Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng lao phổi AFB (+) ở phụ nữ lứa tuổi 20 40 ở bệnh viện lao và bệnh phổi hải phòng (2013 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.74 KB, 51 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bênh lao gắn liền với sự xuất hiện của loài người, từng được xem là bệnh
di truyền và không chữa được. Song mãi đến năm 1882, Robert Koch tìm ra
nguyên nhân gây bệnh là trực khuẩn lao (Mycobacteria Tuberculosis), từ đó mở
ra một kỷ nguyên mới về chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh lao. Những tiến
bộ của khoa học kĩ thuật đã giúp loài người tìm ra thuốc chữa bệnh, trong đó có
thuốc chống lao. Nhưng phải sau hơn 50 năm, một số thuốc có tác dụng tiêu diệt
vi khuẩn lao như Streptomycin(1944) mới được phát hiện. Và khi các thuốc
chống lao đặc hiệu khác lần lượt ra đời: Rimifon (1952), Rifampicin (1965), loài
người tưởng rằng có thể thanh toán bệnh lao một cách dễ dàng, nhưng thực tế đã
trả lời không phải như vậy. Tháng 4 năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG)
đã công bố: “Bệnh lao quay trở lại và trở thành vấn đề khẩn cấp toàn cầu”. Trong
đó nguyên nhân chủ yếu là sự xuất hiện của đại dịch HIV/AIDS và sự kháng
thuốc. [2][4][22]
Theo số liệu ước tính của TCYTTG hiện nay 1/3 dân số thế giới đã bị
nhiễm lao, hàng năm có khoảng 10 triệu trường hợp lao mới và 3 triệu người chết
do lao. Bệnh lao là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong các bệnh nhiễm trùng.
Có thể nói không một bệnh nhiễm khuẩn nào do một loại vi khuẩn gây nên mà
nhân loại mắc nhiều như bệnh lao. Không một châu lục, không một quốc gia nào
là không có người mắc và chết vì lao. Tỷ lệ tử vong do bệnh lao chiếm 25% tổng
số tử vong do mọi nguyên nhân. Khoảng 95% số bệnh nhân lao và 98% số người
chết do lao ở các nước có thu nhập vừa và thấp, 75% số bệnh nhân lao cả nam và
nữ ở độ tuổi lao động. Hơn 33% sô bệnh nhân lao toàn cầu tập trung tại khu vực
Đông – Nam Á. Bệnh lao là bệnh nhiễm khuẩn gây tử vong ở phụ nữ nhiều nhất,
đã có gần 1 tỉ phụ nữ mắc lao và số mắc lao mới hàng năm là 2,5 triệu, phần
đông những người tử vong do lao ở lứa tuổi sinh đẻ và nuôi con.[6] [18]
Ở Việt nam, bệnh lao vẫn còn nặng nề, xếp thứ 12 trong 23 nước có số bệnh
nhân lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có tình hình lao đa kháng và
siêu kháng cao. Mỗi năm ở Việt Nam có 145.000 người mới mắc bệnh, trong đó




2

chừng 65.000 ngưòi bị lao phổi khạc ra vi khuẩn lao, số người chết do lao ước
chừng 20.000 người một năm, nguy cơ nhiễm lao hàng năm khoảng 1,7%. Tình
hình bệnh lao trong nam giới Việt Nam giảm ở tất cả các nhóm tuổi, nhưng ở
phụ nữ nhóm tuổi từ 15-34 lại tăng 1,4% mỗi năm. Phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ
và nuôi con dễ bị mắc lao hơn so với các lứa tuổi khác và nam giới. Bệnh lao ở
phụ nữ dễ dàng phát triển ở bất kỳ giai đoạn nào khi mang thai, sau đẻ và nuôi
con.[6] [18][21]
Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 50% dân số, cũng là lực lượng lao động chính
trong gia đình và xã hội. Phụ hằng ngày tiếp xúc, gần gũi để chăm sóc chồng con
và các thành viên khác trong gia đình, tác động đến phụ nữ là tác động đến toàn
gia đình và cộng đồng. Đặc biệt ở phụ nữ, nó làm ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản và sự phát triển của thai nhi. Hơn nữa, xã hội phát triển, phụ nữ ngày càng
quan tâm đến sức khỏe của mình nhiều hơn[21].
Ở Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng từ trước đến nay có rất nhiều
công trình nghiên cứu về lao phổi ở người già, người trẻ, thanh niên, sinh viên,
nam giới… xong có rất ít các công trình nghiên cứu về phụ nữ, vì vậy chúng tôi
thực hiện khóa luận này với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng lao phổi AFB (+) ở phụ nữ
lứa tuổi 20 - 40 ở Bệnh viện lao và bệnh phổi Hải Phòng (2013- 2014).


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH BỆNH LAO HIỆN NAY

1.1.1. Tình hình bệnh lao trên thế giới
Năm 1882 Robert Koch mới tìm ra nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn
lao gọi là (Bacillus de Koch). Từ đó mở ra kỷ nguyên mới về nghiên cứu bệnh
lao. Đến năm 1944 thuốc chống lao đầu tiên là Streptomycine được tìm ra, sau
đó một loạt các thuốc chống lao có hiệu quả ra đời (Pyrazinamid, Rifampicine...).
Vì vậy trong hơn 2 thập kỷ từ 1962-1986). Trong nhiều hội nghị quốc tế người ta
đã đề cập đến vấn đề thanh toán bệnh lao .[2]
Nhưng vào tháng 4/1993, sau hơn 100 năm tìm ra vi khuẩn lao TCYTTG đã
báo động tới các nước sự quay trở lại của bệnh lao với tuyên bố:" Bệnh lao quay
trở lại và trở thành vấn đề khẩn cấp toàn cầu". Bệnh lao đang gia tăng ở nhiều
nước trên thế giới kể cả những nước phát triển và đang phát triển.[25]
+ Ở Hoa Kỳ: từ năm 1985 trở về trước số bệnh nhân thu nhận hàng năm
giảm 6%. Nhưng từ 1986-1990, số người mắc lao tăng lên 12%.[22]
+ Ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) bệnh lao đã giảm liên tục trong vòng 40 năm
nhưng trong khoảng 2 năm từ 1990 - 1992 bệnh lao lại tăng lên ở 20/27 nước với
tỷ lệ phát hiện 19-80/100.000 dân[34][35].
+ Ở các nước Châu Âu trong thập kỷ 90 bệnh lao cũng gia tăng: Thụy Sỹ
tăng gần 40%. Đan Mạch tăng gần 30% , Anh quốc tăng 3,9%.[14][32]
+ Ở châu Phi: Tại Tanzania bệnh nhân lao được phát hiện năm 1990 là
22.544 người (tăng 80% so với năm 1984) tại Malawi và Zambia bệnh nhân lao
phát hiện năm 1990 cũng tăng so với năm 1984 tới 180% và 154%.[22]
Nguyên nhân làm cho bệnh lao gia tăng trên thế giới:[3]
+ Trước hết là do đại dịch HIV/AIDS: làm tăng nguy cơ mắc lao, tăng số
bệnh nhân và tăng số chết do lao. Một người bình thường nếu bị nhiễm lao sẽ có


4

nguy cơ 5-10% mắc bệnh lao trong cuộc đời. Nhưng một người nhiễm lao đồng
thời nhiễm HIV thì nguy cơ đó là 30-50%.

