Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phát triển con người và một số vấn đề trong phát triển con người ở thái nguyên hiện nay (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.04 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ NGHĨA

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại:

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học
Hướng dẫn 1: GS.TS. Hồ Sĩ Quý
Hướng dẫn 2: TS.Vũ Thị Tùng Hoa

Phản biện 1: GS.TS Lê Văn Quang
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn
Phản biện 3: PGS.TS Lê Thanh Thập
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại: Học viện Khoa học xã hội
vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm………………..



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện tại:
- Thư viện quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề con người và phát triển con người được cộng đồng thế giới
quan tâm nhiều hơn vào thập niên 80 của thế kỷ XX, khi tăng trưởng
kinh tế nhiều nơi không thực sự tạo ra tiến bộ xã hội, những mặt trái của
tăng trưởng kinh tế biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, xung đột sắc tộc
và tôn giáo bùng phát, nhiều vấn đề xã hội nảy sinh không chỉ đe dọa sự
phát triển bình thường của thế hệ hiện tại mà cả tương lai. Từ đầu những
năm 90, khi Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) khuyến
khích chính phủ các nước coi con người là trung tâm của sự phát triển
và thực hành đo đạc chỉ số PTCN (HDI) ở hàng trăm quốc gia, thì việc
chú trọng đến PTCN đã thu hút sự quan tâm và đồng tình của tất cả các
nước thuộc Liên Hợp Quốc. Ngày nay, các nước và các tổ chức xã hội
đều xem PTCN là tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của
các quốc gia.
Hơn 20 năm qua, những thành tựu về PTCN trên thế giới được đánh
giá là hết sức to lớn. Trẻ em đến trường nhiều hơn, người dân ở nhiều
quốc gia được chăm sóc sức khỏe tốt hơn và tuổi thọ tăng lên. Thu nhập
bình quân đầu người khu vực châu Á liên tục được cải thiện, tỷ lệ nghèo
giảm xuống, mức sống dân cư được nâng cao và các cơ hội cho con
người trong tiếp cận các dịch vụ xã hội có chất lượng được mở rộng.
Tuy vậy, cộng đồng thế giới cũng cảnh báo, những tiến bộ về PTCN còn
chưa đồng đều, tình trạng thiếu hụt của con người vẫn phổ biến và nhiều
tiềm năng của con người chưa được gải phóng và tận dụng. HDR 2015

đã nhấn mạnh “một trong những thiếu hụt nghiêm trọng của con người
là không được sử dụng, sử dụng sai cách hoặc sử dụng không triệt để
tiềm năng của họ để phục vụ cho phát triển con người (…). Việc khai
mở tiềm năng con người càng trở nên quan trọng nếu xem xét đến
những thách thức phát triển con người đang nổi lên”. Sự thật là, thế giới
ngày càng giàu có hơn nhưng bất bình đẳng về thu nhập, tài sản và cơ
1


hội cũng ngày càng lớn bên cạnh bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại dai
dẳng; những cú sốc về kinh tế, tài chính, thiên tai và dịch bệnh vẫn đang
đe dọa an ninh con người… Trong khi những thành tựu văn hóa và văn
minh đạt tới trình độ cao hơn, thì không phải vì thế mà những vấn đề về
PTCN sẽ dần mất đi hay bớt căng thẳng hơn. Mặc dù được giải quyết
ngày càng căn bản, nhưng những vấn đề mới và cũ về phát triển con
người lại cũng xuất hiện ngày càng đa dạng và phức tạp.
Trong bối cảnh chung đó, những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về
PTCN vẫn đang tiếp tục được chú ý ở trình độ sâu sắc hơn, nhằm từng
bước tháo gỡ, giải quyết những vấn đề về PTCN đang đặt ra trong thực
tiễn ở phạm vi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
Với triết học Mác, con người và PTCN là một trong những nội dung
rất căn bản. Trong suốt thế kỷ XX và hiện nay, quan điểm của chủ nghĩa
Mác về con người và PTCN vẫn thu hút sự quan tâm của nhiều học giả
và các nhà hoạt động xã hội, bởi ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc của
nó trong giải quyết những vấn đề mới của PTCN hiện đại. “Sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”, tư tưởng nổi tiếng của C. Mác và Ph. Ănghen nêu trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” ngày nay vẫn là tư tưởng có ý nghĩa lý tưởng
đối với mọi lý thuyết về PTCN.
Ở Việt Nam, những kết quả đạt được trong PTCN gắn liền với những

thành tựu của công cuộc đổi mới. Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với những chỉ dẫn tư
tưởng về con người và PTCN, đã cụ thể hóa quan điểm PTCN bằng các
chủ trương, đường lối và thực hiện quan điểm đó thông qua các chính
sách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Sự du nhập các tư tưởng thời
đại vào Việt Nam từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, đã ảnh hưởng
tích cực đến tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế, sự
phát triển toàn diện con người Việt Nam cả về thể lực, trí lực, phẩm chất
chính trị, đạo đức, văn hóa gắn liền với việc nâng cao chất lượng nguồn
2


nhân lực, sau hơn 30 năm đổi mới, đã đạt được những thành tựu rất đáng
kể, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước
và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Là thành viên của Liên hợp
quốc, Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ về PTCN của UNDP
và trên cơ sở các Báo cáo PTCN toàn cầu, Việt Nam đã xây dựng Báo
cáo PTCN riêng và đã từng được UNDP trao giải thưởng năm 2001.
Đặc biệt, các tổ chức quốc tế thuộc Liên hợp quốc đánh giá rất cao
những thành tích của Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu về
PTCN như xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em, phổ cập giáo dục tiểu học… Tuy nhiên, bên cạnh nhưng
thành tựu to lớn đã đạt được, sự nghiệp PTCN ở Việt Nam vẫn còn đối
mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, đang phải giải quyết không ít
vấn đề nan giải cả trong phạm vi trước mắt cũng như lâu dài.
Là một tỉnh nằm trong khu vực nghèo nhất cả nước, Thái Nguyên đã
đạt được nhiều tiến bộ về PTCN. So với trước đây, mức sống dân cư,
công tác giáo dục – đào tạo và chăm sóc sức khỏe người dân được ưu
tiên chú trọng; đời sống văn hóa tinh thần và các hoạt động an sinh xã
hội được đẩy mạnh. Thái Nguyên nằm trong số các tỉnh có chỉ số HDI

