thu nhỏ quy mô các lực lượng lớn. Bố trí các lực
lượng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và đặc điểm địa hình, mỗi đơn vị có thể thực
hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ phòng thủ, tiến công, cơ động chi viện... Tổ chức phân

tán lực lượng không theo quy tắc, xây dựng khu vực tác chiến du kích, nhỏ lẻ, đa
năng, nhưng sẵn sàng tập trung khi cần thiết làm giảm thiểu tổn thất khi địch sử dụng
vũ khí công nghệ cao, gây khó khăn cho địch trong việc trinh sát phát hiện mục tiêu,


phán đoán tình hình, làm giảm hiệu quả tác chiến của địch. Đồng thời tăng khả năng
chiến đấu độc lập, giảm bớt sự chi viện, tránh được tổn thất cho lực lượng dự bị.
Sử dụng tổng hợp các loại vũ khí, kết hợp vũ khí thô sơ, vũ khí tương đối
hiện đại và hiện đại để đánh địch. Rèn luyện ý chí chiến đấu quyết đánh và biết
thắng vũ khí công nghệ cao của địch cho nhân dân, làm cho mỗi người dân biết sử
dụng thành thạo các vũ khí có trong tay để tiêu diệt địch, phá hủy vũ khí công nghệ
cao của địch. Dù kẻ địch tiến công từ hướng nào, khu vực nào, sử dụng vũ khí
công nghệ cao đến mức nào chúng ta cũng linh hoạt, sáng tạo, tìm mọi cách đánh
trả có hiệu quả và làm vô hiệu hoá vũ khí công nghệ cao của địch, đập tan ý chí
xâm lược của kẻ thù.
Kết hợp chặt chẽ giữa phòng tránh với đánh trả địch tiến công bằng vũ khí
công nghệ cao. Vận dụng tổng hợp các giải pháp, biện pháp, các hoạt động một
cách có tổ chức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong chuẩn bị và thực hành
phòng tránh, đánh trả bảo đảm an toàn cho nhân dân và các thành phần lực lượng,
giữ vững sản xuất, đời sống, sinh hoạt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Phòng tránh, đánh trả tiến công bằng vũ khí công nghệ cao của địch là hai mặt của
một vấn đề, có quan hệ, tác động lẫn nhau một cách biện chứng, đan xen nhau.
Phòng tránh tốt là điều kiện để đánh trả có hiệu quả. Đánh trả có hiệu quả tạo điều
kiện để phòng tránh an toàn và chúng ta cần hiểu rằng trong phòng tránh có đánh
trả, trong đánh trả có phòng tránh. Thực tiễn trong những năm chống chiến tranh
phá hoại miền Bắc của đế quốc Mĩ trước đây, công tác phòng không nhân dân đã
có vị trí vai trò to lớn trong việc bảo vệ nhân dân, bảo vệ các mục tiêu quan trọng
của miền Bắc. Những kinh nghiệm tổ chức phòng tránh trong các cuộc chiến tranh
gần đây của Mĩ và đồng minh vào Irắc, Nam Tư... là những kinh nghiệm rất bổ ích,
chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng chúng ta sẽ tổ chức tốt công tác phòng tránh,

đánh trả địch tiến công bằng vũ khí cao trong chiến tranh tương lai. Trong phòng


tránh phải triệt để tận dụng ưu thế địa hình tự nhiên để cải tạo và xây dựng công
trình theo ý định, chiến lược chung trên phạm vi toàn quốc, trên từng hướng, từng
địa bàn cụ thể, từng khu vực phòng thủ địa phương. Đánh trả tiến công bằng vũ khí
công nghệ cao của địch nhằm tiêu diệt, phá thế tiến công của địch, bảo vệ chủ
quyền, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản
xuất... Đánh trả có hiệu quả là vấn đề cốt lõi nhất của phòng tránh, là biện pháp
tích cực, chủ động để bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ mục tiêu, bảo toàn lực
lượng chiến đấu. Với điều kiện và khả năng của ta, việc tổ chức đánh trả phải có
trọng điểm, đúng đối tượng, đúng thời cơ, bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí,
trang bị, đánh rộng khắp, từ xa đến gần, mọi độ cao, mọi hướng khác nhau, đánh
địch bằng sức mạnh tổng hợp, bằng lực, thế, thời, mưu... Vận dụng linh hoạt các
hình thức, phương pháp tác chiến vừa vệ mục tiêu, vừa cơ động phục kích đón
lõng, kết hợp vừa phòng tránh vừa đánh trả. Ngoài những vấn đề trên, cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống phòng thủ dân sự, đây là nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng
của nền quốc phòng toàn dân. Từng địa phương và cả nước phải được tiến hành
ngay trong thời bình nhằm bảo vệ nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, duy trì sản xuất,
ổn định đời sống nhân dân. Nếu việc tổ chức phòng thủ dân sự không tốt, không có
giải pháp để phòng chống vũ khí công nghệ cao của địch trong chiến tranh, không
những chỉ tổn thất về người mà còn dẫn đến hoang mang, dao động, giảm sút ý chí
quyết tâm kháng chiến của nhân dân.
Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị với hầm ngầm để tăng khả năng phòng
thủ của đất nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước những năm gần đây, hầu hết các địa
phương trong cả nước đã có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt nhất là hạ tầng cơ
sở. Đời sống xã hội có nhiều thay đổi, các thành phố ngày càng mở rộng, cơ sở hạ
tầng phát triển, các khu trung tâm kinh tế công nghiệp ngày càng nhiều, đô thị hóa



