Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN tác ĐỘNG của BIẾN đổi xã hội THỜI kỳ đổi mới đến NGHIÊN cứu và vận DỤNG học THUYẾT đấu TRANH GIAI cấp của CHỦ NGHĨA mác lê NIN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.94 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thế giới hiện đại, chúng ta đều biết rằng xã hội không bao giờ tĩnh tại, rằng
những biến đổi chinh trị, xã hội và văn hoá diễn ra thường xuyên. Một số biến đổi xã hội
mạnh mẽ nhất trong thế giới hiện đại lại diễn ra bởi sự xuất hiện của ô tô, của thuốc
kháng sinh, của vô tuyến truyền hình, của máy vi tính và gần đây nhất là của mạng
internet, với các yếu tố cấu thành những xã hội thông tin đang đến gần. Những biến đổi
xã hội cũng có thể diễn ra dưới tác động của các nhân tố môi trường và những chuyển
đổi quốc tế về lợi thế chính trị và kinh tế.
Các nhà xã hội học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội một cách rộng
khắp thông qua việc phân tích kỹ lưỡng các q trình biến đổi đặc biệt. Các lý thuyết về
biến đổi xã hội hiện nay bao trùm một phổ rất rộng lớn các loại biến đổi từ ngắn hạn đến
dài hạn, từ quy mô lớn đến quy mơ nhỏ, từ cấp độ tồn cầu đến cấp độ gia đình. Các nhà
xã hội học cũng quan tâm đến những biến đổi có tác động đến các chuẩn mực, các giá trị,
hành vi, ý nghĩa văn hoá và các quan hệ xã hội.
Ở nước ta, 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã
diễn ra một q trình biến đổi tồn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ mô và vi mơ, cả
về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội… Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn
của công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang
đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh
tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề…; sự phân hố giữa thành thị và
nơng thơn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất
bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hố giàu
nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt làm cho các giai cấp, tầng lớp
xã hội mới cũng đang biến đổi đa dạng, đang xen, đan cài vào nhau rất phức tạp ảnh
hưởng không nhỏ đến việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác – Lênin ở nước ta hiện nay.

2



Với ý nghĩa đó tơi chọn chủ đề tiểu luận : “Tác động của biến đổi xã hội trong
thời kỳ đổi mới đến nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác - Lênin ở nước ta hiện nay”.
NỘI DUNG
I. Biến đổi xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
1. Bối cảnh xã hội của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Gần 30 thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế. Đồng thời trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước cũng đang trải qua những biến đổi mạnh mẽ trong cơ
cấu xã hội, trong hệ thống các giá trị, trên quy mơ tồn xã hội và trong mỗi lĩnh vực và
hoạt động của các nhóm xã hội khác nhau. Bên cạnh đó, những tác nhân từ bên ngồi
như xu thế tồn cầu hố, hội nhập quốc tế và khu vực cũng đã và đang tác động đáng
kể, chi phối chiều hướng và nhịp độ biến đổi xã hội của đất nước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề nhận diện
và dự báo các xu hướng biến đổi xã hội của Việt Nam vẫn là một trong những
nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học xã hội, đặc biệt, của xã hội học.
Nghiên cứu về biến đổi xã hội thường được nhìn nhận từ một số chiều cạnh
hoặc cách tiếp cận: cấu trúc – hành vi, vĩ mô - vi mô hoặc kết hợp các cách tiếp cận
này. Như vậy, nghiên cứu những biến đổi xã hội có thể được triển khai trên 2 trục
chính là: những biến đổi của cơ cấu xã hội và những biến đổi trong các khuôn mẫu
hành vi và lối sống của các nhóm xã hội.
Nghiên cứu để trả lời cho các câu hỏi về thực trạng và xu hướng biến đổi của
các nhóm xã hội quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay là một loại
nghiên cứu cơ bản ở tầm vĩ mô, và cần phải tiến hành trong một thời gian dài mới
có thể trả lời cho vấn đề này một các khái quát. Tuy nhiên, trong điều kiện hạn chế
về thời gian và nguồn lực, việc tiến hành những nghiên cứu trong phạm vi từng
nhóm xã hội hay từng lĩnh vực riêng lẻ sẽ có thể cho những câu trả lời hẹp hơn về
các biến đổi xã hội đang diễn ra ở các nhóm xã hội hoặc các lĩnh vực được nghiên
3