+ Đối với các nước công nghiệp phát triển: có nguyên nhân của sự di dân từ
những nơi có độ lưu hành lao cao tới.
+ Tình hình bùng nổ dân số thế giới khiến cho tỷ lệ mắc lao có thể giảm
ít nhiều nhưng số lượng bệnh nhân tuyệt đối thì không ngừng gia tăng trên
trái đất.
+ Do sự lơ là của xã hội và chính phủ cũng như y giới nhiều nước cùng với
việc tổ chức CTCLQG kém cỏi, ít hiệu quả.
+Một hậu quả cực kỳ nguy hại của lý do thứ tư là sự xuất hiện những chủng
vi khuẩn lao kháng thuốc làm giảm hiệu quả của công tác chống lao theo BS.
Kochi (1994) trên thế giới có khoảng 50-100 triệu người nhiễm vi khuẩn lao kháng
nhiều loại thuốc chống lao.
1.1.2. Tình hình bệnh lao tại Việt Nam
Ở Việt Nam bệnh lao vẫn còn phổ biến và ở mức độ cao. Theo CTCLQG
phối hợp với TCYTTG phân tích ước tính nguy cơ nhiễm lao hàng năm ở nước ta
là 1,7% trong đó ở phía Bắc là 1,2%, ở phía nam là 2,2% từ số liệu trên sử dụng
cách tính của Styblo có thể ước tính tình hình bệnh lao ở Việt Nam như sau.[7]
[13]
+ Số mới mắc lao (mọi thể) trong một năm:

145.000

Tương đương với: 189/100.000 dân.
+ Số lao phổi mới AFB (+) trong một năm

65.000

Tương đương với: 85/100.000 dân
+ Tổng số trường hợp lao (số tích luỹ)

290.000


+ Tổng số lao phổi có vi trùng

130.000

+ Tử vong do lao mỗi năm:

20.000

Việt Nam đứng thứ 12 trong 23 nước có số lượng bệnh nhân lao cao trên
toàn cầu. Trong khu vực Tây thái bình dương Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau
Trung Quốc và Phillipines về số lượng bệnh nhân lao. Tình hình dịch tễ lao ở nước ta


5

được xếp vào loại trung bình cao ở khu vực. Theo Tổ chức Y tế Thế giới hiện nay
bệnh lao kháng thuốc là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Kết quả điều trị với
bệnh nhân kháng thuốc thường không cao, nhất là đối với bệnh nhân kháng đa
thuốc. Chi phí điều trị bệnh nhân lao kháng đa thuốc tăng lên hàng trăm lần so
với bệnh nhân lao không kháng thuốc và thậm chí không thể điều trị được ở một
số trường hợp. Hiện nay, tỷ lệ kháng đa thuốc trong bệnh nhân lao mới ở Việt Nam
còn ở mức < 3%, song với số lượng bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới phát hiện tại Việt
Nam hàng năm còn nhiều thì số lượng bệnh nhân kháng đa thuốc không ít.[6]
1.2. TÌNH HÌNH BỆNH LAO THEO TUỔI GIỚI VÀ Ở NGƯỜI TRẺ:
Tuổi và giới có ảnh hưởng rất lớn đến bệnh lao về tỷ lệ mắc bệnh, thể bệnh
vì sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh lao thay đổi theo tuổi và giới.
- Theo Crofton.J. và cộng sự[31]. Bệnh lao theo tuổi giới có thể khái quát
như sau:
Tuổi và giới


Thể bệnh lao

Dưới 1 tuổi

Lao kê

++

Từ 1 tuổi đến tuổi dậy thì

Lao màng não
Lao sơ nhiễm ở phổi

++
+

Thanh niên/người ít tuổi
Trung niên
Nam

Lao kê

+

Lao màng não

+

Lao lan tràn mạn tính


+

(VD: Lao xương khớp)
Lao phổi
+++
Lao phổi

++

Lao phổi

+

Nam

Lao phổi

++

Nữ

Lao phổi

+

Nữ
Tuổi già

(Dấu + chỉ mức độ hay gặp)



6

+ Dưới 1 tuổi do sức đề kháng ở cả hai giới đều yếu nên trẻ hay mắc các
thể lao nặng như: lao kê, lao màng não.
+ Từ 1 tuổi đến tuổi dậy thì : trẻ hay mắc lao sơ nhiễm ở phổi . Tuy nhiên
trẻ từ 10-14 tuổi ( nhất là trẻ gái ) bị suy dinh dưỡng nặng có thể mắc lao hang
giống người lớn. Ở nhóm tuổi này có thể mắc lao kê, lao màng não hoặc một
trong những thể lao lan tràn mãn tính đặc biệt là: lao hạch bạch huyết, lao xương
khớp. Từ khi mới sinh cho đến tuổi dậy thì hầu như không có sự khác biệt giữa
nam và nữ.
+ Ở thanh niên, người trẻ tuổi: Lao phổi mới gặp nhiều nhất đặc biệt là ở
những nước bệnh lao còn phổ biến.
+ Ở tuổi trung niên và tuổi già: Lao phổi cũng hay gặp và tỷ lệ mắc bệnh ở
nam giới cao hơn ở nữ giới.
Qua bảng trên ta thấy rằng: Lao phổi gặp nhiều nhất ở nhóm người trẻ
(thanh niên, người ít tuổi).
- Ở các nước công nghiệp phát triển như phần lớn các nước châu Âu,
Australia, Newzealand, Canada khi bệnh lao có xu hướng giảm dần thì tuổi mắc
lao trung bình tăng lên và bệnh lao gặp nhiều ở người già. Tuy nhiên trong những
năm gần đây bệnh lao bùng nổ trở lại thì bệnh lao có xu hướng tăng lên ở người
trẻ. Như ở Mỹ từ năm 1995 trở lại đây bệnh lao tăng lên đặc biệt ở nhóm người
trẻ làm cho tuổi mắc lao trung bình giảm xuống (từ 49 xuống 43 tuổi).
- Ở các nước nước đang phát triển:Bệnh lao còn phổ biến thì tỷ lệ bệnh gặp
nhiều nhất ở nhóm người trẻ.
+ Ở Senegan (1997) qua nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lao phổi AFB(+) cao
nhất ở nhóm người trẻ.
+ Ở Tanzania[36] nghiên cứu so sánh giữa năm 1995 với năm 1984 cho
thấy tỷ lệ lao phổi AFB(+) tăng lên rõ rệt đặc biệt cao nhất ở nhóm người trẻ tuổi.

