Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA LY KHAI dân tộc NGÀY NAY và NHẬN THỨC TRONG vấn đề đòi tự TRỊ, tự QUYẾT ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.37 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, toàn nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI nhưng chưa có một
ngày nào im tiếng súng. Sau khi trật tự hai cực đổ vỡ, thế giới diễn ra những
quá trình hợp tác - đấu tranh - xâm nhập vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau vô
cùng phức tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo hướng đa cực.
Trong khi đó, thế giới còn bị chấn động thêm bởi hàng loạt các cuộc
xung đột khu vực, xung đột nội bộ. Từ năm 1945 đến nay, mặc dầu không có
cuộc chiến tranh thế giới nào xảy ra nhưng các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ,
và dù chỉ bằng vũ khí thông thường đã làm hàng triệu người thiệt mạng. Hy
vọng về một nền hòa bình và ổn định sau chiến tranh lạnh đã tan ra như một
giấc mơ và dường như chiến tranh lạnh vẫn lấp ló đâu đó, chưa chịu rời hẳn
thế giới này.
Các cuộc chiến tranh nhỏ và vừa có nhiều dạng hình khác nhau, mỗi nơi
một vẻ, nhưng tựu trung lại, có thể chia thành bảy loại: chiến tranh khu vực, các
cuộc nổi dậy, các hoạt động khủng bố, xung đột sắc tộc tôn giáo, chiến tranh từ
những mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân tộc có chủ
quyền,chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc nội chiến. Các
cuộc chiến tyranh đã thay nhau ngự trị khắp nơi. Hầu hết các cuộc chiến tranh
nói trên đều bắt từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn đề dân tộc. Trong
đó, chủ nghĩa ly khai dân tộc là một trong những mầm mống cơ bản làm gia
tăng các cuộc xung đột giữa các quốc gia dân tộc với nhau, giữa các tộc người
trong một quốc gia dân tộc.
Đối với Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc (tộc người), trong thời gian
qua, với những quan điểm, chính sách dân tộc đúng đắn, kịp thời, chúng ta đã
giải quyết khá tốt vấn đề dân tộc, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh những
kết quả đã đạt được, trong giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn một số yếu kém,


2


khuyết điểm. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã viện cớ đó đề đẩy
mạnh chống phá cách mạng Việt Nam với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng
tinh vi và xảo quyệt. Đặc biệt, khắp nơi trong cả nước đã xuất hiện những
“điểm nóng” về vấn đề dân tộc như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nghệ An,
Tây Nam Bộ…Đã xuất hiện tư tưởng ly khai, đòi độc lập, thành lập quốc gia
riêng như “Nhà nước Đềga độc lập”, “Nhà nước Khơ me Crôm”…Những vấn
đề đó không chỉ làm mất ổn định, trật tự an toàn xã hội và còn đe dọa nghiêm
trọng đến việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
Do vậy, trong quá trình nghiên cứu môn Dân tộc học, tôi đã lựa chọn vấn đề
“Chủ nghĩa ly khai dân tộc ngày nay” làm nội dung viết thu hoạch. Trên cơ sở
làm rõ một số biểu hiện, nguyên nhân của chủ nghĩa ly khai ngày nay, liên hệ vận
dụng vào nhận thức và giải quyết vấn đề tự quản, tự trị, đòi ly khai ở nước ta hiện
nay.


3
NỘI DUNG
Sau chiến tranh lạnh, xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới tăng mạnh.
Chủ nghĩa ly khai dân tộc trở thành nguyên nhân chủ yếu gây nên các cuộc
xung đột khu vực cục bộ hiện nay. Vậy chủ nghĩa ly khai dân tộc ngày nay có
những biểu hiện như thế nào? Nguyên nhân và đối sách giải quyết vấn đề này
ra sao? Chúng ta cần nghiên cứu một số nội dung cơ bản sau:
1. Chủ nghĩa ly khai dân tộc trên thế giới – những biểu hiện,
nguyên nhân và đối sách ngăn chặn
* Những biểu hiện của chủ nghĩa ly khai dân tộc
Kể từ thập niên 90 của thế kỷ XX, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã dẫn tới sự giải thể của một số quốc gia đa
dân tộc. Làn sóng này đã tác động lên nhiều khu vực ở châu Âu và châu Phi.
Thế giới đã bùng lên một trào lưu mới - trào lưu chủ nghĩa ly khai dân tộc.

Vấn đề dân tộc ở nhiều quốc gia đã trở thành vấn đề nổi cộm, thu hút nhiếu sự
quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế.
Sự tan rã của Liên bang Nam Tư là ví dụ điển hình nhất, tàn khốc nhất
trong số các quốc gia đa dân tộc bị giải thể cuối thế kỷ XX. Trong quá trình
tan rã, gần như mỗi một lần phân tách là một lần chiến tranh đẫm máu nổ ra,
chỉ khác nhau ở chỗ là thời gian dài hay ngắn, quy mô lớn hay nhỏ mà thôi.
Hiện tại, sự tan rã này vẫn đang tiếp diễn. Phong trào đòi ly khai của người
An-ba-ni ở Cô-xô-vô, thêm vào đó là sự can thiệp của NATO do Mỹ cầm đầu,
đã diễn biến thành chiến tranh xâm lược Liên bang Nam Tư - một cuộc chiến
tranh mà so sánh lực lượng giữa hai bên cực kỳ chênh lệch, trong đó kẻ mạnh
ức hiếp, chèn ép kẻ yếu. Và cho đến nay, Liên bang Nam Tư tiếp tục bị chia
cắt tới mức cuối cùng chỉ còn lại khu vực có đa số người Xéc-bi-a sinh sống.
Hiện nay, Châu Âu đang trong tiến trình hợp nhất thành một liên minh
rộng lớn cả về chính trị, kinh tế, ngoại giao...nhưng không vì thế mà châu lục


4
này trở nên nhất thể hóa khi ngày càng có sự chia rẽ sâu sắc trong nội bộ của
từng quốc gia. Những mầm mống của chủ nghĩa ly khai xuất hiện từ lâu và các
nhà phân tích dự báo, trong thế kỷ 21 này, sẽ có hơn chục quốc gia mới xuất
hiện trên bản đồ châu Âu.
Xứ Basque là ví dụ điển hình nhất cho chủ nghĩa ly khai ở châu Âu.
Đất nước Tây Ban Nha hiện có khoảng 2 triệu người Basque sống ở ba tỉnh
được gọi là xứ Basque. Vùng đất này có nội lực mạnh hơn các vùng khác
thuộc Tây Ban Nha; đời sống của người dân cũng ở mức trên trung bình mức
sống người Tây Ban Nha và tiếng Basque được thừa nhận là ngôn ngữ chính
thức. Kể từ khi Kosovo tuyên bố độc lập, tháng 2/2008, như phát súng phát
động, phong trào đấu tranh đòi độc lập của xứ Basque ngày càng phát triển.
Xứ Basque rộng lớn từ thời trung cổ đã được hưởng một quyền tự trị khá rộng
rãi trong đất nước Tây Ban Nha và chỉ tới thời cầm quyền của tướng độc tài