ngày càng nhanh, mật độ dân cư ngày càng cao. Cùng với sự phát triển chung đó
chúng ta cần quan tâm đúng mức đến phát triển cơ sở hạ tầng như điện, đường,
kho, trạm...kết hợp với các công trình quốc phòng an ninh để bảo đảm an toàn cho
người và trang bị trong mọi diễn biến tình hình. Trong quy hoạch xây dựng không
nên xây dựng các thành phố quá đông dân cư, các khu công nghiệp tập trung quá
lớn mà xây dựng nhiều thành phố vệ tinh, nhiều khu công nghiệp quy mô trung
bình và phân bổ rộng khắp theo hướng cài xen lợi ích. Chú trọng phát triển mạng
giao thông rộng khắp. Xây dựng các tuyến đường cao tốc kết hợp tạo thành những
đoạn đường băng dã chiến máy bay có thể cất hạ cánh trong thời chiến. Xây dựng
cầu, cống kết hợp với sử dụng các bến phà, bến vượt, ngầm vượt. Xây dựng các
công trình giao thông công cộng lớn phải kết hợp xây dựng các hạng mục công
trình ngầm như hầm đi bộ, hầm đường bộ xuyên núi. Xây dựng các nhà cao tầng
phải tính đến số lượng tầng cao hợp lư để giảm bớt tổn thất trong chiến tranh khi
địch phá hoại bằng vũ khí công nghệ cao. Các công trình lớn của quốc gia và các
địa phương phải có tầng hầm, thời bình làm kho, nhà xe, thời chiến làm hầm ẩn
nấp cho con người và trang bị. Xây dựng các nhà máy thuỷ điện phải tính đến
phương án phòng chống máy bay đánh bom phá đập gây lũ lụt. Và trong tương lai
chúng ta phải tính đến việc xây dựng các tuyến đường xe điện ngầm ở các thành
phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Đó vừa là các công trình hạ tầng đô
thị vừa là các công trình có giá trị về quốc phòng an ninh để cất giữ lực lượng,
phương tiện khi địch phát động chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh tạo nền tảng huy động sức
mạnh của toàn dân.
Hệ thống chính trị cơ cở là nền tảng của xã hội của đất nước đồng thời là nền
tảng để huy động sức mạnh của toàn dân trong chiến tranh nhân dân toàn dân đánh
giặc. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở thực chất là xây dựng các cấp uỷ Đảng,


chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương cơ sở vững mạnh tạo thành

nền tảng và cơ chế để xây dựng và huy động mọi nguồn lực của các cấp, các
nghành, các tổ chức và trong nhân dân ở địa phương cơ sở vào thực hiện nhiệm vụ
quân sự quốc phòng, vào chiến tranh đồng thời định hướng chính trị cho các hoạt
động đó ở cơ sở. Cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở địa
phương cơ sở là chủ thể tiến hành công tác quân sự quốc phòng ở địa phương, biến
sức mạnh vô địch tiềm ẩn trong nhân dân thành sức mạnh quân sự của Nhà nước,
sức mạnh và đòn đánh cụ thể trên chiến trường để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Chỉ khi nào cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương cơ
sở được xây dựng vững mạnh thì mới xây dựng và huy động sức mạnh của các cấp,
các nghành, các tổ chức và toàn dân cho công tác quân sự quốc phòng và chiến
tranh. Ngược lại nếu các cơ sở chính trị ấy không được xây dựng vững chắc thì việc
xây dựng và huy động sức mạnh đó sẽ gặp khó khăn. Trong khi thực trạng hiện nay,
vai trò, uy tín, niềm tin và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều
nơi giảm sút thì việc xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh càng có ý nghĩa quan
trọng ngay từ thời bình chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai nếu chiến tranh sảy ra.
Để xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh trước hết phải củng cố và giữ vững
trận địa chính trị tư tưởng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ra sức xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng thực sự trong sạch vững
mạnh gắn với đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
cấp uỷ cơ sở. Chú trọng xây dựng và củng cố các tổ chức chính trị khác ở cơ sở
vững mạnh toàn diện, làm việc đúng chức năng, nhiệm vụ nhất là bộ máy chính
quyền. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên ở cơ sở. Đổi
mới và cải cách thủ tục hành chính, xây dựng nền nếp và quy chế làm việc gần
dân, tôn trọng nhân dân, sâu sát thực tế. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ


ở cơ sở gắn với kỷ luật, kỷ cương. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, loại trừ những việc làm sai trái, tiêu cực để xây dựng và củng cố
lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ Đảng và chính quyền cơ sở.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và các tổ chức quần chúng vững mạnh
để đoàn kết và tập hợp nhân dân.
Khối đại đoàn kết toàn dân chính là động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Còn các tổ chức quần chúng là diễn đàn để tập hợp,
đoàn kết đông đảo quần chúng nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và
các tổ chức quần chúng vững mạnh cũng chính là cơ sở để đoàn kết, tập hợp, phát
huy sức mạnh của nhân dân trong các phong trào hành động cách mạng đặc biệt là
trong chiến tranh (nếu sảy ra). Các tổ chức quần chúng ở cơ sở cũng chính là nơi
trực tiếp tập hợp, quản lý, giáo dục, rèn luyện quần chúng nhân dân, là diễn đàn
chính trị sâu rộng, là nơi quần chúng phát huy dân chủ, nghĩa vụ và trách nhiệm
công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, chiến tranh
nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trạng thái đặc biệt của
đời sống xã hội đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội và nhân
dân. Do đó, phải xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và các tổ chức quần chúng
vững mạnh, đồng thời việc xây dựng đó phải được tiến hành ngay từ trong thời
bình, tạo thành cơ sở xã hội vững chắc.
Trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và các tổ chức quần chúng phải
luôn quan tâm chăm lo bảo đảm tốt, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho các tầng lớp nhân dân. Triệt để giải quyết những khó khăn, vướng mắc
trong đời sống chính trị tinh thần, không để tạo thành bức xúc kéo dài trong nhân
dân, không để tạo thành những điểm nóng trong xã hội. Đẩy mạnh thực hiện các
phong trào hành động cách mạng trong nhân dân, nhất là phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới


ở địa phương. Xây dựng đời sống văn hóa mới phong phú, lành mạnh trong các
cộng dồng dân cư, đẩy lùi văn hóa xấu độc. Tổ chức vận động và hướng dẫn quần
chúng nhân dân đông đảo tham gia các phong trào hành động cách mạng, thông
qua đó để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và các tổ chức quần chúng vững
mạnh. Có như thế khi chiến tranh sảy ra mới huy động được sức mạnh tổng hợp

trong nhân dân cho chiến đấu chống lại kẻ thù.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là cuộc
chiến tranh do nhân dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Chiến tranh nhân dân là nét đắc sắc, độc đáo và sáng tạo Việt Nam
trong dánh giặc giữ nước, thực chất là toàn dân tham gia đánh giặc. Đây vừa là đặc
trưng, vừa là nội dung cơ bản của phương châm chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân
dân, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ cuộc kháng chiến mà chúng ta
tiến hành, là cơ sở, nền tảng để huy động sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân vào
kháng chiến. Đó là mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi giai cấp, tầng lớp
xã hội, mọi dân tộc, mọi tôn giáo, mọi vùng miền đều tham gia đánh giặc, toàn dân
đánh giặc và đánh giặc toàn diện.
Tuy nhiên trong tương lai, nếu chiến tranh sảy ra với đất nước ta sẽ là chiến
tranh bằng vũ khí công nghệ cao. Những tác động của chiến tranh bằng vũ khí
công cao đến phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân đánh giặc là
sâu sắc và toàn diện. Vì vậy để giành thắng lợi chúng ta cần tập trung một số giải
pháp là: tăng cường giáo dục quốc phòng an ninh, nâng cao hiểu biết về vũ khí
công nghệ cao của địch nhất là biện pháp phòng tránh cho nhân dân; tổ chức phòng
chống, làm giảm hiệu quả trinh sát, che dấu lực lượng phương tiện và nghi binh lừa
dụ địch; phân tán nhân dân, cơ động phòng tránh kết hợp với chủ động đánh trả vũ
khí công nghệ cao, phá thế tiến công của địch; kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng đô


thị với hầm ngầm để tăng khả năng phòng thủ của đất nước; xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở vững mạnh tạo nền tảng huy động sức mạnh của toàn dân; xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân và các tổ chức quần chúng vững mạnh để đoàn kết
và tập hợp nhân dân.




×