+ Ở Hàn Quốc Kim SJ và CS [33]qua điều tra chỉ số lao phổi mới thấy
rằng: chỉ số lao phổi mới còn cao đặc biệt trong nhóm người trẻ từ 20-29 tuổi.


7

+ Ở khu vực Tây Thái Bình Dương theo báo cáo của TCYTTG (2001)[39]
Lao phổi AFB(+) theo tuổi giới có thể khái quát như sau: Khoảng 69% lao phổi
AFB(+) ở nhóm tuổi lao động từ 15-54 tuổi, tỷ lệ bệnh cao nhất ở nhóm người
trẻ 25-34 tuổi (20%). Tỷ lệ bệnh theo giới: Nói chung nam giới mắc bệnh nhiều
hơn nữ giới, tỷ lệ trung bình giữa nam và nữ như sau:Ở nhóm tuổi 0-14 là 0,8 : 1
(Nữ mắc bệnh nhiều hơn nam). Ở nhóm tuổi 15-24 là 1,3: 1 (Nam mắc bệnh
nhiều hơn nữ). Ở các nhóm tuổi cao hơn nam giới mắc bệnh càng nhiều hơn nữ
giới.
+ Ở Việt Nam theo các nghiên cứu về lao phổi cũng cho thấy tỷ lệ bệnh cao
nhất ở nhóm người trẻ. Theo nghiên cứu của Trương Thành Kiên và Nguyễn Huy
Điện(2015) về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng lao phổi mới AFB(+) ở bệnh
nhân nữ tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hải Phòng, nhóm tuổi hay gặp mắc lao
phổi là nhóm từ 16-39 tuổi (40%).[15] Theo chương trình chống lao quốc gia,
75% số bệnh nhân lao cả nam và nữ ở độ tuổi lao động.[6]
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ LAO PHỔI Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
1.3.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của lao phổi:[24][26]
Trong cơ thể mọi cơ quan bộ phận đều có thể bị lao nhưng lao phổi là thể
bệnh gặp nhiều nhất chiếm khoảng 80% tổng số bệnh nhân lao. Lao phổi là
nguồn lây nguy hiểm đặc biệt là lao phổi AFB(+) bằng nhuộm soi trực tiếp. Đây
là nguồn lây chủ yếu làm cho bệnh lao tồn tại ở mọi quốc gia qua nhiều thế kỷ. Ở
nước ta theo ước tính tỷ lệ lao phổi AFB(+) qua soi trực tiếp hàng năm là
85/100.000 dân.
- Nguyên nhân gây bệnh lao phổi: chủ yếu là do vi khuẩn lao người
(Mycobacterium Tuberculosis Hominis), có thể do vi khuẩn lao bò (M. Bovis)

nhưng ít gặp. Ở bệnh nhân lao phổi /HIV(+) nguyên nhân gây bệnh có thể do các
trực khuẩn kháng cồn kháng toan không điển hình(M. Atipiques).Vi khuẩn lao
sinh sản chậm, cứ 20h phân chia tế bào một lần, trong khi phế cầu cứ 15 phút lại
sinh sản một lần. Điều này giải thích tiến triển của lao nặng vẫn mang tính chất
bán cấp hoặc mạn tính nhiều hơn là cấp tính, dựa vào đặc điểm này người ta


8

dùng thuốc chống lao một lần trong ngày và điều trị cách quãng trong giai đoạn
duy trì mà vẫn đạt kết quả tốt.
- Nguồn lây: Tất cả các thể lao đều là nguồn lây, nhưng nguồn lây chủ yếu
là lao phổi, đặc biệt là lao phổi AFB(+) soi trực tiếp
- Cơ chế bệnh sinh của lao phổi: Ngày nay người ta cho rằng bệnh lao có
quá trình diễn biến qua hai giai đoạn và lao phổi nằm trong giai đoạn hai của quá
trình này (bệnh lao hay lao hậu tiên phát) là tổn thương lao phát triển ở cơ thể đã
có dị ứng với lao (phản ứng Tuberculin dương tính) nghĩa là trước đó cơ thể mắc
lao tiên phát đã khỏi hoặc tiếp tục của lao tiên phát (lao sơ nhiễm).
+ Yếu tố nguy cơ: Vi khuẩn lao gây bệnh cho người khi độc tính mạnh và
sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm.
Theo Rossman MD và CS (1999)[37] yếu tố làm suy giảm miễn dịch của
cơ thể đối với lao bao gồm:
.Giảm sức đề kháng không đặc hiệu: độ tuổi thanh thiếu niên, người già,
suy dinh dưỡng, cắt đoạn dạ dày, đái tháo đường, nghiện rượu.
.Giảm sức đề kháng ảnh hưởng bởi hoóc môn: Phụ nữ có thai, điều trị
corticoide kéo dài.
.Tại phổi: Mắc bệnh bụi phổi (silicosis), nghiện thuốc lá...
.Giảm miễn dich do: u lympho, suy thận, điều trị thuốc ức chế miễn dịch,
bệnh sarcoidosis, nhiễm HIV.
.Ở những người tạng gầy,thiếu 10% trọng lượng cơ thể so với người bình

thường có cùng chiều cao.
.Yếu tố di truyền ảnh hưởng đến khả năng mắc lao: tỷ lệ lao ở người sinh
đôi đồng hợp tử cao hơn người sinh đôi dị hợp tử, người có yếu tố HLA-DB2 dễ
mắc lao hơn.
Theo Phạm Khắc Quảng và CS (1989)[27] yếu tố HLA-A34, B12,DRW8 ở
bệnh nhân lao cao hơn người bình thường một cách rõ rệt.
+ Nguồn gốc của lao phổi: Lao phổi là thể bệnh thường gặp ở người lớn có
thể xảy ra theo các cơ chế sau:


9

Tái hoạt động nội tại: cơ chế này được coi là chủ yếu. Vi khuẩn lao ngủ
trong những tổn thương sơ nhiễm cũ đã vôi hóa hoặc trong các huyệt lao di căn ở
đỉnh phổi trong thời kỳ lao tiên phát. Khi sức đề kháng của cơ thể suy giảm BK
thức tỉnh và hoạt động trở lại gây nên lao phổi.
Tái nhiễm ngoại lai: Là mắc lao phổi do nhiễm vi khuẩn lao mới sau khi lao
sơ nhiễm đã khỏi gây nên tổn thương lao mới. Tái nhiễm ngoại lai tuy ít xảy ra ở
những nước phát triển nhưng vẫn gặp nhiều ở những nước đang phát triển có
dịch tễ lao cao.
1.3.2. Phân loại lao phổi
1.3.2.1. Phân loại theo HHCLQT và CTCLQG (1999)[1][3] [24].
* Dựa vào xét nghiệm vi khuẩn lao
- Lao phổi AFB (+)
+ Tối thiểu có 2 tiêu bản AFB (+) từ 2 mẫu đờm khác nhau
+ Một tiêu bản đờm AFB (+) và có hình ảnh nghi lao trên Xquang phổi.
+ Một tiêu bản đờm AFB (+) và nuôi cấy (+)
- Lao phổi AFB (-)
+ Kết quả xét nghiệm đờm AFB (-) ít nhất 6 mẫu đờm khác nhau qua 2 lần
thăm khám cách nhau 2 tuần đến 1 tháng và có tổn thương nghi lao trên Xquang

được bác sĩ chuyên khoa tuyến tỉnh kết luận.
+ Kết quả xét nghiệm đờm AFB (-), nuôi cấy (+)
* Dựa vào tiền sử dùng thuốc:
- Bệnh nhân lao phổi mới: Bệnh nhân chưa bao giờ dùng thuốc hoặc mới
chỉ dùng thuốc lao dưới 1 tháng.
- Bệnh nhân tái phát: BN đã điều trị lao, được thày thuốc xác định là khỏi
bệnh, hay hoàn thành điều trị nay mắc bệnh trở lại AFB (+) sau 60 ngày. Nếu trên
5 năm thì là tái phát xa.
- BN thất bại: BN còn vi khuẩn lao trong đờm từ tháng điều trị thứ 5 trở đi
- BN điều trị lại sau bỏ điều trị: BN không dùng thuốc trên 2 tháng trong
quá trình điều trị, sau đó quay lại điều trị với AFB (+) trong đờm.


10

- Bệnh nhân lao phổi mãn tính: BN vẫn còn vi khuẩn lao trong đờm sau khi
đã dùng công thức tái trị có giám sát chặt chẽ việc dùng thuốc.
1.3.2.2. Phân loại theo Lopo de Carvalho dựa vào đặc điểm tổn thương trên
Xquang: chia tổn thương lao phổi thành 4 thể:
- Lao thâm nhiễm không có hang (1a) có hang (1b)
- Lao nốt không có hang (2a), có hang (2b).
- Lao kê
- Lao xơ: Không có hang (4a), có hang (4b)[24]
1.3.3. Nghiên cứu về lâm sàng
Bệnh cảnh lâm sàng của lao phổi rất đa dạng và không đặc hiệu vì vậy lâm
sàng không quyết định chẩn đoán nhưng cho hướng chẩn đoán, là yếu tố quan trọng
để chỉ định một số thăm dò, xét nghiệm để xác định chẩn đoán .
1.3.3.1. Cách khởi phát bệnh:[24]
Khởi phát của lao phổi rất đa dạng, tuy nhiên hay gặp một trong các kiểu
khởi phát chính sau:

- Khởi phát từ từ (Bán cấp tính): Chiếm đa số các trường hợp lao phổi. Biểu
hiện: Mệt mỏi, giảm khả năng làm việc,ăn kém, gầy sút,sốt nhẹ về chiều (37,538) bệnh xuất hiện từ từ, tiến triển kéo dài và tăng dần. Doãn Trọng Tiên (1996)
nghiên cứu 126 bệnh nhân lao phổi AFB(+) ở người trưởng thành cũng cho thấy
cách khởi phát bán cấp tính chiếm tỷ lệ cao nhất (74,6%)
- Khởi phát cấp tính: Chiếm khoảng 10-20% giống viêm phổi, cúm, viêm
phế quản cấp tính. Bệnh bắt đầu với sốt cao 39-40 oC, ho, đau ngực nhiều, ho ra
máu,kèm theo khó thở. Cách bắt đầu này thường gặp trong thể viêm phổi bã đậu
hoặc phế quản phế viêm lao.
- Khởi phát lặng lẽ: Triệu chứng lâm sàng kín đáo không rõ rệt, được phát
hiện bằng kiểm tra X.quang phổi tình cờ.
1.3.3.2. Thời gian phát hiện bệnh: Là thời gian tính từ khi bệnh nhân có triệu
chứng lâm sàng đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định là lao phổi. Theo


11

TCYTTG bệnh nhân lao được phát hiện trong 2 tháng đầu kể từ khi có triệu
chứng lâm sàng được coi là chẩn đoán sớm.[25]
- Nguyễn Thị Thúy Hà (2002) Tìm hiểu sự chậm chễ trong trong phát hiện
bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Hà Tây thấy:Thời gian trung bình từ khi có
triệu chứng nghi lao đến khi được đăng ký điều trị là 11,1± 7,1 tuần.
Thời gian phát hiện ở một số nước như sau: Nhật Bản (1992) 53,8 ngày (<
2 tháng), Hà Lan (1984) 55,4 ngày (< 2 tháng), Philippin (1993) 83,0 ngày ( 3
tháng), Bangladesh (1991) 98,5 ngày (> 3 tháng).[9]
1.3.3.3. Triệu chứng lâm sàng:
Trong lao phổi các triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu vì nhiều
bệnh hô hấp có triệu chứng giống lao phổi. Theo Crofton.J. và CS (2001)[31]
những dấu hiệu lâm sàng gợi ý đến lao phổi là:
+ Triệu chứng hô hấp: Ho; Khạc đờm; Ho ra máu; Đau ngực; Khó thở; Ran
rít khu trú; Hay cảm cúm.

+ Triệu chứng toàn thân: Sút cân; Sốt và ra mồ hôi đêm; Mệt mỏi; Kém ăn.
Điều quan trọng là các triệu chứng nêu trên nặng dần lên sau hàng tuần
hoặc hàng tháng đặc biệt là đối với triệu chứng toàn thân.
- Nguyễn Thanh Hiền và Bùi Xuân Tám (1984)[28] phân tích 167 bệnh
nhân lao phổi AFB(+) có nhận xét: Các dấu hiệu cơ năng, toàn thân hay gặp (từ
71%-89%) theo thứ tự là ho, sốt, sút cân, mệt mỏi, khạc đờm, đau ngực. Ho khạc
đờm trên 15 ngày gặp 71% sốt về chiều 69%, khái huyết và đổ mồ hôi trộm (ban
đêm) chỉ gặp có50-52%. Tổ hợp ho khạc đờm, sốt về chiều, gày sút cân hay gặp
nhất ở bệnh nhân lao phổi mới mắc.
- Triệu chứng thực thể:[24][28] Khoảng 12-30% các trường hợp lao phổi không
có triệu chứng thực thể (khi nghe phổi), nhất là các thể lao phổi nhẹ hoặc lao
phổi đã được điều trị. Giai đoạn đầu của lao phổi các triệu chứng thực thể thường
nghèo nàn, khám phổi thường không thấy dấu hiệu bất thường tuy nhiên một số
trường hợp có thể nghe thấy rì rào phế nang giảm ở vùng đỉnh phổi hoặc vùng
liên bả- cột sống, nghe thấy ran nổ cố định ở một vị trí (thường ở vùng cao của