Francisco Franco (1939-1975) mới bị tước mất quyền này.
Tổ chức ly khai ETA đã tiến hành đấu tranh vũ trang đòi độc lập cho
xứ Basque từ giữa những năm 1960. Cuộc đấu tranh này không ngừng lại sau
khi Tây Ban Nha chuyển về hình thức phát triển dân chủ khi tướng Franco đã
qua đời và xứ Basque lại được khôi phục quyền tự trị. Cuối tháng 3/2007,
ETA đã ra tuyên bố ngừng bắn và ngỏ ý muốn tiến hành thương lượng hòa
bình với chính phủ Tây Ban Nha. Tuy nhiên tới cuối tháng 12/2007, ETA lại
gây ra một vụ đánh bom ở sân bay Madrid với lý do là vì "chính phủ Tây Ban
Nha không muốn ủng hộ tiến trình hòa bình".
Tuyên bố của đại diện chính quyền xứ Basque như sau: "Đó là câu
chuyện về cách giải quyết một cuộc xung đột sắc tộc, tương tự như những gì
đang tồn tại ở xứ Basque và Catalonia (Đông Bắc Tây Ban Nha) bằng việc
thực hiện quyền dân chủ về tự quyết của người dân. Và chỉ như thế mới có
thể giải quyết được cuộc khủng hoảng chính trị ở xứ Basque". Trước đó, nghị


5
sĩ Joan Tarda, một chính trị gia có uy tín ở Catalonia, cũng đã lên tiếng chào
đón việc Kosovo tuyên bố độc lập và nhấn mạnh rằng, Catalonia cũng sẽ đi
theo con đường đó. Xứ Basque và Catalonia là hai khu vực phát triển nhất về
mặt công nghiệp của Tây Ban Nha. Catalonia cũng có ngôn ngữ riêng, văn
hoá riêng.
Không ngẫu nhiên mà Tây Ban Nha là một trong không nhiều những
nước nổi bật ở Tây Âu đã không đồng tình với việc Kosovo tuyên bố độc lập.
Theo những cuộc thăm dò xã hội ở xứ Basque đã có tới một phần ba số cư
dân ở đây đồng tình với việc tuyên bố độc lập cho xứ Basque và 72% số
người được hỏi ý kiến cho rằng, chính phủ Tây Ban Nha cần tiến hành thương
thảo với những phần tử vũ trang thuộc tổ chức ly khai ETA. Số người ủng hộ
độc lập cho xứ Basque chủ yếu là lớp trẻ. Một tỉnh khác của Tây Ban Nha
cũng được hưởng quy chế tự trị từ tháng 7/2007 là Valencia.

Pháp cũng có kinh nghiệm lâu đời trong việc đối mặt với các phần tử
theo chủ nghĩa ly khai và cực đoan trong phần lãnh thổ của mình, trước hết là
ở hòn đảo lớn thứ tư thuộc Địa Trung Hải, Corsica.
Các nhóm người đảo Corsica đã tiến hành đấu tranh vũ trang với quân
đội Pháp vào giữa những năm 1970. Liên minh Dân tộc đảo Corsica và
Phong trào Tự quyết là hai lực lượng có ảnh hưởng nhất trong các nhóm nổi
dậy này. Cả hai đều có các đơn vị chiến đấu được vũ trang. Trong 25 năm
qua, quy chế đảo Corsica đã hai lần được “nâng cấp” vào năm 1982 và 1990,
chính quyền địa phương được trao quyền mạnh hơn về kinh tế, nông nghiệp,
năng lượng, giao thông, giáo dục và văn hoá. Vài năm trước, quốc hội Pháp
đã thừa nhận sự tồn tại một quốc gia của người Corsica. Nhưng quyết định
này sau đó bị huỷ vì đi ngược lại Hiến pháp Cộng hoà Pháp. Thời gian gần
đây, các phần tử khủng bố trên đảo Corsica lại tiến hành những hoạt động
nồi da nấu thịt, làm trầm trọng hơn hủ tục báo thù truyền kiếp. Trong 10


6
năm gần đây đã có khoảng 3 nghìn người chết vì khủng bố trên đảo này. Hai
địa danh khác ở Pháp là xứ Bretagne và Alsace cũng không phải không có
những lực lượng muốn tách mình ra khỏi vòng kiềm tỏa của Paris.
Tại Italy, tư tưởng ly khai cũng đang hình thành mạnh mẽ ở các khu vực
công nghiệp phát triển phía Bắc. Liên hiệp phía Bắc rất có ảnh hưởng đã đưa ra yêu
cầu biến Italy thành nhà nước liên bang. Cũng có người mong muốn South Tirol,
vùng đất mà Italy nhận được sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, được trở về với Áo.
Bỉ cũng đang đứng trước nguy cơ bị mất hai vùng: một của vùng
Flander ở miền Bắc nói tiếng Hà Lan, và Wallonia ở miền Nam nói tiếng
Pháp. Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy, hơn 60% người Flander và hơn
40% người vùng Walloon ủng hộ sự ly khai này.
Tại Anh, tư tưởng ly khai đã chuyển từ Ulster đến Scotland. Các cuộc
bầu cử cơ quan lập pháp ở Scotland mới đây chiến thắng đều thuộc về những

người ủng hộ việc thành lập một nhà nước độc lập mới, thuộc đảng dân tộc
Scotland (SNP). Người đứng đầu chính quyền Scotland Alex Salmond tuyên
bố rằng Scotland có thể sẽ giành độc lập trong một thập kỷ tới. Tuy nhiên, xu
hướng người dân ủng hộ nền độc lập đang có dấu hiệu giảm dần 23% so với
30% trong cuộc thăm dò một năm trước đây. Thủ tướng Anh Gordon Brown
mới đây khuyến cáo rằng, Vương quốc Anh sẽ đối mặt với nguy cơ Balkan
hoá nếu mối liên kết trên 300 năm giữa England và Scotland tiếp tục lỏng lẻo
như hiện nay.
Đảo Faeroe của Đan Mạch hiện đang hưởng quy chế bán tự trị, sống
nhờ khoản trợ cấp 170 triệu USD/năm của chính phủ. Đây là rào cản cho các
phần tử ly khai phát triển, tuy nhiên, 7 năm trước đây, họ đã nỗ lực tổ chức
một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập.
Đất nước Thuỵ Sỹ thanh bình cũng có những phần tử ly khai riêng. Mặt
trận vì Tự do của Yura đưa ra yêu cầu về quyền độc lập cho bang này trong
suốt hơn 30 năm qua.