cứu. Bằng cách đó, từng bước chúng ta sẽ nhận diện những biến đổi quan trọng của
xã hội Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển, bao gồm cả tác động của
tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển xã hội, phát triển con người, bảo
đảm công bằng xã hội.
Các nghiên cứu như vậy nếu được tiến hành một cách liên tục, mang tính lịch
đại thì sẽ có thể so sánh các kết quả tại những thời điểm khác nhau, thực sự cho thấy
những biến đổi xã hội vi mô và vĩ mô qua thời gian.
Trong thập niên 1990 đã có một số cơng trình nghiên cứu của khoa học xã hội
mở đầu cho hướng nghiên cứu về biến đổi xã hội, trong đó có những đề tài thuộc các
chương trình nghiên cứu cấp nhà nước, nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc đổi
mới chính sách xã hội và phản ánh những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấu
xã hội Việt Nam. Một số nghiên cứu khác đề cập tới chủ đề biến đổi xã hội trong
quan hệ với những biến đổi trong các lĩnh vực cụ thể như y tế, giáo dục, phát triển
nơng thơn, phát triển đơ thị,... Ngồi ra, các cuộc điều tra thống kê thường kỳ, có quy
mơ tồn quốc, điều tra đa mục tiêu, điều tra về thực trạng Giàu Nghèo ở Việt Nam,
và nhiều báo cáo nghiên cứu của các tổ chức quốc tế (như NHTG, UNDP, các tổ chức
NGO) cũng đã phân tích và cung cấp nhiều thông tin, hiểu biết về chủ đề biến đổi xã
hội. Theo hướng này, cần tiếp tục khai thác các nguồn tư liệu hiện có để bổ sung cho
một cái nhìn tồn diện hơn về chủ đề biến đổi xã hội trong thập niên 1990, rút ra
những bài học kinh nghiệm để triển khai các nghiên cứu tiếp tục trong thời gian tới.
Nhiều nghiên cứu đó đưa ra nhận định chung là kinh tế thị trường càng phát
triển, sự phân hóa giàu nghèo cũng như mức độ phân tầng xã hội có xu hướng diễn ra
mạnh mẽ hơn.
Kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập và sự phát triển rộng rãi các loại hình
hoạt động sản xuất kinh doanh đó tạo ra nhiều cơ may, vận hội cho các cá nhân,
các nhóm hội phát triển vượt lên thành các nhóm giàu có, khá giả. Bên cạnh đó,
những cá nhân, nhóm xã hội nào khơng nắm bắt được các cơ hội cụ thể sẽ chỉ đạt
được mức sống trung binh, chậm chễ bị suy giảm và rơi vào nhóm có mức sống
nghèo đói. Những cá nhân, những nhóm xã hội có khả năng nắm bắt cơ may, biết