trung bình cao của cả nước. NHDR 2015 của Việt Nam đã đánh giá cao
mức độ tăng trưởng HDI của tỉnh trong những năm qua. Nhiều chỉ số
thành phần của PTCN ở Thái Nguyên cũng ở mức rất tích cực.
Tuy thế, trong bối cảnh chung như NHDR 2015 đã đánh giá, Việt
Nam sau khi đạt được những thành tựu lớn về PTCN từ đổi mới đến nay
thì đang yếu dần trong thập kỷ vừa qua, và Thái Nguyên cũng không
nằm ngoài bối cảnh đó. Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008, tăng trưởng thu nhập của Thái Nguyên giảm sút đã trực tiếp dẫn
tới sự tiến bộ chậm lại trong các lĩnh vực phi thu nhập. Tăng trưởng kinh
tế của Thái Nguyên chưa đạt tới trình độ “tăng trưởng bao trùm”. Mức
độ chênh lệch vẫn còn sâu sắc giữa các địa phương, giữa các ngành kinh
tế trên địa bàn tỉnh, làm hạn chế sự PTCN. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo
3


cao, giảm nghèo chưa bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cải thiện
chỉ số HDI. Chất lượng y tế không đồng đều và có sự chênh lệch đáng
kể giữa thành phố với các địa phương khác; bất bình đẳng trong giáo dục
vẫn còn cao, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được ứng yêu cầu của sự
PTCN. Sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức cùng các tệ nạn xã hội đang
tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Sự đảm
bảo về y tế, giáo dục, an sinh xã hội ở các huyện miền núi, vùng cao còn
nhiều bất cập và hạn chế….
Thực tiễn PTCN ở Thái Nguyên cũng như ở cấp độ quốc gia trên
thực tế đang đặt ra những vấn đề mới, bức xúc, đòi hỏi phải được nghiên
cứu sâu hơn cả về lý luận và thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ vấn đề và đưa
ra những giải pháp cụ thể, hữu hiệu cho sự nghiệp PTCN nói chung.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn “Phát triển con người và một
số vấn đề trong phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận về phát triển con người
và thực trạng phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Những tư tưởng cơ bản của triết học Mác về PTCN. Quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về PTCN trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Quan niệm về PTCN của UNDP thông qua qua các Báo cáo PTCN toàn
cầu từ 1990 đến nay.
Thực trạng PTCN ở Thái Nguyên từ năm 1999 đến nay. Những vấn
đề đặt ra cho PTCN Thái Nguyên giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích quan niệm về PTCN của Mác và Ăngghen, của
Đảng cộng sản Việt Nam và của UNDP, luận án vận dụng nghiên cứu
4


thực trạng PTCN ở Thái Nguyên nhằm xác định những vấn đề đặt ra đối
với PTCN trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, luận án đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự PTCN ở Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, xác định những quan niệm cơ bản của triết học Mác, của
UNDP và của Đảng cộng sản Việt Nam về PTCN.
- Nghiên cứu thực trạng phát triển con người ở Thái Nguyên từ năm
1999 đến nay. Xác định và làm rõ những vấn đề đặt ra cho PTCN ở Thái
Nguyên giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh PTCN ở Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Cơ sở phương pháp luận của luận án là Phép biện chứng duy vật.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương
pháp luận về con người và phát triển con người của C.Mác Ph.Ăngghen; tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn kiện, Nghị quyết của Đảng cộng sản
Việt Nam có liên quan trực tiếp đến PTCN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phù hợp với phương pháp luận biện chứng duy vật, luận án sử dụng
các phương pháp như logic - lịch sử; phân tích hệ thống; quy nạp - diễn
dịch; tổng hợp - phân tích; so sánh - đối chiếu, thống kê,…
Luận án sử dụng các Báo cáo phát triển con người toàn cầu của
UNDP từ 1990 đến nay; các Báo cáo phát triển con người của Việt Nam
(Báo cáo quốc gia về phát triển con người từ 2001 đến nay); các báo cáo
kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên có liên quan đến PTCN… như là

5


các chỉ dẫn lý thuyết, cũng đồng thời là nguồn số liệu thực tiễn tin cậy để
phân tích lý luận.
- Luận án chú trọng kế thừa những kết quả của các nghiên cứu lý
luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài của các tác giả đi trước.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã phân tích, hệ thống hóa và làm rõ logic của những quan
niệm lý luận cơ bản về PTCN đi từ quan điểm của triết học Mác, của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của
UNDP.
- Trên cơ sở thừa nhận định nghĩa của UNDP, luận án đã đề xuất

định nghĩa về Phát triển con người để làm nổi rõ khía cạnh triết học của
sự PTCN.
- Luận án đã ứng dụng được lý luận và tính toán được số liệu để làm
rõ thực trạng PTCN ở Thái Nguyên trong các mặt thể lực, trí lực, văn
hóa và trong thực hiện công tác xóa đói giản nghèo.
- Luận án đã xác định được 5 vấn đề đang đặt ra cấp thiết cho sự
PTCN ở Thái Nguyên hiện nay.
- Luận án đã đề xuất được 5 giải pháp nhằm thúc đẩy PTCN Thái
Nguyên giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ các quan điểm lý luận về PTCN và
vận dụng các quan điểm lý luận đó vào nghiên cứu thực trạng PTCN ở
một tỉnh trung du miền núi là Thái Nguyên.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề triết học về con người, những vấn
đề lý luận và thực tiễn về PTCN.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định
chính sách và giải quyết các vấn đề về PTCN của tỉnh Thái Nguyên
trong giai đoạn hiện tại và tương lai.