7
Vojvodina, vùng tự trị thuộc Serbia, với số dân 2 triệu người (bằng 1/3
dân Serbia), diện tích 35 km vuông, hồi tháng 2/2009 yêu cầu chính phủ
Belgrade thông qua quy chế nhà nước. Liên minh người Magyar ở Vojvodina,
kiểm soát đến 70% lãnh thổ tỉnh này, yêu cầu được công nhận là một nước
cộng hoà độc lập, tác khỏi Serbia và gia nhập Hungary. Tháng Ba vừa qua, họ
đề nghị Liên minh châu Âu gửi một phái đoàn đến nghiên cứu tình hình.
Người Hungary hiện chiếm hơn 40% dân số khu vực.
Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra ở vùng Transylvania của
Romania. Giai đoạn 1940 - 1945, Transylvania thuộc về Hungary, 1919 1939 thuộc về Romania và trước thời kỳ đó thuộc về Áo - Hung. Người
Hungary chiếm đến hơn 45% dân số Transylvania.
Chiến dịch “chống lại sự thống trị” ngày càng trở nên phổ biến ở
Sardinia của Italy và Stiria của Áo. Những người Hy Lạp ở miền Nam

Albania và dân vùng Azores của Bồ Đào Nha ngày càng tích cực đấu tranh
đòi quyền độc lập.
Kể từ tháng 2/2008, Kosovo, với 90% là dân tộc thiểu số Albania, chính
thức tuyên bố độc lập, tách khỏi Serbia, đã có 55 quốc gia trên thế giới, bao gồm
cả Mỹ và phần lớn các thành viên trong Liên minh châu Âu, công nhận nền độc
lập này. Hiệu ứng đômino lập tức lan ra toàn châu lục. Không thể không nhắc tới
cuộc xung đột vũ trang chớp nhoáng giữa Nga và Gruzia về hai tỉnh ly khai Nam
Ossetia và Abkhazia. Hai vùng đất này sau đó đã tuyên bố độc lập và được Nga
công nhận.
Một châu Âu đang trong tiến trình nhất thể hóa những tưởng có một
nền hòa bình bền vững kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, nhưng
kỳ thực ngay trong từng quốc gia vẫn còn hiển hiện chủ nghĩa dân tộc cực
đoan và chủ nghĩa ly khai nên luôn xảy ra các cuộc xung đột khi âm ỉ, khi
bùng phát thành cuộc chiến tranh dữ dội đã cướp đi mạng sống của cả triệu


8
người dân vô tội. Đây là vấn đề không dễ dàng gì hóa giải nhất là trong bối
cảnh lợi ích của các siêu cường, các liên minh đan xen lẫn nhau và không ai
chịu nhường nhịn ai.
Sự giải thể của Liên Xô không làm cho vấn đề dân tộc của Nga được
giải quyết một cách triệt để. Một số dân tộc nhỏ hơn nữa ở Nga vẫn đang đấu
tranh để được tách ra khỏi Liên bang Nga. Chủ nghĩa ly khai ở Trê-sni-a trở
thành một vấn đề khiến Chính phủ Nga đau đầu, đánh cũng không được mà
đàm cũng không xong. Dưới ảnh hưởng của cuộc chiến Trê-sni-a, khuynh
hướng ly khai dân tộc ở cả khu vực Bắc Cáp-ca-dơ đang ngày một tăng lên và
đã trở thành một khu vực rối ren nhất, bất ổn nhất ở Liên bang Nga. Nó thật
sự càng như đổ thêm dầu vào đống lửa kinh tế, chính trị vốn đã nhiều khó
khăn của Nga. Ngoài ra, khuynh hướng ly khai của các dân tộc thiểu số khu
vực Xi-bê-ri và lưu vực sông Vôn-ga (Nga) trước nay vẫn luôn tồn tại chứ

chưa bao giờ mất đi cả.
Ở khu vực Tây Á, phong trào đòi thành lập nhà nước độc lập của người
Cuốc ngay trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ không hề lắng dịu cho dù thủ lĩnh của nó
đã bị bắt. Do Anh, Mỹ thiết lập khu vực cấm bay ở I-rắc và do chính sách
chống phá của Mỹ nên người Cuốc ở phía Bắc gần như thoát khỏi sự kiểm
soát của Chính phủ I-rắc.
Đại lục Nam Á nổi lên phong trào ly khai của người Xích với mục đích
đòi tách khỏi Ấn Độ. Phong trào đòi độc lập ở khu vực Ca-sơ-mia do Ấn Độ
chiếm giữ cũng đang ngày càng mạnh mẽ, xung đột ngày càng quyết liệt hơn
là cho quan hệ Ấn Độ - Pakixtan không ngừng xấu đi. Hai bên đều đua nhau
tiến hành thử nghiệm vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo. Điều đó đe dọa
nghiêm trọng đến an ninh khu vực.
Các khu vực khác ở châu Á - Thái Bình Dương như Mi-an-ma, Phi-lippin, In-đô-nê-xi-a và quần đảo Nam Thái Bình Dương vẫn đang tồn tại những


9
phong trào đòi độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh đòi độc lập lúc quyết liệt, lúc
lắng dịu. Đặc biệt, có một số vấn đề nổi cộm ở châu Á hiện nay như: vấn đề
Đông Timo ở Inđônêxia, vấn đề Moro ở Philippin, vấn đề Tây Tạng, Tân Cương
ở Trung Quốc…
Ở đại lục châu Phi, các vấn đề nổi cộm của các quốc gia có nội chiến
kéo dài đa phần liên quan đến vấn dân tộc. Sau chiến tranh lạnh, cùng với sự
tan rã của chính quyền Môn-ri-xô đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, Ê-ritơ-ri-a cũng đã giành được độc lập từ Ê-ti-ô-pi-a. Hiện nay, giữa hai nước
Nga và Ê-ti-ô-pi-a đang diễn ra những cuộc can qua, tranh chấp về vấn đề
lãnh thổ. Trên thực tế, đây là vấn đề do ly khai trước kia để lại.
Từ bán đảo Ban-căng qua vùng Tiểu Á, Cáp-ca-dơ, lưu vực Lưỡng Hà,
Cao nguyên I-ran, Trung Á, đại lục Nam Á, quần đảo Nam Dương đến Nam
Thái Bình Dương đâu đâu cũng bùng nổ các cuộc chiến xung đột sắc tộc, tôn
giáo và ly khai dân tộc.
* Nguyên nhân dẫn tới ly khai dân tộc và xung đột sắc tộc

Khi xem xét, đánh giá nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa ly khai dân tộc
ở các nước trên thế giới hiện nay, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều nguyên
nhân, dưới góc độ tiếp cận khác nhau. Nhìn chung, có thể đưa ra một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, mối thù vốn có trong lịch sư
Các quốc gia, dân tộc ngày nay tuyệt đại đa số được thành lập từ thời
phong kiến. Trong lịch sử, tầng lớp thống trị phong kiến hoặc dân tộc chiếm
vị trí thống trị thường không tránh khỏi việc áp dụng chính sách bất bình
đẳng, kỳ thị, chèn ép, bóc lột đối với các dân tộc thiểu số hoặc các dân tộc bị
thống trị khác. Vũ lực là biện pháp thông dụng nhất để giải quyết phân tranh
giữa các dân tộc thời đó. Thậm chí, một số khu vực dân tộc thiểu số mà quốc
gia đó có được là do dùng vũ lực thôn tính, mà điển hình là một số vùng dân