4


tận dụng và hội đủ các điều kiện do chính sách mở cửa tạo ra, kết hợp với khả
năng tính tốn nhạy bén, đó tạo nên sức mạnh kinh tế làm thay đổi đáng kể điều
kiện sống của bản thân và góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Có
thể gọi đó là những nhóm xã hội vượt trội mà sự giàu có lên của họ có thể làm
dỗng rộng khoảng cách giàu nghèo, nhưng cũng góp phần tạo ra động lực tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội.
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) dẫn lại nhiều nguồn
thông tin cho biết khoảng cách chênh lệch về thu nhập, giàu nghèo ở thành phố, các
vùng miền tại Việt Nam đang ngày càng nới rộng.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tình trạng phân hóa giàu nghèo tại Việt
Nam đang chuyển dần từ mức tương đối bình đẳng (năm 2002) sang mức chênh lệch
thu nhập ngày càng tăng giữa các nhóm dân cư.
CIEM dẫn báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố giữa
năm 2011 cho biết, số hộ nghèo trên cả nước đã tăng lên 1 triệu hộ, tức tăng 50% sau
khi mức chuẩn nghèo được điều chỉnh từ thu nhập 200.000 đồng/người/tháng lên
400.000 đồng/người/tháng tại nông thôn; từ 260.000đồng/người/tháng lên
500.000đồng/người/tháng tại khu vực thành thị. Theo chuẩn nghèo mới, hộ nghèo
chiếm 20% dân số.
Sự chênh lệch trong thu nhập được thể hiện rõ ở các thành phố, vùng miền.
CIEM dẫn số liệu năm 2011 của UBND thành phố Hà Nội cho biết, thu nhập bình
quân đầu người ở thủ đô trên 1.850 đô la Mỹ, TPHCM khoảng 3.000 đô la Mỹ, Cần
Thơ khoảng 2.350 đô la Mỹ.
Riêng Bà Rịa-Vũng Tàu, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đã đạt 5.800
đơ la, cao hơn gần 5 lần bình quân cả nước cùng thời điểm. Đặc biệt, nếu năm 2015
TPHCM chỉ đặt mức thu nhập bình quân đầu người là 4.800 đơ la, Hà Nội khoảng
3.300 đơ la thì Bà Rịa-Vũng Tàu đã đặt chỉ tiêu tới 11.500 đô la (nếu tính cả dầu thơ
là 15.000 đơ la Mỹ).

Ngược lại, các tỉnh nghèo thì thu nhập rất thấp. Năm 2011, thu nhập bình quân
đầu người của Nam Định đạt 19,2 triệu đồng/năm (khoảng 900 đô la Mỹ), Bắc Kạn là
5


14,6 triệu đồng (khoảng hơn 700 đô la ), Quảng Ngãi bình quân thu nhập chưa đến 9
triệu đồng/người/năm (hơn 400 đô la), Hà Giang chưa đến 6 triệu đồng/năm (dưới
300 đơ la).
Điểm đáng lưu ý là số người có tài sản từ 1 triệu đô la tại Việt Nam đang tăng
manh, với mức tăng năm 2011 là 33% so với cùng kỳ năm 2010. CIEM đã đưa thông
tin này trong báo cáo về “Giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập” dẫn lại kết quả
khảo sát do Công ty quản lý tài sản Merrill Lynch Global Wealth Management và
hãng tư vấn Capgemini của Mỹ thực hiện về số lượng các triệu phú đô la tại châu Á
nửa đầu năm 2011.
Các số liệu, tà liệu chính thức trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng cho
thấy ở Việt Nam số triệu phú đô la lên đến gần 170 người vào thời điểm năm 2011.
Riêng 100 nhân vật giàu nhất năm 2011, mỗi người đều có tài sản chứng khốn vượt 2
triệu đơ la, trong đó có 2 người đạt chuẩn hội viên câu lạc bộ 100 triệu đô la Mỹ.
“Đây là một dấu hiệu đáng mừng và rất đáng khích lệ sau gần 30 năm đổi mới”, báo
cáo của CIEM nhận định.
Cùng với thời gian, các nhóm xã hội mới này được định hình, khẳng định vị
trí và vai trị của chúng trong cơ cấu kinh tế - xã hội. Mặc dù đây vẫn cịn là một
nhóm thiểu số nhưng họ đã ít nhiều có ảnh hưởng đến sự thay đổi diện mạo xã hội.
2. Những biến đổi trong cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội
Tự do hoá kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - đó là những tác nhân quan trọng thúc đẩy những biến đổi trong cấu trúc
xã hội, được thể hiện một cách điển hình trong hiện tượng phân tầng xã hội theo mức
sống của các nhóm dân cư. Hơn thế nữa, trong hiện tượng này còn chứa đựng và phản
ánh rất nhiều biến đổi xã hội khác.
Thực trạng phân tầng xã hội (PTXH), phân hoá giàu nghèo (PHGN) trong thời