6


7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án gồm có 4 chương, 13 tiết.
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỂ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển con người
1.1.1 Những công trình nghiên cứu quan điểm của triết học Mác

về phát triển con người
So với các chủ đề khác trong triết học Mác, các công trình nghiên
cứu quan niệm của triết học Mác về con người và PTCN không nhiều,
nhất là về PTCN. Những thập niên gần đây, chủ đề này được quan tâm
nhiều hơn, nên được nghiên cứu phong phú hơn và sâu sắc hơn. Trong
luận án chúng tôi đã tổng quan những công trình của các tác giả Hoàng
Chí Bảo, Đặng Hữu Toàn, Hồ Sĩ Quý, Nguyễn Anh Tuấn, Lưu Minh
Văn, Lê Công Sự, Cao Thu Hằng,… và một số tác giả khác. Những
công trình đó chủ yếu phân tích quan điểm của triết học Mác về bản chất
con người, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, về giải
phóng con người, về vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại và về sự phát triển tự do của con người. Các
tác giả đi trước đã khẳng định giá trị khoa học, ý nghĩa phương pháp
luận to lớn của triết học Mác về con người và PTCN đối với những
nghiên cứu về vấn đề con người và PTCN hiện nay.
1.1.2 Những công trình nghiên cứu về quan điểm của Chương
trình phát triển liên hợp quốc về phát triển con người
Tổng quan công trình của các tác giả Amartya Sen, Hồ Sĩ Quý, Phạm
Thành Nghị, Hyungkee Kim, Trịnh Thị Kim Ngọc, Nguyễn Đình Tuấn,
Đào Minh Hương…, chúng tôi thấy quan điểm của UNDP về PTCN đã
được chú ý phân tích ở một số điểm sau:

7


Một là, những điểm mới trong quan niệm của UNDP về PTCN, triết
lý con người là trung tâm của sự phát triển đã nhận được sự tán đồng của
hầu hết các nước thuộc Liên hợp quốc.
Hai là, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng chỉ số HDI là bộ công cụ
khá lý tưởng để lượng hóa mức độ phát triển của người dân ở các quốc

gia. Các chỉ số đo lường được bổ sung qua HDR hàng năm giúp cho
việc nghiên cứu định lượng về PTCN ngày càng đầy đủ và chính xác
hơn.
Ba là, những thành tựu về PTCN trên toàn cầu nói chung và của các
quốc gia nói riêng trong hơn hai thập kỷ vừa qua là hết sức to lớn; song
thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn, phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến sự
PTCN, như an ninh con người, nghèo đói, bình đẳng trên thực tế, tự do
trong tiếp cận cơ hội,…
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát triển con
người ở Việt Nam và Thái Nguyên hiện nay
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về phát triển con người ở Việt Nam
Tổng quan công trình của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như WB,
UNDP, UNESSCO… và của các giả như Lê Thi, Edouard A.wattez,
Nguyễn Duy Quý, Lương Đình Hải, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Thế Kiệt,
Nguyễn Đình Tuấn… chúng tôi thấy, về vấn đề PTCN ở Việt Nam hiện
nay có những điểm đáng chú ý sau:
Thứ nhất, quan điểm về PTCN của Đảng biểu hiện thông qua các
chính sách cụ thể. Trong đó, PTCN Việt Nam gắn liền với việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, sự phát triển toàn diện con người Việt Nam gắn liền với
tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, sự phát triển của y tế, giáo dục,
việc làm, bình đẳng về quyền và điều kiện tiếp cận dịch vụ xã hội.
Thứ ba, những khó khăn và một số giải pháp đối với sự PTCN Việt
Nam hiện nay được đề cập trên nhiều phương diện, mà việc giải quyết
8


chúng đòi hỏi sự tham gia của tất cả các chủ thể, mà trước hết là chủ thể
nhà nước.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát triển con
người Thái Nguyên và một số giải pháp nhằm phát triển con người ở
Thái Nguyên hiện nay
Nghiên cứu trực tiếp về PTCN Thái Nguyên, hiện mới chỉ có một
Luận án địa lý kinh tế của Vũ Vân Anh bàn đến sự biến động của chỉ số
HDI của tỉnh giai đoạn 1999 – 2009, có đề xuất giải pháp cải thiện chỉ số
PTCN của tỉnh. Các tài liệu khác chỉ nói đến PTCN Thái Nguyên một
cách gián tiếp. Các NHDR coi PTCN Thái Nguyên là một nội dung
thành phần hoặc nội dung minh họa. Các tác giả Hoàng Thị Mỹ Hạnh,
Hà Thị Thu Hằng, Vũ Vân Anh… xem xét PTCN Thái Nguyên như là
nhân tố có ảnh hưởng đến các nội dung nghiên cứu văn hóa, lịch sử…
Nhìn chung, cho đến nay những công trình nghiên cứu về PTCN
Thái Nguyên, nhất là dưới góc độ triết học còn rất ít và chưa có. Vì vậy
mà những vấn đề và những giải pháp đưa ra nhằm PTCN Thái Nguyên
còn hết sức khiêm tốn. Có thể thấy đây là khoảng trống để giới nghiên
cứu, trong đó có NCS tiếp tục nghiên cứu cả về phương diện lý luận và
thực tiễn.
Chương 2
SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
2.1. Quan điểm của triết học Mác về phát triển con người
2.1.1. Sự phát triển của những cá nhân hiện thực được quy định
bởi hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ
PTCN theo Mác, không phải là sự phát triển của những con người
trừu tượng, chung chung, phi hoàn cảnh nào đó, mà là sự phát triển của
những con người hiện thực, con người xã hội, những cá nhân hiện thực,
“tức là những con người được quy định bởi hoạt động của họ và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn
cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”. Sự phát
9