10
tộc thuộc Liên Xô. Lịch sử đó tất yếu để lại những dấu ấn khó phai trong quan
hệ giữa các dân tộc và không dễ nhanh chóng xóa mờ. Đặc biệt là, hiện nay
một số quốc gia dân tộc vẫn chưa thể xây dựng mối quan hệ giữa các dân tộc
trên cơ sở bình đẳng. Thêm vào đó, những mối thù còn để lại trong các cuộc
phân tranh, xung đột trong lịch sử. Khi gặp thời cơ thích hợp là chúng sẽ bùng
nổ tức thì.
Thứ hai, sự phát triển không đồng đều về kinh tê
Do những nguyên nhân lịch sử, sự phát triển của một số dân tộc thiểu
số trong nội bộ một số quốc gia dân tộc luôn bị tụt hậu và giữ một khoảng
cách rất lớn so với dân tộc, chủ thể của quốc gia đó. Điều ấy dẫn tới việc dân
tộc thiểu số cảm thấy bất mãn, từ đó nảy sinh tư tưởng ly khai. Đôi khi tình
hình lại ngược hẳn, một số dân tộc thiểu số lại phát triển quá nhanh, không
muốn gánh vác thêm các khu vực lạc hậu hậu khác, đặc biệt là gánh nặng viện
trợ cho khu vực lạc hậu của dân tộc chủ thể. Họ cho rằng, như thế họ sẽ bị
chặn chân chặn tay và này sinh tư tưởng ly khai. Hai trường hợp ấy đều có

biểu hiện trên thực tế.
Thứ ba, sự sai lầm trong chính sách dân tộc
Đôi khi nguyên nhân là do chính phủ áp dụng chính sách dân tộc bất
bình đẳng, thực thi chính sách áp chế mạnh, đồng hóa cưỡng bức đối với dân
tộc thiểu số: Liên Xô đã phạm phải loại sai lầm này trong vấn đề dân tộc. Ở
Xu-đăng, chính quyền Trung ương miền Bắc đã tiến hành Hồi giáo hóa cưỡng
bức đối với những người dân da đen miền Nam. Tuy nhiên, đôi khi nguyên
nhân lại là do chính sách dân tộc quá lỏng lẻo, tạo cơ hội cho khuynh hướng
tâm lý ly khai trỗi dậy, điển hình là ở Liên bang Nam Tư cũ.
Thứ tư, cuộc chiên quyền lực
Ở một số quốc gia, một vài dân tộc có thực lực khá cân bằng, vì tranh
giành nhau quyền chỉ đạo đất nước, kết quả dẫn tới xung đột, có khi là tự tan


11
rã của Nhà nước. Ví như tranh chấp giữa người Séc và Slô-va-ki-a, giữa
người Croa-ti-a và người Xéc-bi-a.
Thứ năm, những đối tượng dân tộc thiểu số theo chủ nghĩa cực đoan
cố tình gây rối, thao túng và lợi dụng.
Một số đối tượng dân tộc thiểu số có dã tâm, có âm mưu lợi dụng mâu
thuẫn giữa các dân tộc và những khó khăn về kinh tế, chính trị của đất nước,
cố tình tuyên truyền, khuấy động, khoét sâu mối thù hận giữa các dân tộc.
Thậm chí họ còn cầu cứu các thế lực bên ngoài, lừa bịp, thúc ép chính quyền
trong nước tham gia vào các phong trào ly khai dân tộc.
Thứ sáu, sự can thiệp của các thê lực bên ngoài
Ở đây vừa có sự can thiệp của “mẫu quốc” của dân tộc ấy, ví như sự can
thiệp của An-ba-ni đối với Cô-xô-vô; vừa có sự can thiệp của các nước láng
giềng vì âm mưu lợi cho bản thân, ví như việc Hy Lạp, Xi-ry ủng hộ, giúp đỡ
các thế lực theo chủ nghĩa ly khai người Cuốc ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì họ đều có
mâu thuẫn và xung đột với về lợi ích địa chiến lược với Thổ Nhĩ Kỳ; cũng có

trường hợp là sự can thiệp của một quốc gia hay một thế lực tôn giáo quốc tế
dưới danh nghĩa một tôn giáo hay một giáo phái nào đó. Ngoài ra, có trường
hợp là sự can thiệp của các thế lực cường quyền quốc tế. Việc NATO do Mỹ
cầm đầu công khai ủng hộ các thế lực ly khai ở Cô-xô-vô (Nam Tư) hiện nay là
một ví dụ điền hình.
* Đối sách cơ bản ngăn chặn chủ nghĩa ly khai dân tộc
Trên thế giới hiện nay, các quốc gia đa dân tộc đều đang phải đối mặt
với các vấn đề dân tộc của chính mình, nhưng không phải tất cả mọi quốc gia
đều có thể bị phân chia. Một mặt, chính sách dân tộc và các biện pháp biện
pháp đề phòng đóng vai trò quan trọng. Mặt khác, thực lực của các quốc gia
dân tộc cũng có vai trò quan trọng không kém.


12
Các quốc gia đa dân tộc trước hết cần phải có chính sách dân tộc đúng
đắn, để nhân dân các dân tộc có sự biến đổi thực sự về chính trị và cũng được
phát triển về kinh tế. Tiếp đến, cần phải có các biện pháp hữu hiệu để đề
phòng, ngăn chặn khuynh hướng ly khai dân tộc. Quan trọng nhất là phải thu
phục được lòng người, làm sao để các dân tộc thiểu số kiên định nhận thức và
cảm thông với đất nước. Có như thế mới triệt hạ tận gốc các phần tử ly khai
dân tộc thiểu số và làm chúng mất đi nền tảng quần chúng. Mấy năm gần đây,
các phần tử ly khai dân tộc ở một số quốc gia để đạt được mục đích của
chúng, đã có những mối liên hệ quan trọng với một số khu vực dân tộc thiểu
số - nơi chính quyền Trung ương của quốc gia đó không được lòng dân. Vũ
lực là thủ đoạn chủ yếu để ngăn chặn ly khai dân tộc, nhưng nếu không chú
tâm thu phục lòng dân thì khó mà đạt được hiệu quả lâu dài. Như trường hợp
Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành trấn áp đối với người Cuốc, nhiều lần trấn áp mà phong
trào ly khai vẫn cứ nổi lên, liên miên không dứt. Đồng thời, sự ổn định chính
trị và sự lớn mạnh của thực lực đất nước ở các quốc gia dân tộc cũng là một
đảm bảo quan trọng để ngăn chặn ly khai. Trên thực tế, các cuộc ly khai dân