12

phổi) là một triệu chứng có giá trị, đôi khi nghe thấy tiếng thở rít (wheezing) khu
trú do lòng phế quản bị tổn thương hoặc hạch viêm chèn ép vào phế quản. Giai
đoạn muộn có thể nhìn thấy lồng ngực bị lép (bên tổn thương) do các khoang liên
sườn hẹp lại, gõ vùng đục của tim lệch sang bên tổn thương, nghe có nhiều ran nổ, ran
ẩm và có thể có tiếng thổi hang.
1.3.4. Nghiên cứu cận lâm sàng
1.3.4.1. Xquang phổi chuẩn
Vai trò của Xquang phổi chuẩn

a.


Hiện nay có nhiều kỹ thuật hiện đại để chẩn đoán lao phổi nhưng chụp
Xquang phổi chuẩn vẫn là phương pháp cơ bản, quan trọng mà các phương pháp
khác chưa thay thế được. Chụp Xquang phổi chuẩn thường được các thầy thuốc
chỉ định ngay từ đầu khi khám bệnh về hô hấp. Trên cơ sở phim phổi chuẩn rồi
mới tiến hành các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác. Hình ảnh tổn thương trên
phim phổi chuẩn không quyết định chẩn đoán nhưng rất có giá trị định hướng
cho chẩn đoán lao phổi.[10]
- Theo Bùi Xuân Tám (1998),[28] Chụp Xquang phổi chuẩn là phương
pháp cơ bản để chẩn đoán lao phổi tuy rằng không phải là quyết định. Lợi ích của
chụp Xquang phổi chuẩn là có một tài liệu khách quan để phân tích tỷ mỷ tổn
thương lao, để theo dõi lâu dài và để hội chẩn nếu cần thiết. Chỉ có Xquang phổi
mới chẩn đoán được các thể lao phổi, các giai đoạn tiến triển (kết hợp với lâm
sàng và xét nghiệm), xác định được vị trí và diện tích tổn thương lao, kích thước
và số lượng hang lao. Xquang phổi còn cho phép theo dõi và đánh giá kết quả
điều trị lao bằng cách so sánh các phim trong quá trình điều trị, nếu tổn thương
Xquang xóa nhanh dưới 1 tháng thì thường không phải do lao phổi.
- Không có hình ảnh Xquang nào tuyệt đối đặc thù cho lao phổi mà chỉ có
những hình ảnh gợi ý là lao phổi bởi vậy khi đọc Xquang phổi phải kết hợp với
lâm sàng, cơ chế bệnh sinh, kết hợp với các phim đã có từ trước gọi là đọc phim
chuỗi.


13

b. Các tổn thương Xquang cơ bản trong lao phổi.[10][24]
+ Thâm nhiễm: là một đám mờ thuần nhất hoặc không thuần nhất đường
kính từ 10mm trở lên, giới hạn không rõ.
+ Nốt: Là bóng mờ đa dạng kích thước khác nhau, trung bình 5mm , tối đa
không quá 10mm, có thể tập trung ở một vùng của phổi hoặc rải rác 2 phổi.
+ Hang: là một hình sáng, bờ khép kín, kích thước to nhỏ khác nhau, khi

hang có phế quản thông trên phim có thể thấy hình của phế quản là hai đường mờ
song song nối hang với cuống phổi, những hang mới có thành dày, hang cũ thành
mỏng và độ cản quang đậm.
+ Xơ: Có thể chỉ là một vài dải xơ, có khi là đám xơ rộng co kéo một thùy,
một phổi, co kéo trung thất ảnh hưởng tới chức năng hô hấp.
+ Vôi: Hình tròn hoặc bầu dục, đường kính 2-5mm có thể gặp ở bất kỳ vị trí
nào của nhu mô phổi nhưng gặp nhiều nhất ở đỉnh phổi. Chẩn đoán dựa vào đậm
độ rất đậm,đậm hơn trung thất ,chỉ có thể so sánh với đậm độ của mảnh kim loại
hoặc sản phẩm có iod. Cần phân biệt với những nốt lao có đậm độ cao và cần
nhớ rằng nốt vôi hóa có thể tồn tại song song với các nốt bã đậu (của lao đang
tiến triển) vì vậy sự có mặt của các nốt vôi hóa không cho phép chẩn đoán lao đã
ổn định không còn tiến triển.
c. Phân loại mức độ tổn thương trên Xquang:
- Phân loại mức độ tổn thương phổi trên Xquang theo Hội lồng ngực Mỹ
(ATS - 1990).
+ Tổn thương nhẹ (Độ I): Tổn thương không có hang, tổng diện tích tổn
thương 1 hoặc 2 bên phổi không vượt quá một phân thùy phổi.
+ Tổn thương mức trung bình (Độ II): Có thể tổn thương 1 hoặc 2 bên phổi
nhưng tổng diện tích tổn thương không vượt quá giới hạn một thùy phổi và tổng
đường kính các hang không quá 4cm.
+ Tổn thương nặng (Độ III): Tổn thương rộng hơn mức trung bình nghĩa là
tổng diện tích tổn thương 1 hoặc hai bên phổi vượt quá 1 thùy phổi hoặc chiếm
cả 1 bên phổi và tổng đường kính các hang trên 4cm.


14

- Các tác giả trong nước đã vận dụng đưa ra cách phân loại như sau:[24]
+ Tổn thương nhỏ: Tổn thương không có hang ở một hoặc hai bên phổi,
nhưng bề rộng của tổn thương khi gộp lại không vượt quá diện tích phổi nằm trên