triển của con người trong lĩnh vực hoạt động cơ bản của nó - hoạt động
sản xuất vật chất - là cơ sở để PTCN trong các lĩnh vực hoạt động khác.
Theo Mác, “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội” . Với bản chất đó, bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, đầu tiên là để
thỏa mãn những nhu cầu tồn tại cơ bản và sau đó, là sự xuất hiện của
những nhu cầu mới làm thay đổi sự vận động của lịch sử. Khi hoạt động
và những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người thay đổi thì tất yếu
sự PTCN cũng có những biến đổi tương ứng.
2.1.2. Phát triển con người gắn liền với sự giải phóng con người
mà trước hết là giải phóng con người khỏi mọi sự nô dịch và tha hóa
Triết học Mác cho rằng, con người chỉ có thể được tự do và phát triển
mọi năng lực khi con người được giải phóng khỏi mọi sự nô dịch và tha
hóa, để cuối cùng có thể “làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng
do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người
tự do”. Và “Tự do là ở sự chi phối được chính bản thân mình và tự nhiên
bên ngoài, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu của
tự nhiên…do đó, tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử”.
“Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con
người, những quan hệ của con người về với bản thân con người”. PTCN
được đặt trong điều kiện phải giải tha hóa con người trong lao động cũng
như trong mọi hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội.
2.1.3. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người
Theo Mác, sự phát triển LLSX của loài người dẫn tới sự phát triển
của xã hội nói chung có mục đích là “sự phát triển phong phú của bản
chất con người, coi như là một mục đích tự thân”. Trong “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản” Mác chỉ rõ, chế độ xã hội tương lai mà nhân loại
hướng tới không chỉ khác về chất so với tất cả các chế độ xã hội trước

đó, mà nó còn tạo ra những tiền đề hiện thực để sự PTCN với tư cách là
10


cá nhân và cả cộng đồng - tự do của mỗi người chẳng những không cản
trở tự do của người khác mà ngược lại, còn trở thành điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người. Trong xã hội đó, con người có đầy
đủ điều kiện và phương tiện hiện thực để “phát triển toàn diện những
năng khiếu” của bản thân, để phát triển bản chất xã hội phong phú, để
con người tồn tại đúng với ý nghĩa chân chính của từ này.
2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển con
người
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Vấn đề PTCN theo
Người “đó là phát triển con người toàn diện, với mọi năng lực sáng tạo
của mình, thực hiện những quyền cơ bản thiêng liêng của con người –
quyền được sống trong độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Đảng
cộng sản Việt Nam kế thừa và vận dụng sáng tạo triết học Mác và tư
tưởng Hồ Chí Minh về PTCN trong quá trình xây dựng và PTCN Việt
Nam. Căn cứ vào các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước từ
những năm 90 đến nay, luận án đã phân tích quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về PTCN ở những nội dung chính sau:
2.2.1. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội
Đảng ta đã khẳng định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người”; “đặt con người vào vị trí trung tâm
của chiến lược kinh tế - xã hội”. Không tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh
tế, khoa học, công nghệ hay một yếu tố nào khác mà chính con người, sự
PTCN được coi là mục tiêu của sự phát triển.
Con người là động lực của sự phát triển được hiểu là con người là

nhân tố trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng, nhà nước
ta đã coi trọng nhân tố con người, tạo ra cơ sở cho việc giải phóng tiềm
năng, phát huy nội lực con người và sử dụng hiệu quả nguồn lực con
người cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
11


2.2.2 Phát triển con người toàn diện
Phát triển con người về mặt thể lực
Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách lao động, việc làm, nâng cao
thu nhập cho người lao động; thường xuyên quan tâm đến tăng cường
thể chất người dân dưới những hình thức khác nhau; đầu tư nguồn lực và
tăng cường chất lượng cho y tế; tạo bình đẳng trong tiếp cận y tế cho tất
cả mọi người.
Phát triển con người về mặt trí lực: Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất
cả các cấp học, bậc học; ưu tiên cho các vùng dân tộc thiểu số, miền núi,
hải đảo; tạo sự bình đẳng trong tiếp cận giáo dục.
Phát triển con người về mặt văn hóa: Đảng, Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách nhằm phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
2.2.3. Thực hiện quyền con người, quyền công dân, tạo cơ hội và
điều kiện để phát huy tính tích cực của người dân trong quá trình
phát triển
Yếu tố chủ thể trong các chính sách được Đảng và Nhà nước ngày
càng chú trọng, bởi nếu thiếu đi những yếu tố này thì dù có nhiều cơ hội
được mở ra, con người cũng không biết nắm bắt hoặc không chủ động
được để nắm bắt, tận dụng cơ hội.
Với chủ thể là nhà nước, thì thông qua các chính sách xã hội “Nhà

nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm
lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”, “và các điều kiện để
mọi người được phát triển toàn diện”.
2.3. Quan điểm của Chương trình phát triển Liên hợp quốc về
phát triển con người
2.3.1. Con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội

12


Đây là tư tưởng lớn của UNDP từ HDR 1990 được các quốc gia
LHQ đặc biệt hưởng ứng. Con người là trung tâm của sự phát triển, mục
tiêu của phát triển là vì con người, nhằm nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của người dân một cách hiệu quả, bền vững, chứ không phải là
sự gia tăng đơn thuần về GDP hay của cải vật chất..
2.3.2. Phát triển con người là tăng cường năng lực và mở rộng cơ
hội cho sự lựa chọn của con người
Định nghĩa của UNDP về PTCN 1990 và được tái khẳng định 1999
và 2013 chính là mở rộng cơ hội lựa chọn và tăng cường năng lực con
người. Tư tưởng này bắt đầu từ Amartya Sen và sau đó Mahbub Ul Haq
và Amartya Sen cùng đưa vào HDR đầu tiên. Cơ hội lựa chọn và tính
mở của nó phụ thuộc một phần ở thể chế xã hội. Các năng lực của con
người cần được mở rộng bao gồm các năng lực sinh thể và các năng lực
tinh thần. Quá trình lựa chọn này được mở rộng có nghĩa là con người
được sống trong môi trường mà ở đó khả năng sáng tạo, sống khỏe
mạnh, được học hành và trường thọ tăng lên.
2.3.3. Phát triển con người cần phải được thể hiện bằng kết quả
của các nghiên cứu định lượng
HDI là bộ công cụ quan trọng và có giá trị thực tiễn to lớn trong việc
đánh giá mức độ PTCN của mỗi quốc gia. Cùng với HDI, đến nay trong