tộc đều phát sinh khi đất nước xảy ra những bước ngoặt lớn, một số cuộc ly
khai quốc gia dân tộc ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI xuất hiện theo sau
những biến cố về chính trị-xã hội. Ở một mức độ nào đó mà nói, đó là sản
phẩm của thời kỳ đất nước rơi vào suy yếu, khó khăn. Liên Xô, Tiệp Khắc,
Liên bang Nam Tư và Ê-ti-ô-pi-a đều nằm trong tình trạng đó. Hiện tại, nguy
hiểm nhất vẫn là sự can thiệp, ủng hộ và can thiệp từ bên ngoài, đặc biệt là sự
xúi bẩy, giúp đỡ, bao che của các thế lực cường quyền quốc tế đối với chủ
nghĩa ly khai dân tộc vì lợi ích riêng của bản thân họ. Biện pháp dương cao
ngọn cờ “nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp, chỉ trích vô cớ vấn đề
dân tộc của quốc gia có chủ quyền chính là một hình thức mới của chủ nghĩa
bá quyền. Các quốc gia luôn luôn cần tăng cường phối hợp, áp dụng lập


13
trường chung, kiên trì ngăn chặn, đấu tranh đề phòng khuynh hướng nguy
hiểm này tiếp tục lan tràn.
2. Vấn đề tự trị, tự quản ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng, sở dĩ có sự phát triển của chủ
nghĩa ly khai dân tộc là do những điều mà các nhà kinh điển mác-xít đã dự
báo trước đó. Nó hoàn toàn diễn ra một cách khách quan, không phải do ý
muốn chủ quan của một cá nhân nào. Họ viện cớ rằng, trong Cương lĩnh dân
tộc, Lênin đã đề cập đến “vấn đề dân tộc tự quyết”. Tuy nhiên, chúng ta cần
phải hiểu quyền tự quyết là gì và nó dựa trên cơ sở nào để có một cách nhìn
nhận đúng đắn về vấn đề này.
Lênin cho rằng, quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các
dân tộc có quyền độc lập về chính trị, có quyền tự do phân lập về mặt chính
trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói một cách cụ thể, yêu sách đòi dân chủ chính
trị đó có nghĩa là hoàn toàn tự do tuyên truyền cho việc phân lập bằng con
đường trưng cầu dân ý trong dân tộc muốn phân lập. Như vậy là yêu sách đó
hoàn toàn không đồng nghĩa với yêu sách đòi phân lập, phân tán, thành lập

những quốc gia nhỏ.
Tuy nhiên, đến nay vẫn có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vấn đề
quyền tự quyết dân tộc Lênin chỉ nêu ra trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Lênin cho rằng: “chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ
dân chủ hoàn toàn và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn bình
quyền với nhau, mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức,
tức là quyền tự do phân lập về mặt chính trị. Cả hiện nay lẫn trong thời kỳ
cách mạng, và sau khi cách mạng thắng lợi, các đảng xã hội chủ nghĩa nào mà
không chứng minh bằng toàn bộ hoạt động của mình rằng họ sẽ giải phóng
các dân tộc bị nô dịch và sẽ xây dựng những quan hệ của mình với các dân
tộc đó trên cơ sở một liên minh tự do - và liên minh tự do sẽ là một lời dối trá


14
nếu nó không bao hàm quyền tự do phân lập - thì các đảng đó sẽ phản bội chủ
nghĩa xã hội”1
Chính Lênin với tư cách là nhà cách mạng, người dân chủ, là người đã
gương mẫu thực hiện cương lĩnh ấy của đảng trong thực tiễn. Vì vậy, ngay
sau khi cách mạng tháng Mười thành công, Lênin tuyên bố các dân tộc thuộc
đế quốc Nga hoàn toàn tự quyết. Các nước này phần lớn (trừ Phần Lan và Ba
Lan) sau năm 1922 lại tự nguyện gia nhập một Liên bang Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô-viết gồm 15 nước cộng hòa Xô-viết và rất nhiều nước cộng hòa
tự trị khác.
Điều đang chú ý đối với chúng ta là các nhà nước dân tộc trong đế
quốc Nga đều là các dân tộc có thành phần dân cư (tộc người) khá thống nhát,
cư trú trên một lãnh thổ xác định, hình thành khá bền vững trong lịch sử, có
ngôn ngữ tộc người và cộng đồng văn hóa riêng như người Grudia, Ca-dắcxtan, Ba Lan, Phần Lan…Các tộc người trong các nước cộng hòa tự trị, tính
tự trị của Liên Xô cũng đều sống trong một lãnh thổ nhất định và khá ổn định.
Và đây là điểm khác biệt với tình hình các dân tộc ở nước ta.
Mặt khác, Lênin còn khẳng định quyền dân tộc tự quyết là quyền căn

bản để đảm bảo quyền bình đẳng cho các dân tộc, một đảm bảo để giải phóng
các dân tộc bị áp bức.
Như vậy, tự quyết là nhằm xây dựng các quan hệ tiến bộ giữa các dân
tộc, chứ không phải theo chủ nghĩa dân tộc sôvanh hoặc kỳ thị, để khoét sâu
thêm hố ngăn cách, bất bình đẳng giữa dân tộc này và dân tộc khác. Quyền tự
quyết dân tộc không mâu thuẫn với sự thống nhất giữa các dân tộc trên cơ sở
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, trên cơ sở liên minh giai cấp công
nhân giữa các dân tộc, mà còn không mâu thuẫn với sự thống nhất các dân tộc
một cách tự nguyện trong một liên bang xã hội chủ nghĩa, thậm chí trên phạm
1

V.I.Lê nin: toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xít cơ va, 1980, tập 27, tr.323


15
vi toàn thế giới. Điều đó chỉ có thể làm được, nếu trước hết phải giáo dục ý
thức dân tộc mới cho các dân tộc thông qua giao lưu, liên minh văn hóa. Một
mặt, Lênin bảo vệ nguyên tắc tự quyết về chính trị, song Lênin cũng kiên
quyết phản đối quan điểm tự trị về văn hóa.
Tóm lại, vấn đề tự quyết, tự trị, tự quản…là vấn đề thường xuyên có
tính phổ biến trong các quốc gia đa dân tộc (nation) và đa tộc người (ethnic),
trong các vùng đa dân tộc và đa tộc người. Vấn đề đó được đặt ra và giải
quyết như thế nào còn tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử. Song cần nhấn mạnh rằng, nếu giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết
không đúng trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ là điều kiện
thuận lợi cho chủ nghĩa ly khai phát triển.
Đối với Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em.
Trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số, khoảng 87% dân số, 53 dân tộc còn lại như
Tày, Nùng, Mường, Thái…chỉ chiếm khoảng 13% dân số. Như vậy, nước ta là khu
vực giao lưu của nhiều tộc người, nhiều loại hình nhân chủng, nhiều ngữ hệ khác