một đường ngang qua khớp ức sườn 2.
+ Tổn thương vừa: Gồm các tổn thương rải rác, diện tích cộng lại không
vượt quá 1 phổi. Nếu tổn thương liên kết với nhau thì không vượt quá 1/3 một
phổi. Khi có hang thì đường kính các hang cộng lại không quá 4cm.
+ Tổn thương rộng: Khi tổn thương vượt quá giới hạn trên.
d. Đặc điểm của tổn thương lao phổi trên Xquang:[10]
- Tổn thương lao có thể ở bất kỳ vùng nào của phổi nhưng chúng chiếm ưu
thế ở những vùng trên và sau của phổi và của thùy, nghĩa là: Thường gặp nhất là
tổn thương ở phân thùy đỉnh, phân thùy sau, phân thùy trước của thùy trên rồi
đến phân thùy đỉnh của thùy dưới, tức là các phân thùy:1,2,3,6. Các vùng khác
xác xuất tổn thương thấp hơn. Nhận định này luôn luôn đúng bất kể tổn thương
giải phẫu bệnh lý của lao phổi có dạng như thế nào, đối với tổn thương hang lại
càng đúng. Khi tổn thương lao giới hạn ở thùy trên, hình Xquang của chúng có
thể ở đỉnh, trên đòn,có thể là sau hoặc ở dưới đòn, trong hoặc ngoài. Sau đó tới
các dạng tổn thương nằm ở gần rốn phổi, ở phân thùy đỉnh của thùy dưới trên
phim nghiêng trông rõ chúng nằm lùi về phía sau. Cuối cùng mới thấy tổn
thương nằm ở thùy dưới, còn thuỳ giữa đặc biệt như được “cách ly” rất ít khi bị
tổn thương lao phổi.
- Lao phổi chiếm ưu thế ở vị trí cao của phổi, điều này đã có nhiều tác giả
tìm cách giải thích cơ chế bệnh sinh , tóm lại có hai cơ chế chính giải thích điều
này, thứ nhất là vùng này có nhiều ô xy so với các vùng phổi khác(vi khuẩn lao
lại là vi khuẩn hiếu khí), thứ hai là do cấu trúc giải phẫu hệ mạch máu ở đây làm
cho dòng máu chảy chậm hơn so với các vùng khác vì vậy vi khuẩn dễ dừng lại
gây bệnh.


15

1.3.4.2. Soi đờm trực tiếp tìm AFB:
- Là kỹ thuật đơn giản, cho kết quả nhanh, ít tốn kém, có thể làm được ở

mọi tuyến.
- Theo Crofton.J. (2001)[31] soi đờm trực tiếp tìm vi khuẩn lao là cách chẩn
đoán chắc chắn nhất, điều quan trọng là hướng dẫn người bệnh biết cách lấy đờm
đúng để làm xét nghiệm.
- Kết quả tìm AFB trong đờm phụ thuộc vào kỹ thuật xét nghiệm, vào số
lần xét nghiệm,vào thể lao phổi có hang hay không có hang, vào tình hình bệnh
nhân dùng thuốc hay chưa dùng thuốc chống lao. Nói chung trong tuần lễ đầu
cần soi đờm trực tiếp nhiều lần, với 6 lần soi đờm trực tiếp, có kỹ thuật tốt thì kết
quả tìm AFB(+) có thể ngang với nuôi cấy. Phải soi trực tiếp nhiều lần vì có thể
tổn thương tiết ra vi khuẩn cách quãng. Sau khi bệnh nhân dùng thuốc chống lao
khoảng 1 tháng thì soi đờm trực tiếp thường khó tìm thấy vi khuẩn. [28]
- Độ nhạy của soi trực tiếp thấp (trong 1ml đờm phải có từ 5000 vi khuẩn
trở lên mới cho kết quả dương tính), nhưng độ đặc hiệu gần 100%. Trong lao phổi
có hang một nửa số bệnh phẩm đờm dương tính khi soi trực tiếp.
1.3.4.3. Phản ứng Mantoux:
Là test sinh hóa để đánh giá tình trạng dị ứng lao của cơ thể, phản ứng
dương tính chỉ có nghĩa là người bệnh đã nhiễm lao. Phản ứng có giá trị lớn
trong điều tra dịch tễ học bệnh lao hơn là để chẩn đoán trường hợp cụ thể, tuy
nhiên phản ứng cũng góp phần cho chẩn đoán bệnh lao. Trong lao phổi phản ứng
Mantoux thường dương tính ở mức độ trung bình. Có 2 khả năng biểu hiện của
phản ứng:[8]
- Phản ứng cho kết quả dương tính mạnh và rất mạnh: Cần lý giải trong các
khả năng sau:
+ Lao phổi đang có những tổn thương mới hoạt động.
+ Lao phổi phối hợp với lao ngoài phổi.
+ Một cơ địa tăng mẫn cảm.
- Phản ứng âm tính: có thể tìm nguyên nhân sau:


16


+ Đang dùng Corticoide và các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài.
+ Lao phổi kèm theo một số bệnh khác: Ung thư, bệnh do virus, nhiễm
HIV/AIDS.
+ Lao phổi ở một cơ địa “vô dị”.
- Ngoài ra phản ứng Mantoux còn góp phần chẩn đoán phân biệt với một số
bệnh: Ung thư phổi, Sarcoidose...
1.3.4.4. Xét nghiệm máu:[24][28]
Thường ít có giá trị trong chẩn đoán lao phổi, tuy nhiên trong một số trường
hợp có thể góp phần định hướng cho chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt với một
số bệnh phổi khác.
a.

Số lượng hồng cầu:
- Tình trạng rối loạn hấp thu của bộ máy tiêu hóa và tủy xương bị nhiễm độc
lao có thể gây nên thiếu máu ở bệnh nhân lao phổi tiến triển. Trong lao phổi thể
nặng: thể viêm phổi bã đậu có thể thấy thiếu máu nặng (hồng cầu < 2 triệu).
- Nhưng thông thường trong lao phổi số lượng hồng cầu thường không
giảm, trừ khi bệnh diễn biến lâu ngày cơ thể suy kiệt.
b. Xét nghiệm bạch cầu:
- Trong lao phổi số lượng bạch cầu thường không tăng, tỷ lệ bạch cầu
lympho có thể cao.Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu nhiều khi có ích cho
thầy thuốc nghĩ đến hay không nghĩ đến lao phổi hoặc viêm phổi tụ cầu, phế cầu.
- Trong lao phổi tiến triển rất ít khi bạch cầu tăng trên 15.000/mm 3 máu
ngoại vi và cũng ít khi bạch cầu dưới 5000/ mm 3. Khoảng từ 23%-28% các
trường hợp lao phổi AFB(+) thấy bạch cầu tăng trên 9000/ mm 3.Tuy nhiên trong
lao kê cấp tính bạch cầu có thể tăng rất cao (phản ứng tăng bạch cầu) hoặc giảm
thấp ( <5000/ mm3).
- Trong các đợt tiến triển của lao phổi thể viêm phổi bã đậu, lao thâm nhiễm
rộng, lao xơ hang có thể số lượng bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính

đều tăng nhẹ.


17

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
-

Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hải Phòng.
Thời gian nghiên cứu: Từ 1/3/2015 – 31/05/2015.

2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Bệnh nhân nghiên cứu
-

Tất cả phụ nữ tuổi từ 20-40 mắc Lao Phổi có xét nghiệm đờm soi trực tiếp
AFB(+) vào điều trị tại bệnh viên Lao và bệnh Phổi Hải Phòng trong 2
năm 2013 và 2014.