các HDR xuất hiện thêm hàng trăm các chỉ số khác nhau. Tuy nhiên, các
chỉ số về thu nhập, tuổi thọ trung bình, giáo dục vẫn được đặc biệt chú ý,
được coi là ba khía cạnh cơ bản nhất của PTCN.
Ở Việt Nam, trực tiếp đánh giá kết quả định lượng về PTCN đã được
các báo cáo quốc gia về PTCN 2001, 2004, 2011 và 2015 đề cập và
phân tích khá sâu.
* * *
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của triết học Mác, của Đảng cộng
sản Việt Nam và của UNDP về PTCN, trong luận án này, chúng tôi

13


quan niệm về PTCN như sau và sử dụng quan niệm đó để nghiên cứu và
phân tích và giải quyết vấn đề PTCN ở Thái Nguyên:
Phát triển con người là quá trình vận động của đời sống cá nhân và
cộng đồng từ một trình độ thấp hoặc kém phát triển đến một trình độ cao
hơn hoặc hoàn thiện hơn (theo tiêu chuẩn được chấp nhận của cộng
đồng quốc tế) về mặt thể lực, trí lực và văn hóa tinh thần, được thể hiện
ở năng lực lựa chọn và khả năng nắm bắt các cơ hội của con người trong
sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là sự vận động mà năng lực sinh học
của con người và cộng đồng ngày một tăng cường, đời sống tinh thần
ngày càng phong phú. Con người được sống khỏe mạnh, có điều kiện
kinh tế - vật chất đảm bảo được chất lượng sống và có đời sống tinh thần
giàu có, kích thích năng lực sáng tạo phục vụ cộng đồng, xã hội. Đó là
sự vận động mà con người được đặt vào trung tâm của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Con người không phải là công cụ, phương tiện mà là mục
đích của sự phát triển. Trong quá trình phát triển, con người là động lực
của sự phát triển đó. Vị trí trung tâm của con người cho phép con người
ngày càng trở thành một thực thể sinh học – xã hội hoàn thiện, đáp ứng

được các yêu cầu kỳ vọng của xã hội về đức trí, thể, mỹ,… Hay nói một
cách khác đó là con người phát triển toàn diện, đó là kết quả của “sự
phát triển tự do của con người”.
Nếu nói một cách ngắn gọn thì chúng tôi xin đưa ra định nghĩa rằng:
Phát triển con người là quá trình vận động từ thấp đến cao của sự giải
phóng mọi năng lực của con người xã hội trong những điều kiện kinh tế
- văn hóa - xã hội của các xã hội cụ thể; là sự thể hiện ngày càng phong
phú hơn, đầy đủ hơn bản chất Người của con người. Phát triển con người
là quá trình mà con người ngày càng hạnh phúc hơn, tự do hơn.

14


Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến con người và phát triển con
người Thái Nguyên
Luận án đã đưa ra những dữ liệu về những yếu tố lịch sử - tự nhiên,
văn hóa - xã hội để minh chứng rằng, Thái Nguyên có những ưu thế nhất
định về tài nguyên, cho phép tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao.
Giao thông tương đối phát triển và có thể coi là thuận lợi. Sau 30 năm
đổi mới, những thành tựu trong kinh tế, chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục
và các lĩnh vực khác nói chung đã trở thành điều kiện tốt cho sự PTCN ở
Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Thực trạng về phát triển con người ở Thái Nguyên hiện nay
3.2.1. Phát triển con người Thái Nguyên về mặt thể chất
Thu nhập ngày càng tăng, mức sống và chất lượng sống được cải
thiện rõ rệt, góp phần quan trọng vào sự PTCN về mặt thể chất
GDP bình quân đầu người của Thái Nguyên hiện trong nhóm trung

bình so với các tỉnh, thành khác, nhưng đứng đầu khu vực TDMNPB.
Trong giai đoạn 2005 - 2015, GDP /người của Thái Nguyên tăng nhanh,
từ 382 USD (2005) lên 2.015 USD (2015) - tăng 5,3 lần sau 10 năm. Có
sự chuyển dịch về nguồn thu, sau 8 năm (2004 – 2012) nguồn thu từ
tiền lương, tiền công đạt 49,73%; nguồn thu từ nông, lâm, thủy sản giảm
xuống 22,7%; nguồn thu tư phi nông và các nguồn khác chiếm trên
20%. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu thế phát triển và biểu hiện
của mức sống và chất lượng sống của người dân được tăng lên. Năm
2012, trung bình chi tiêu đời sống của một người trong tháng dành hơn
50% thu nhập cho lương thực, thực phẩm (51,42% ), số còn lại cho y tế,
chăm sóc sức khỏe (6,05%), giáo dục (5,88%) và sinh hoạt khác của gia
đình. Điều đó phản ánh chất lượng sống của người dân, trực tiếp là chỉ
báo của sự PTCN về mặt thể chất.
15


Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe người dân ngày càng được chú ý,
chất lượng và dịch vụ y tế được cải thiện, góp phần trực tiếp vào PTCN
về mặt thể chất
Sự phân bổ nguồn lực, tài chính cho y tế: mức chi cho y tế từ 2010
đến 2014 tăng từ 394,9 tỷ đồng lên 809,5 tỷ đồng. Mỗi huyện đều có 1
bệnh viện công. Số bác sỹ bình quân/1 vạn dân là gần 12 người và trên
90% xã, phường, thị trấn có bác sỹ. Các bệnh viện được đầu tư tốt hơn.
Nhân lực ngành y được đào tạo tăng nhanh. Phòng khám và bệnh viện tư
nhân đạt chuẩn.
Sự tăng cường khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế cho người dân
Thái Nguyên: Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em được chú
trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực. Sự bao phủ rộng chính sách
BHYT (tỷ lệ người dân tham gia BHYT trên địa bàn tỉnh đạt ở mức trên
93%) đã rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm thu nhập và

tăng cường cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.
3.2.2. Phát triển con người Thái Nguyên về mặt tinh thần
Được xem xét và trình bày ở 2 nội dung: PTCN Thái Nguyên về mặt
trí lực và về mặt văn hóa
- Về mặt trí lực
Hiện mức chi cho GD ĐT luôn chiếm tỷ lệ cao nhất và liên tục tăng.
2010 con số này là 1.210,7 tỷ đồng, 2014 tăng lên 2.303,4 tỷ đồng. Hệ
thống trường, lớp ở các cấp học, ngành học được mở rộng và ngày càng
phát triển. 12/2014 Thái Nguyên đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi. Công bằng trong giáo dục mầm non của tỉnh cũng
được thực hiện khá tốt. Với giáo dục phổ thông, số trường học tăng
nhanh; số giáo viên hiện có trên 11.000 và 100% đạt chuẩn. Tỷ lệ đi học
đúng tuổi ở bậc tiểu học trên 95% và bậc THCS là trên 90%; tỷ lệ thi đỗ
tốt nghiệp THPT hàng năm đạt trên 97%. Thái Nguyên là tỉnh đầu tiên
của khu vực TDMNPB và tỉnh thứ 9 đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi mức độ 2.
16


Thái Nguyên là tỉnh đứng thứ 3 cả nước có nhiều trường đại học, cao
đẳng, viện nghiên cứu. Chất lượng giảng dạy, nghiên cứu ngày càng
được nâng lên. Từ 2015 đến nay, một số trường đã kết hợp với các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận trong việc đào tạo gắn
với nhu cầu thực tế của xã hội, nâng chất lượng đào tạo, mở rộng cơ hội
và kỹ năng thực tế cho người học.
- Về mặt văn hóa tinh thần
Thái Nguyên là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, cũng là nơi giao
lưu, tiếp biến mạnh với văn hóa bên ngoài. Chiều sâu văn hóa trong tâm
lý, tính cách, ngôn ngữ, giao tiếp của cộng đồng người Thái Nguyên thể
hiện rõ. Hiện nay, các hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị

di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể được Thái Nguyên rất chú trọng.
39 di sản văn hóa được công nhận ở cấp quốc gia. Các lễ hội truyền
thống nhiều. Văn hóa dân gian phong phú. Hiện các sản phẩm văn hóa
như xuất bản, đài phát thanh và truyền hình, các hoạt động nghe nhìn…
phát triển đa dạng. Hoạt động văn hóa phục vụ các dân tộc ở vùng sâu,
vùng xa được chú trọng.
3.2.4. Phát triển con người Thái Nguyên trong lĩnh vực xóa đói
giảm nghèo theo các tiêu chuẩn mới của chính phủ và UNDP
Trong NHDR 2011, chỉ số MPI của Thái Nguyên là 0,0751, tỷ lệ
nghèo đa chiều theo đầu người là 19,7%, xếp vị trí 27/63 tỉnh và 3/14
tỉnh TDMNPB. Đến năm 2012, tỷ lệ này của Thái Nguyên giảm còn
12,2% - xếp 17/63 tỉnh, thành (giảm 10 bậc so với 2008) và 2/14 tỉnh
TDMNPB. Trong nhóm những người nghèo, tỷ lệ thiếu hụt về giáo dục,
y tế, nhà ở, nước uống và vệ sinh, tiếp cận thông tin… tương đối thấp so
với các tỉnh, thành trong cả nước và thấp hơn hầu hết các tỉnh ở
TDMNPB. Đây là một nỗ lực không nhỏ của tỉnh trong việc giảm nghèo
ở các lĩnh vực phi thu nhập.
Về nghèo thu nhập, trong giai đoạn 2006 – 2015 tỷ lệ hộ nghèo của
tỉnh liên tục giảm, từ 23,74% xuống 7,06% (giảm 70,3%). Tỉnh đã có
17


nhiều chính sách cụ thể cho các hộ nghèo, cận nghèo như nhà ở, phát thẻ
bảo hiểm y tế, hỗ trợ tiền điện, giảm tiền học phí,…
3.2.5. Phát triển con người Thái Nguyên qua phân tích chỉ số HDI
Chỉ số HDI của Thái Nguyên được cải thiện qua từng giai đoạn, từ
0,640 (1999) lên 0,666 (2004), 0,709 (2008) và lên 0,741 (2014). Sau 9
năm (2004 – 2012), xếp hạng HDI của Thái Nguyên tăng 10 bậc (từ 36
xuống 26), thuộc nhóm các tỉnh có HDI trung bình cao.
Trong giai đoạn 1999 – 2012, các chỉ số thành phần của HDI đều