nhau. Trên lãnh thổ Việt Nam từ xa xưa đã diễn ra các quá trình di cư của nhiều tộc
người. Nhiều tộc người hiện đang sinh sống ở nước ta, vốn trước đây cư trú ở các
khu vực bên ngoài, đã đi vào nước ta cư trú mấy trăm năm qua như người Mông,
Dao, Hoa…Quá trình di cư của các tộc người hoặc nhóm người ở nước ta làm cho
bản đồ phân bố dân cơ ở nước ta rất phức tạp. Nhiều tộc người thiểu số có quan hệ
đồng tộc với các nước láng giềng; nhiều tộc người cư trú đan xen với các tộc người
khác. Tính đa tộc người và đan xen thể hiện trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, sau
những biến động lịch sử to lớn, một bộ phận không nhỏ người Việt Nam gồm nhiều
tộc người khác nhau, do nhiều lý do khác nhau, di cư sang nước ngoài, tạo thành
cộng đồng người Việt ở nước ngoài (khoảng trên 3 triệu người).
Với tính chất phức tạp như vậy nên xu hướng phân tách để tự quản, tự
trị có điều kiện thuận lợi để nảy sinh. Đặc biệt, trước đây do chính sách và thủ


16
đoạn của bọn đế quốc thực dân xâm lược. Đó là chính sách chia để trị; kích
động gây hằn thù, kỳ thị dân tộc, chia rẽ người Kinh với các dân tộc thiểu số,
giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, chúng
chia nước ta làm 3 kỳ với chế độ cai trị khác nhau (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ); lập ra xứ Thái tự trị, Mường tự trị, Mèo tự trị làm nhiều cộng đồng
tộc người bị xé lẻ, phân tán. Đế quốc Mỹ xâm lược, dựng nên chính quyền tay
sai, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngay ở miền Nam chúng cũng âm
mưu chia rẽ người Kinh với các tộc người thiểu số; lợi dụng những vấn đề
lịch sử để lại kích động gây hận thù giữa các tộc người; thậm chí chúng còn
nuôi dưỡng lực lượng phản động trong các tộc người thiểu số Tây Nguyên,
lập ra tổ chức Phulrô để chống phá sự đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã quan tâm giải
quyết vấn đề dân tộc nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Đối với vấn đề
tự quản, tự trị của đồng bào dân tộc thiểu số - đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm

và phức tạp. Tuy nhiên, Đảng ta đã có chủ trương, chính sách giải quyết rất cụ
thể. Trong Luận cương cách mạng Việt Nam đệ trình Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng về hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: chính sách dâ tộc của Đảng là
dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc: dân tộc
tự quyêt, địa phương tự trị, dân tộc bình đẳng và tương trợ.
Luận cương nhấn mạnh: “Chúng ta chủ trương thừa nhận quyền địa
phương tự trị đối với những dân tộc thiểu số tương đối đông và sống quây
quần trong một khu vực nhất định. Tùy theo trình độ cao thấp của từng dân
tộc mà quy định chế độ tự trị đó: trình độ cao thì tự trị về mọi mặt (tự trị
chính trị) trình độ thấp thì tự trị riêng về hành chính (tự trị hành chính)”2.

2

Hội đồng dân tộc của Quốc hội khóa X: Chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nxb,
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.33


17
Ở đây sống quây quần có nghĩa là địa bàn cư trú được xác định và
ổn định, tự trị chính trị là có quyền hoạch định chính sách, quyền tự trị
hành chính là quyền tự quản. Luận cương cũng đồng thời nhấn mạnh, lúc
này (1951) chưa thể thực hiện được tự trị vì các dân tộc chưa được chuẩn
bị; hai là vì vậy giống như việc đem các dân tộc ra làm mồi cho bọn đế
quốc xâm lược và bọn phản động. Do vậy, muốn thực hiện chính sách dân
tộc, Luận cương vạch ra những nhiệm vụ như sau: “1) Giúp đỡ các dân tộc
thiểu số tham gia chính quyền các cấp.
2) Mở mang kinh tế cải thiện đời sống vùng thiểu số.
3) Phát triển văn hóa, văn nghệ, xây dựng chữ viết của dân tộc thiểu số.
4) Xóa bỏ những thành kiến dân tộc, giải quyết mọi xung đột dân tộc

theo tinh thần đoàn kết thân ái và bình đẳng, tăng cường hữu ái giữa các dân
tộc đa số và thiểu số.
5) Trừng trị bọn thổ phỉ, phản động, tay sai, khiêu khích, chia rẽ các dân tộc”3
Trong báo cáo về công tác Mặt trận tại hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ IV khóa II, Đảng ta cho rằng: Việc xây dựng các khu tự trị theo chỉ thị của Hồ Chủ Tịch trong báo cáo khai mạc, cần chú ý việc gây điều
kiện đầy đủ để có thể giúp đồng bào thiểu số thành lập các khu tự trị. Điều
kiện cần thiết cho việc thành lập ấy là:
a) Về quân sự: Khu vực ấy xa địch và tương đối an ninh.
b) Về kinh tế: Sinh hoạt của đồng bào đã được ít nhiều cải thiện và có
điều kiện phát triển được kinh tế địa phương.
c) Về chính trị: Cơ sở quần chúng đã tương đối vững, quần chúng đã
được phát động và bọn lưu manh, đặc vụ đã bị quét sạch. Đặc biệt là có một
số địa phương đảm đương được công việc cần thiết.
3

Hội đồng dân tộc của Quốc hội khóa X: Chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nxb,
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.56


18
Rõ ràng, nếu không chuẩn bị được đầy đủ các điều kiện trên mà vẫn
thực hiện “tự trị” thì hoặc là sa vào âm mưu chia rẽ của kẻ địch hoặc chỉ là
“tự trị” hình thức mà thôi.
Sau ngày giải phóng miền Bắc (1954), căn cứ vào đặc điểm dân cư các
vùng Việt Bắc và Tây Bắc, chúng ta đã thành lập khu tự trị Việt Bắc và khu
tự trị Tây Bắc. Lúc ấy, mặc dù các dân tộc thiểu số những vùng ấy vẫn sống
xen kẽ, nhưng thành phần dân tộc có cơ cấu khác với hiện nay, người Kinh có
rất ít hoặc nhiều nơi không có.
Việc thành lập khu tự trị như vậy đã tạo điều kiện cho các dân tộc phát
huy được tính tích cực của mình trong tổ chức đời sống kinh tế - xã hội. Chủ

tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và chú ý đến hai khu tự trị này. Người mong
rằng đây sẽ là hai khu tự trị kiểu mẫu.
Đánh giá về khu tự trị Việt Bắc, Nghị quyết của Ban bí thư số 27NQ/TƯ ngày 03/11/1961 cho rằng: việc thành lập khu tự trị Việt Bắc đã đem
lại nhiều kết quả tích cực, đồng bào các dân tộc phấn khởi, các tình trong khu
tự trị đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Nhưng sau một thời gian sau đó, tình hình đất nước có nhiều thay đổi,
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mở rộng ra khắp miền Bắc, kể cả
vùng dân tộc (là vùng chiến lược trọng yếu về an ninh quốc gia). Các vùng
dân tộc khó cỏ thể được bảo vệ nếu vẫn giữ mô hình quản lý cũ. Mặt khác,
các cuộc di dân khai phá “rừng hoang” được phát động sau ngày hòa bình lập
lại đã làm thay đổi cơ cấu dân cư trong hai khu vực miền núi này. Người Kinh
từ chỗ chỉ chiếm 2-3% dân cư, thậm chí nhiều vùng không có, thì nay đã lên
đến 40-50%, hoặc có nơi còn cao hơn. Vấn đề “tự trị” rõ ràng cần phải được
xem xét lại, vì không phù hợp nữa, nếu không tiến hành tổ chức tốt sẽ trở
thành hình thức, thậm chí phản tác dụng. Việc “giải tán” các khu tự trị có tính
tất yếu kinh tế - xã hội của nó.


19
Truyền thống sống xen kẽ giữa người Kinh và người các dân tộc thiểu
số rõ ràng có lợi cho việc giao lưu phát triển mọi mặt của các dân tộc. Đây là
khuynh hướng chủ yếu, chủ đạo trong quan hệ giữa các dân tộc. Tất nhiên do
những tàn tích văn hóa cũ, do những tư tưởng sôvanh hoặc hẹp hòi kỳ thị dân
tộc, khó tránh khỏi những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn nhất định. Nhưng
đây chỉ là những biểu hiện không lành mạnh, sai trái, thậm chí cực đoan, chưa
bao giờ và sẽ không bao giờ được phép trở thành lực lượng đáng kể, ảnh
hưởng đến tình đoàn kết đồng bào thiêng liêng được hun đúc từ ngàn đời
trong truyền thống giữ nước và dựng nước của các dân tộc trên mảnh đất Việt
Nam, được thử thách qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và
chung tay đấu tranh với cái nghèo nàn lạc hậu, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau

cùng phát triển.
Vấn đề phân cấp, tự trị, hay tự quản đặt ra hay không cũng đều phải
xuất phát từ những nền tảng văn hóa, văn minh ấy, và đó là vấn đề có tình
nguyên tắc trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc chúng ta.
Thực tế, trong một thời gian khá dài, ở phạm vi toàn quốc chúng ta đã
quá nhấn mạnh tập trung quan liêu, coi nhẹ việc phân quyền, phân cấp. Ở
vùng đồng bào dân tộc, song song với việc xóa bỏ các hình thức tự trị, tự
quản, chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm như áp đặt một số chính
sách miền xuôi cho vùng miền núi, làm hạn chế khả năng sáng tạo của nhân
dân các vùng đó.
Tình hình trên đã tạo điều kiện cho các lực lượng thù địch lợi dụng
chống phá ta trong vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc. Một số phần tử phản
động do sự ủng hộ từ bên ngoài đang có những hoạt động chia rẽ dân tộc, đòi
“độc lập” hoặc “tự trị” cho khu vực này hoặc khu vực khác, đặc biệt là bọn
Phulro đòi thành lập nước “Đềga độc lập”. Những yêu sách như vậy không có
căn cứ lịch sử, khoa học và pháp lý.
Một vấn đề mới trong quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay là biểu hiện
đòi đất và đòi tự trị của mọt số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, của người


20
Khơme ở Tây Nam Bộ, các đợt di tản chính trị rải rác của người dân tộc thiểu
số từ Tây Nguyên sang một số trại tị nạn của tổ chức Cao ủy Liên hiệp quốc
về người tị nạn (UNHCR) trên đất Campuchia từ năm 2001 đến nay, việc
tham gia các hoạt động thổ phỉ của một số người H’mông với những người
đồng tộc ở bên kia vùng biên giới của nước Lào, của người dân tại chỗ Tây
Nguyên vào cái gọi là “Nhà nước Đềga độc lập”…
Tư tưởng ly khai được thể hiện rõ hơn cả ở tộc người Khơme Tây Nam
Bộ. Do tác động của tình trạng nghèo đói và tâm lý “bị mất đất” trong người
Khơme ở Tây Nam Bộ và của xu hướng phân ly, đòi tự trị của những tộc

người bản địa tại các quốc gia đa tộc người trên thế giới, do sự kích động của
một số tổ chức chính trị phản động của người Khơme ở hải ngoại như Hội
Nhân quyền Khơme Crôm, Đảng Khơme tự do (Khơme Krey), nhất là cái gọi
là Liên bang Khơme Campuchia - Crôm ( viết tắt là KKF), với lá cờ ba màu
xanh, đỏ, vàng, với các yếu nhân như Sơn Tuôn, Thạch Thanh, có trụ sở đặt
tại Mỹ, người Khơme đã ủng hộ và tham gia việc đòi tách đất Tây Nam Bộ ra
khỏi Việt Nam, và sáp nhập vào Campuchia…
Như vậy, vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay hết sức phức tạp. Nếu
không giải quyết kịp thời và đúng đắn sẽ gây lên những hệ quả khôn lường,
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá, xem xét tình hình diễn biến vấn đề dân
tộc thời gian qua ở phạm vi cả nước, nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nghệ An, Tây Nam Bộ…chúng ta đã chỉ ra một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Chính sách khoán 10 và trước đó là khoán 100 là một chủ
trương đúng để nền nông nghiệp ở nước ta có bước đột phá, nhưng đối với
miền núi, do việc triển khai, thực hiện không tốt nên đã có những nơi (đặc
biệt là vùng Đông Bắc) người dân đòi lại đất đai của cha ông mà trước đây đã
đưa vào hợp tác xã nông nghiệp, kể cả những nơi đã xây dựng công trình
công cộng. Đặc biệt là người dân tại chỗ đòi lại đất đại trước đó đã nhường
cho đồng bào vùng cao “hạ sơn” theo chương trình Định canh định cư, cho