2.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định lao phổi: theo WHO (2005).[38]
- Chẩn đoán xác định lao phổi AFB(+) bằng một trong những tiêu chuẩn sau
đây:
+ Có ít nhất 2 tiêu bản AFB(+) soi trực tiếp từ 2 mẫu đờm khác nhau.
+ Có một tiêu bản đờm soi trực tiếp AFB(+) và có tổn thương Xquang bất
thường phù hợp với lao phổi hoạt động.
+ Có một tiêu bản đờm soi trực tiếp AFB(+) và nuôi cấy đờm dương tính
với M. tuberculosis.
2.2.3. Tiêu chuẩn loại trừ.

-Bệnh nhân không ở độ tuổi 20-40.
-Chẩn đoán lao phổi AFB(-).
-Chẩn đoán lao ngoài phổi hoặc không có các tiêu chuẩn trên.
-Hồ sơ bệnh án không đầy đủ thông tin cho nghiên cứu
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
2.3.1Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.
-

Tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, tiền sử bản thân và gia đình.

2.3.2 Đặc điểm lâm sàng:
-

Lý do vào viện.
Cách khởi phát của bệnh


18

+Cấp tính: sốt 39-40oC, ho đờm có máu, đau ngực khó thở
+Bán cấp tính: Mệt mỏi, kém ăn, gày sút, sốt nhẹ về chiều (37,5-38 oC)
bệnh xuất hiện từ từ, tiến triển kéo dài và tăng dần.
+Lặng lẽ: lâm sàng kín đáo, không rõ rệt, được phát hiện tình cờ qua xét
nghiệm đờm và Xquang phổi chuẩn.

- Thời gian phát hiện bệnh: Từ khi bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng đầu
tiên đến khi được chẩn đoán lao phổi.
+ Trong vòng 2 tháng ( ≤ 2 tháng)
+ Từ 2-6 tháng
+>6 tháng

-

Triệu chứng lâm sàng:
+ Toàn thân: sốt về chiều, sốt cao (> 39oC) mệt mỏi, thể trạng, ra mồi hôi đêm.,
hạch ngoại vi
+ Triệu chứng cơ năng: Ho khan, ho khạc đờm kèo dài, ho ra máu, đau

ngực, khó thở, gấy sút cân

-

+ Triệu chứng thực thể: Các dấu hiệu về khám hô hấp.
+ Các triệu chứng khác
Các thể lao phối hợp.

2.3.3 Đặc điểm cận lâm sàng:
+ X quang phổi thường quy.
+ Soi đờm trực tiếp tìm AFB.
+ Phản ứng Mantoux.
+ Xét nghiệm Gene Expert
+ Công thức máu.
+ Xét nghiệm HIV, HBsAg
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Thiết kê nghiên cứu:
-Phương pháp mô tả chùm bệnh
-Sử dụng số liệu hồi cứu
2.4.2. Cỡ mẫu


19


-Lấy mẫu thuận tiện không xác suất
-Cỡ mẫu N=82
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu dựa vào mẫu bệnh án lưu tại phòng lưu trữ hồ sơ BV Lao
và Bệnh phổi Hải Phòng thông qua mẫu bệnh án được thiết kế sẵn.
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu:
Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 22 với các
thuật toán thống kê .
2.4.5. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu được thực hiện theo đúng nội dung của bàn đăng ký đề tài
đã được Hội đồng khoa học thông qua.
- Các kết quả nghiên cứu chỉ nhằm mục đích khoa học không có mục đích
nào khác.
- Danh sách BN, những thông tin liên quan đến bệnh nhân được giữ bí
mật.


20

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
Bảng 3.1: Phân bố theo tuổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Nhóm tuổi
20 - 24
25 - 29
30 - 34
35 - 40
Tổng số


Số lượng(n)
19
23
16
24
82

Tỷ lệ (%)
23.2
28.0
19.5
29.3
100

Nhận xét: Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu nhóm tuổi có tỷ lệ cao nhất là
nhóm tuổi 35-40(29,3%), sau đó là nhóm tuổi 25-29(28%), tuy vậy sự chênh lệch
giữa các nhóm là không nhiều

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân sống ở thành thị là 52.4 %; nông thôn là
47.6%. Sự khác biệt về địa dư giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê(p >
0,05).

Bảng 3.2:Phân bố theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp
Công nhân, Viên chức
Làm ruộng
Lao động tự do
Nội trợ
Học sinh, sinh viên

Tổng số

Số lượng(n)
32
14
11
20
5
82

Tỷ lệ (%)
39.0
17.1
13.4
24.4
6.1
100

Nhận xét: Nghề nghiệp hay gặp là công nhân viên chức (39%), nội trợ
(24,4%), nông nghiệp (17,1%)


21

Bảng 3.3: Tiền sử bản thân và gia đình về bệnh lao
Tiền sử

Số lượng (n=82)
5
9

2
10
65
58
9

> 5 năm
Bản thân từng mắc lao
≤ 5 năm
Bỏ trị
Mắc bệnh khác kèm theo
Có chồng
Sản khoa
Có con
Gia đình có người mắc lao

Tỷ lệ (%)
6.0
11.0
19.5
2.5
12.2
79.3
70.7
11.0

Nhận xét: Về tiền sử bản thân, có 19.5% bệnh nhân từng mắc lao, trong đó
có 2,5% bỏ trị, 6% mắc lao trên 5 năm, 11% mắc lao dưới 5 năm. 12.2% có mắc
các bệnh kèm theo, 11% gia đình có người mắc lao. Về tiền sử sản khoa, 79,3%
bệnh nhân đã có chồng và 70,7% bệnh nhân có con


Nhận xét: Có 57,3% bệnh nhân được phát hiện sớm(<2 tháng), 39% số
bệnh nhân phát hiện trong khoảng 2-6 tháng, 3,7% số bệnh nhân phát hiện
muộn(>6 tháng)
3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Bảng 3.4: Phân bố theo các lý do đến khám bệnh
Lý do vào viện

Số lượng(n)

Tỷ lệ(%)

Ho, khạc đờm kéo dài

56

68.3

Ho ra máu

18

22.0

Khó thở, tức ngực

6

7.3


Khác

2

2.4

82

100

Tổng số

Nhận xét: Lý do đến khám bệnh hay gặp nhất là ho khạc đờm kéo dài
(68,3)%; tiếp đến là ho ra máu (22.0)%, các lý do khác gặp với tỷ lệ thấp hơn


22

Bảng 3.5: Tính chất khởi phát của bệnh
Khởi phát
Lặng lẽ
Bán cấp
Cấp tính
Tổng số