tăng lên. Chỉ số giáo dục tăng từ 0,83 lên 0,88, chỉ số tuổi thọ từ 0,75 lên
0,80 – đây là 2 chỉ số rất cao so với cả nước và đứng đầu khu vực
TDMNPB; chỉ số thu nhập tăng nhanh nhất, từ 0,34 lên 0,54 điểm. GDP
đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tốc độ tăng HDI và 51,04% vào chỉ số
HDI. Chỉ số giáo dục đóng góp vào tốc độ tăng trưởng HDI là 2,21 điểm
phần trăm tốc độ tăng trưởng HDI và 48,96% vào chỉ số HDI. Chỉ số
tuổi thọ không tăng mà lại giảm nhẹ nên không góp phần vào tốc độ
tăng trưởng giá trị HDI giai đoạn này. Nhìn vào sự đóng góp của các chỉ
số thành phần đối với tốc độ tăng HDI có thể thấy rất rõ mức độ PTCN
của Thái Nguyên thể hiện ở từng mặt như thế nào.
3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với sự phát triển con người ở Thái
Nguyên giai đoạn hiện nay
3.3.1. Chênh lệch về trình độ phát triển còn sâu sắc giữa các địa
phương, giữa các ngành kinh tế làm hạn chế sự phát triển con người
Khi xem xét thu nhập của từng địa phương, khu vực trong tỉnh có thể
thấy, dẫn đầu là TPTN, thị xã Sông Công và huyện Phổ Yên; thấp nhất
là Định Hóa, Võ Nhai. Đồng thời chênh lệch giữa nông thôn và thành thị
về thu nhập và mức chi tiêu chung cũng chênh hơn 2 lần; chênh lệch
giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất của Thái
Nguyên vẫn còn cao, và có xu hướng tăng nhanh (2004 là 6,1 lần, đến
2012 tăng lên 7,7 lần). Sự chênh lệch về thu nhập tương đối sâu sắc này
tác động trực tiếp đến sự bất bình đẳng trong các lĩnh vực khác của đời
18


sống xã hội, từ chế độ dinh dưỡng, nguồn nước, khả năng tiếp cận dịch
vụ y tế có chất lượng và các điều kiện sống cơ bản khác.
3.3.2. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao, giảm nghèo chưa bền
vững, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cải thiện chỉ số PTCN
Thứ nhất, tỷ lệ hộ nghèo của Thái Nguyên chủ yếu vẫn rơi vào nhóm

DTTS là căn nguyên cơ bản dẫn tới bất bình đẳng về PTCN giữa các
nhóm thu nhập, giữa các tộc người. Huyện Phú Lương có tỷ lệ nghèo
chiếm hơn 50% dân số, Võ Nhai trên 66%, và Định Hóa trên 70%.
Những hộ nghèo rơi đều thuộc nhóm DTTS. Huyện Phú Bình tuy nhóm
DTTS trong dân cư rất ít (8,9% - 2013) nhưng số hộ nghèo của huyện lại
rơi vào nhóm này gần 40%.
Thứ hai, nghèo ở khu vực đô thị cũng là một vấn đề đang được đặt ra
trong nghèo đa chiều của Thái Nguyên, biểu hiện cho những thiếu hụt
của người dân trong tiếp cận những điều kiện cơ bản cho sự PTCN
Thứ ba, các chính sách giảm nghèo tương đối toàn diện nhưng hiệu
quả từ giảm nghèo về kinh tế ở nhiều địa phương chưa thực sự hiệu quả
và có tính bền vững.
3.3.3. Chất lượng hoạt động y tế không đồng đều giữa thành phố
với các địa phương, khó đáp ứng yêu cầu về tăng trưởng bao trùm
Việc phân bổ và cung ứng dịch vụ y tế có chất lượng không đồng đều
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.
Trong 20 bệnh viện công thì riêng TPTN tập trung 9 bệnh viện và đều là
những bệnh viện lớn, TP Sông Công chỉ có 52.000 dân nhưng có 2 bệnh
viện, trong khi Phú Lương, Đại Từ, Phổ Yên dân số trên 100.000 người
thì chỉ có 1 bệnh viện. Số cán bộ ngành y của TPTN năm 2014 là 1.793
người, cao gấp 10 lần so với huyện Võ Nhai, Phú Lương và chênh lệch
với các địa phương còn lại rất lớn. Ngoài yếu tố thu nhập thì hoàn cảnh
địa lý, tâm lý, nhận thức của người dân cũng là những rào cản đối với
việc tiếp cận dịch vụ y tế.

19


3.3.4. Bất bình đẳng trong giáo dục vẫn còn cao, chất lượng giáo
dục chưa đáp ứng được ứng nhu cầu của sự phát triển con người

Sự chênh lệch về phân bổ nguồn lực giáo dục cũng như cơ hội tiếp
cận giáo dục giữa các nhóm dân cư ở Thái Nguyên là khá lớn. Các
trường đại học, cao đẳng, các trường phổ thông chất lượng cao tập trung
hầu hết ở thành phố. Trong khi đó, ở các huyện vùng cao, miền núi các
bậc học mầm non và phổ thông vừa hạn chế về số lượng, cơ sở vật chất,
đội ngũ giáo viên và chất lượng giảng dạy. Thái Nguyên có nguồn nhân
lực đông, trẻ nhưng tỷ lệ đã qua đào tạo thấp, chủ yếu vẫn tập trung ở
khu vực sản xuất nông, lâm, thủy sản, thu nhập thấp và cơ hội phát triển
ít. Những rào cản làm hạn chế tính bao trùm của giáo dục cũng như sự
công bằng trong tiếp cận cơ hội học tập, nâng cao trình độ của người dân
chủ yếu là rào cản về kinh tế, hoàn cảnh địa lý, ngôn ngữ, dân tộc, tâm
lý, tập quán mà việc khắc phục chúng không thể thực hiện trong một
thời gian ngắn.
3.3.5. Sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức tác động tiêu cực đến sự
phát triển con người ở Thái Nguyên
Hiện Thái Nguyên xếp thứ 3/10 tỉnh trong toàn quốc có số phát hiện
nhiễm HIV/AIDS và tỷ lệ hiện nhiễm cao; tỷ lệ người nghiện ma túy
đứng ở 8/63 tỉnh thành và các tội phạm liên quan đến ma túy có xu
hướng ngày càng tăng lên. Tệ nạn xã hội ở nhiều địa phương vẫn có diễn
biến phức tạp. Trong các hoạt động xã hội hóa giáo dục, nhiều cơ sở
giáo dục mầm non hay sau phổ thông được cấp phép, nhưng chất lượng
đào tạo rất kém. Có dự án quy hoạch phát triển đô thị mới, nhưng việc
giải phóng mặt bằng kéo dài hơn 20 năm chưa xong. Trên thực tế, sự
xuống cấp của văn hóa, đạo đức đang diễn ra chưa có chiều hướng dừng
lại ở Thái Nguyên là một vấn đề rất đáng lo ngại. Không thể đạt tới trình
độ PTCN kỳ vọng, nếu văn hóa, đạo đức vẫn xuống cấp như hiện nay.