21
đồng bào miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới, cho đồng bào vùng biên
di chuyển vào thực hiện việc thiết lập “vành đai biên giới”, làm cho mối quan
hệ dân tộc ở các vùng đó cực kỳ phức tạp vào những năm cuối thập niên 80,
90 của thế kỷ trước.
Thứ hai: Việc ưu tiên đầu tư cho các dân tộc thiểu số mà không tình
đến vấn đề địa vực cư trú và tình trạng phân bố xen kẽ giữa các tộc người đã
làm cho mối quan hệ tộc người ở một số địa phương bị tổn thương. Một số

người được ưu tiên đầu tư muốn tách ra sống riêng biệt để được hưởng đầy đủ
sự ưu đãi đó, điều mà trước đây chưa hề xảy ra trong mối quan hệ giữa các
tộc người ở nước ta.
Thứ ba: Việc ban hành Nghị định 364 về việc điều chỉnh địa giới hành
chính ở các địa phương, cũng như trong quá trình thực hiện Nghị định này, do
chưa lường hết được những khó khăn, lại bất chấp các quy định truyền thống
của địa phương nên đã đem lại những kết quả không theo ý muốn, làm nảy
sinh mâu thuẫn, kiện cáo mang tính tập thể giữa thôn với thôn, xã với xã,
huyện với huyện, tỉnh với tỉnh, nhất là những tỉnh miền múi phía Bắc.
Thứ tư: Tình hình di dân tự do ở miền núi, vùng các dân tộc thiểu số
bột phát gia tăng, chủ yếu theo hướng bắc - nam và đông - tây, làm cho những
dịa bàn nhập cư có thời kỳ rất căng thẳng và phức tạp, gây nên va chạm giữa
các tộc người tại chỗ và dân nhập cư từ nơi khác đến.
Thứ năm: Chúng ta đã xây dựng nhiều công trình công cộng và khai
thác nhiều loại tài nguyên ở miền núi nhưng việc đền bù cho người dân và
công tác tái định cư làm không tốt, ảnh hưởng lớn đến niềm tin của đồng bào
các dân tộc ở các địa phương miền núi đối với Đảng, Nhà nước cũng như mối
quan hệ giữa các tộc người, nhất là người Kinh với các tộc người thiểu số.
Thứ sáu: Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách về dân tộc
và miền núi, bên cạnh những thành tựu đem lại từ việc thực hiện các chính
sách đó là rất lớn, cũng còn nhiều hạn chế cần chú ý. Bởi vì không những
chính sách có nội dung chung chung mà giữa các chính sách còn thiếu sự


22
đồng bọ, đôi khi là sự chắp vá, mang nặng mặt này nhẹ mặt kia và ngược
lại, làm cho miền miền núi, vùng các dân tộc thiểu số có phát triển cũng
thiếu tính bền vững.
Thứ bảy: Đất đai là vấn đề nhạy cảm và phức tạp nhất ở miền núi,
vùng các dân tộc thiểu số hiện nay, nhưng chưa có một số chủ trương, chính

sách nào giải quyết được cơ bản, mà chỉ mang tính chắp vá. Tình hìh khiếu
kiện, tranh chấp đất đai ở vùng các dân tộc, miền núi sẽ còn tiếp tục căng
thẳng và phức tạp.
Thứ tám: Các thế lực thù địch trong và ngoài nước ra sức cấu kết,
móc nối hai vấn đề nhạy cảm là dân tộc và tôn giáo để vu khống Đảng và
Nhà nước ta vi phạm về nhân quyền. Tuy nhiên, chúng ta chưa có nhừng
giải pháp hữu hiệu để chủ động giải quyết vấn đề này mà chỉ đề cập đến
một cách chung chung ở hai Nghị quyết 24 và 25 của Hội nghị Trung ương
khóa VII, khóa IX.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề dân tộc,
nhất là vấn đề tự quản, tự trị hiện nay ở một số khu vực đồng bào dân tộc
thiểu số, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục có sự bổ sung chính sách giải
quyết vấn đề dân tộc.
Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định
canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới.


23
Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với đảm
bảo an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những

người tiêu biểu trong các dân tộc.
Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức
là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền
núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm
tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
* Quân đội nhân dân Việt Nam với việc thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta
Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân. Cán bộ, chiến sĩ
quân đội ta là con em của đồng bào các dân tộc Việt Nam, có quan hệ máu
thịt với đồng bào, được Đảng và Nhà nước tin cậy.
Thực hiện quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là một
trong những điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nó là trách nhiệm đồng thời cũng là vinh dự
của quân đội, thể hiện bản chất, truyền thống của quân đội ta.
Hiện nay, miền núi vẫn giữ vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn
hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đang có
nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xuyên tạc chống phá quan điểm, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tìm cách chia rẽ, kích động, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc, hòng làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, quân đội ta tích cực thực hiện thắng lợi quan điểm,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta càng có ý nghĩa chính trị to lớn,
trực tiếp củng cố thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
cũng trực tiếp góp phần xây dựng miền núi vững mạnh về mọi mặt, phục vụ
tích cực, có hiệu quả cho cuộc sống của đồng bào các dân tộc, xứng đáng với
niềm tin yêu của nhân dân.


24
Để thực hiện tốt quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước

ta, Quân đội cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản sau:
- Làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội quán triệt sâu sắc quan điểm,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhận rõ nhiệm vụ, vinh dự và trách
nhiệm, từ đó có ý thức và hành động thiết thực, chủ độngm, sáng tạo trong
thực hiện chính sách dân tộc.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ở vùng miền núi,
tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ và tích cực thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước; xây dựng khối đoàn kết dân tộc, động viên đồng
bào hăng hái thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phóng và an ninh ở miền núi.
- Tích cực tham gia xây dựng miền núi, cơ sở địa phương, vùng dân tộc
tiến bộ, vững mạnh về mọi mặt.
- Xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc ở miền núi, vùng
dân tộc ít người.
- Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa các dân tộc; giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật
quân dân; giữ gìn và phát huy hình ảnh “Bộ đội cụ Hồ”. Trong quan hệ với
nhân dân các dân tộc, phải thực hiện tốt phương châm: kiên nhẫn, thận trọng,
gương mẫu, công khai, dân chủ, bình đẳng.
- Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đập tan những âm mưu và
thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng, nhất là ở
các khu vực dân tộc ít người.


25
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, chủ nghĩa ly khai dân tộc
đã, đang và sẽ tiếp tục gây nên những cuộc chiến tranh cục bộ. Đó là hệ quả
tất yếu từ sự xung đột về dân tộc, sắc tộc. Vì vậy, nhận thức và giải quyết
đúng đắn nhằm ngăn chặn hiện tượng ly khai trở thành vấn đề mang tính thời

sự hiện nay. Bởi nó đe dọa đến nền hòa bình, an ninh thế giới, khu vực và đối
với từng quốc gia dân tộc, nhất là những quốc gia đa dân tộc.
Đối với cách mạng Việt Nam, vấn đề dân tộc được xác định là vấn đề
có vị trí chiến lược. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo nên động lực chủ yếu để
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, kế thừa những bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề dân tộc của cha
ông, Đảng ta đã căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước để đưa ra những
quan điểm, chính sách dân tộc và tổ chức thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên,
cũng cần nghiêm túc nhìn nhận những kết quả đã đạt được và những hạn chế
còn tồn tại trong giải quyết vấn đề dân tộc để bổ sung kịp thời chính sách dân
tộc. Đồng thời, cần đẩy mạnh đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, đòi độc lập. Kết hợp đẩy mạnh
tuyên truyền giáo dục với biện pháp hành chính đối với những người bị kẻ
địch lợi dụng để chống phá chính quyền. Kiên quyết đập tan những âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực phản động trong và ngoài nước, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vững mạnh.


×