Số lượng (n)
1
76
5
82


Tỷ lệ (%)
1.2
92.7
6.1
100

Nhận xét: Có 97,2% bệnh nhân khởi phát bán cấp, 6,1% bệnh nhân khởi
phát cấp tính, 1,2 % bệnh nhân khởi phát lặng lẽ.
Bảng 3.6: Triệu chứng cơ năng
Triệu chứng cơ năng
Ho khan
Ho khạc đờm kéo dài > 2 tuần
Ho ra máu
Khó thở
Tức ngực
Gầy sút cân
Khác

Số lượng(n=82)
17
76
21
30
67
65
6

Tỷ lệ (%)
20.7

92.7
25.6
36.6
81.7
79.3
7.3

Nhận xét: Các triệu chứng cơ năng hay gặp là ho khạc đờm kéo dài(92,7%),
tức ngực(81,7), gầy sút cân(79,3%). Một số triệu chứng khác ít gặp hơn như khó
thở(36,6%), ho ra máu(25,6%), ho khan(20,7%)
Bảng 3.7: Triệu chứng toàn thân
Triệu chứng toàn thân
Hạch ngoại vi to
Thể trạng gầy, suy kiệt
Sốt nhẹ về chiều
Sốt cao >39 độ
Ra mồ hôi trộm

Số lượng (n=82)
2
44
59
16
4

Tỷ lệ (%)
2.4
53.7
72.0
19.5

4.8

Nhận xét:Triệu chứng toàn thân hay gặp là sốt nhẹ về chiều(72%), thể trạng
gầy, suy kiệt(53,7%), triệu chứng ít gặp hơn là sốt cao >39 độ(19,5%), mồ hôi
trộm( 4,8%), hạch ngoại vi to (2,4%)
Bảng 3.8: triệu chứng thực thể về hô hấp
Triệu chứng hô hấp
Lồng ngực biến dạng
Ran ẩm

Số lượng(n=82)
7
63

Tỷ lệ(%)
8.5
76.8


23

Ran nổ
Ran rít, ran ngáy
Hội chứng 3 giảm

28
4
9

34.1

4.9
11.0

Nhận xét: Triệu chứng thực thể về hô hấp hay gặp nhất là ral ẩm(76,8%),
ral nổ (34,1%), ít gặp hơn là hội chứng 3 giảm (11%), lồng ngực biến dạng
(8,5%), ral rít, ngáy(4,9%)
Bảng 3.9: Lao phối hợp
Thể bệnh
Lao màng phổi
Lao phối hợp Lao hạch
Lao màng não
Lao phổi đơn độc
Tổng số

Số lượng(n)
7
2
1
72
82

Tỷ lệ(%)
8.6
2.4
1.2
87.8
100

Tổng(%)
12.2

87.8
100

Nhận xét: Tỉ lệ người bệnh mắc lao phối hợp chỉ chiếm 12,2%, trong đó có
8,6% là lao màng phổi, 2,4% là lao hạch, 1,2 % mắc lao màng não. Lao phổi đơn độc
chiếm 87,8%

3.3. ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SÀNG
Nhận xét: Tổn thương trên XQ phổi thường quy chủ yếu là cả 2
bên(51,2%), tỷ lệ tổn thương bên phải là 29,3% và bên trái là 19,5%
Bảng 3.10: Phân bố theo vị trí vùng tổn thương trên XQ phổi thường quy
Tổn thương theo vùng
Vùng đỉnh
Vùng giữa
Vùng đáy
Đỉnh và giữa
Đỉnh và đáy

Số lượng(n)
23
11
3
17
3

Tỷ lệ (%)
28.0
13.4
3.7
20.7

3.7


24

Giữa và đáy
Cả 3 vùng
Tổng chung

7
18
82

8.5
22.0
100

Nhận xét:Tổn thương trên XQ phổi thường quy tập chung nhiều ở phía
trên phổi, với tỉ lệ vùng đỉnh (26,8%), tổn thương vùng đỉnh và giữa (20,7%), cả
3 vùng (22%), tổn thương phía dưới phổi có tỷ lệ thấp hơn.
Nhận xét: Tổn thương chủ yếu ở vùng đỉnh(74,4%), vùng giữa(64,4%),
vùng đáy(37,9%)
Bảng 3.11: Đặc điểm tổn thương cơ bản của lao phổi trên XQ
Tổn thương lao phổi
Thâm nhiễm
Tổn thương

Số lượng (n)
12


Số (%)
14.6

Nốt, vôi hóa

7

8.6



1

1.2

T.nhiễm, nốt
Tnhiễm,nốt,hang
Tnhiễm, nốt, xơ, hang

31
26
5
82

37.8
31.6
6.2
100

24.4


đơn độc
Tổn thương
phối hợp
Tổng

Tổng

75.6

Nhận xét: Tổn thương cơ bản trên X Quang chủ yếu là phối hợp (75,6%),
trong đó tổn thương thâm nhiễm, nốt(37,8%); thâm nhiễm, nốt, hang(31,6%), tổn
thương đơn độc thâm nhiễm và nốt vôi hóa chỉ chiếm 14,6% và 8,6%.
Bảng 3.12. Đối chiếu mức độ tổn thương trên Xquang
với thời gian phát hiện bệnh
Thời gian phát
hiện bệnh
Mức
độ tổn thương

≤ 2 tháng
Số
lượng
(n)

Tỷ lệ
(%)

> 2 tháng
Số

lượng
(n)

Tỷ lệ
(%)

Tổng số
Số
lượng
(n)

Tỷ lệ
(%)

p


25

Độ I (nhẹ)

13

27.7

1

2.9

14


17.0

< 0,01

Độ II (trungbình)

34

72.3

24

68.6

58

70.8

< 0,01

Độ III (nặng)

0

0.0

10

28.6


10

12.2

< 0,01

Tổng số

47

100

35

100

82

100,0

Nhận xét:
-Tổn thương chủ yếu là độ II(70,8%), sau đó là độ I(17%), tổn thương độ
III ít gặp nhất (12,2%)
-Tổn thương nhẹ (độ I) phần lớn bệnh nhân(92,9%) được phát hiện sớm
trong 2 tháng đầu.
-Tổn thương nặng (độ III) 100% bệnh nhân được phát hiện muộn >2 tháng.
Sự khác nhau về mức độ tổn thương so với mốc thời gian 2 tháng có ý nghĩa
thống kê (p < 0,01).
-Thời gian phát hiện ≤ 2 tháng chủ yếu là tổn thương độ I, II.

-Thời gian phát hiện muộn (> 2 tháng) chủ yếu là tổn thương độ II, độ III.

Bảng 3.13: Xét nghiệm soi trực tiếp tìm AFB trong đờm
Kết quả xét nghiệm

Số lượng

Tỷ lệ %

AFB (+)

41

50.0

AFB (++)

22

26.8

AFB(+++)

19

23.2

82

100


Tổng số

Nhận xét:Có 50% bệnh nhân có kết quả là dương tính 1(+), 26,8% là dương
tính 2(+), 23,2% là dương tính 3(+)


×