20



Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
4.1. Nâng cao nhận thức của chính quyền, đoàn thể về phát triển
con người
Về mặt lý luận, chúng tôi đề xuất, cần phải bổ sung chiến lược về
PTCN trong các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh hay các trong Nghị quyết
chuyên đề. Về mặt thực tiễn, việc nâng cao nhận thức về vấn đề con
người và PTCN gắn liền với việc chỉ đạo, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xã hội của các cấp chính quyền là vô cùng có ý nghĩa.
4.2. Chú trọng tạo việc làm, thực hiện xóa đói giảm nghèo dựa
vào những thế mạnh của tỉnh; mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ
xã hội, nhằm cải thiện chỉ số phát triển con người
Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với việc tạo ra nhiều việc làm có
năng suất, từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động và giảm dần bất
bình đẳng về trình độ phát triển giữa các địa phương - coi đây là giải
pháp căn bản nhất đối với sự PTCN của tỉnh. Chúng tôi hướng đến 3
nhiệm vụ cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại trên cơ sở khai thác những tiềm năng lợi thế của tỉnh,
đảm bảo tính nhân văn trong quá trình thực hiện.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp và phi
nông nghiệp khác.
Thứ ba, xác định nhóm các địa phương cần đầu tư nhiều hơn cho
kinh tế.
4.3. Phân bổ lại nguồn lực cho y tế, nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh, hạn chế bất bình đẳng trong cung ứng dịch vụ và khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân

21



Thứ nhất, Phân bổ lại nguồn lực cho y tế một cách hợp lý, hiệu quả
kết hợp với huy động các nguồn vốn thông qua thực hiện chính sách xã
hội hóa.
Thứ hai, có cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút cho cán bộ y tế, nhất
là các xã miền núi, vùng sâu xa, đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, duy trì, mở rộng bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo
và người thu nhập thấp tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
Thứ tư, vai trò của cơ quan nhà nước đối với sự phát triển của ngành
y tế cần được chú trọng hơn nữa.
4.4. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chú trọng đào tạo
nghề và giáo dục sau phổ thông
Thứ nhất, cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy ở
tất cả các bậc học và các địa phương trên địa bàn tỉnh, nhằm tăng tính
bao phủ, sự công bằng và cơ hội tiếp cận giáo dục của tất cả mọi người.
Trong đó chú trọng đào tạo sau phổ thông và đại học.
Thứ hai, giáo dục - đào tạo cần gắn với nhu cầu thực tế của xã hội về
nguồn nhân lực để bồi dưỡng năng lực, phẩm chất, kỹ năng cho người
học, đảm bảo sự PTCN về mặt trí lực thực sự mang lại cơ hội việc làm
năng suất cao và chất lượng sống tốt.
Thứ ba, tiếp tục duy trì có hiệu quả chính sách giáo dục tại các vùng
dân tộc, miền núi, khắc phục những rào cản đối với sự PTCN ở các khu
vực này; giảm thiểu những chi phí giáo dục cho người dân ở cả khu vực
nông thôn và thành thị.
4.5. Phát huy các giá trị truyền thống, tạo môi trường văn hóa
lành mạnh
Cần có những chính sách toàn diện có tính chất cưỡng chế về mặt
pháp luật đối với các tệ nạn xã hội đã tồn tại trong một thời gian dài trên
địa bàn tỉnh như ma túy, HIV/AIDS. Đồng thời phải có chính sách để

đạo đức và dư luận xã hội thực sự trở thành công cụ điều chỉnh hữu hiệu.

22


Đối với các thiết chế và loại hình văn hóa cụ thể, giải pháp hướng
đến chủ yếu hai chủ thể là chính quyền, cơ quan chuyên trách về văn hóa
và người dân với tư các là đối tượng vừa sáng tạo văn hóa vừa hưởng
thụ văn hóa. hai chủ thể này có vai trò quyết định trong việc phát huy
các giá trị truyền thống, tạo môi trường văn hóa lành mạnh.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về vấn đề con người và phát triển con người không phải
là một đề tài mới. Song sự phát triển của xã hội và con người đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi cần có sự kiến giải cả về phương diện lý
luận và thực tiễn. Những quan điểm của UNDP trong các HDR thường
niên từ 1990 đến nay, đã mang đến một cách tiếp cận mới về PTCN.
Tăng trưởng kinh tế không còn mục đích tối hậu mà chính sự PTCN trở
thành tiêu chuẩn tối cao cho sự phát triển. Những năng lực cơ bản nhất
cho PTCN ngày càng được mở rộng là sống khỏe mạnh, có giáo dục,
được tiếp cận các nguồn lực để có một cuộc sống đầy đủ và có khả năng
tham gia vào đời sống cộng đồng. Bộ công cụ đo lường của UNDP với
nhiều chỉ số, trong đó cơ bản nhất là HDI, đã lượng hóa được mức độ
PTCN của các cộng đồng trên thế giới. Quan điểm này của UNDP đã có
sức thuyết phục mạnh mẽ và trở thành các mục tiêu cụ thể của chiến
lược PTCN quốc gia đối với các nước thuộc Liên hợp quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, trong đó có quan niệm duy
vật lịch sử của Mác về PTCN. Vấn đề PTCN Việt Nam là một nội dung
quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người cũng như trong các văn
kiện chính trị của Đảng ta. Từ cuối thập kỷ 80 cho đến nay, những quan

điểm của Đảng về PTCN có nhiều nội dung mới, biểu hiện chủ yếu
thông qua các chính sách xã hội. Những thành tựu về PTCN Việt Nam
gắn liền với các thành quả của công cuộc đổi mới đất nước và việc thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.

23


×