kỳ Đổi mới thực ra không phải là một cái gì mới. Các nghiên cứu cho thấy: PTXH đã
từng tồn tại cả trong thời kỳ trước đổi mới. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường chỉ tạo ra một môi trường kinh tế - xã hội quá độ đặc
thù, chứa đựng nhiều yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp khiến cho PTXH trở thành
6


bột phát trong thập niên đầu tiên của đổi mới. Một số các yếu tố như vậy là: môi
trường pháp lý chưa được hoàn thiện tạo điều kiện cho sự liên kết quyền lực vì lợi ích
của các cá nhân hoặc nhóm đặc thù, những lợi thế so sánh, vị thế đặc biệt (độc quyền)
của một số ngành; tính năng động, sự chuẩn bị sẵn sàng của các cá nhân, các nhóm xã
hội khác nhau khi bước vào kinh tế thị trường. Và nhiều yếu tố khác nữa, các yếu tố
này quy định mức độ PTXH khác nhau không chỉ giữa các tầng lớp, nhóm xã hội,
giữa các vùng miền, các ngành mà cả trong từng bộ phận của cơ cấu xã hội.
Một số giả thuyết nghiên cứu khác cũng đã được đưa ra để có thể kiểm
định qua các nghiên cứu tiếp tục như:


PTXH / phân hóa giàu nghèo trong thời gian tới sẽ tiếp tục gia tăng

nhưng với tốc độ chậm hơn trước do những tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại.


Trong lĩnh vực văn hoá xã hội, sự PTXH có thể kích thích hình thành

một tầng lớp vượt trội - tầng lớp trung lưu mới ở đô thị hay tầng lớp khá giả và
năng động nhất ở nơng thơn, đóng vai trong tích cực (động lực) cho tiến trình phát
triển sắp tới.



Những chuyển đổi trong q trình hồn thiện mơi trường pháp lý, thể chế

sẽ có tác động tới các nhóm xã hội theo hướng hạn chế bớt quá trình phân tầng xã hội
đột biến như trong thập niên 1900.


v.v....

Bên cạnh những xu hướng gia tăng sự PTXH, những cố gắng to lớn của nhà
nước Việt Nam nhằm giảm thiểu những khác biệt và phân hoá xã hội cũng đã được
ghi nhận qua thành tựu của các chính sách xã hội, đặc biệt là thành cơng của
chương trình xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo chung giảm từ trên 70% vào năm
1990 xuống còn 32% vào năm 2000 (giảm trên 1/2 tỷ lệ hộ nghèo đói so với năm
1990). Cịn theo chuẩn quốc gia cũ, các tỷ lệ tương ứng là 30% năm 1990 và 11%
năm 2000 (giảm 2/3 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). (Cùng với tốc dộ tăng trưởng
kinh tế thời kỳ 1991-2000 đạt 7,5% / năm, Việt Nam đựơc biết đến như một tấm
gương xuất sắc về sự chuyển đổi thành cơng từ nền kinh tế kế hoạch hố tập trung
sang nền kinh tế thị trường).
7


Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hiện đại hoá hiện nay, sự phát
triển của kinh tế thị trường theo xu hướng tồn cầu hố, hội nhập khu vực và quốc
tế (về kinh tế, văn hoá, xã hội) sẽ tiếp tục tác động tới các nhóm xã hội quan trọng,
theo cả hai chiều hướng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng và tiêu cực làm gia tăng
các khác biệt và phân tầng xã hội. Vì vậy, nghiên cứu và phân tích các yếu tố của
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển
xã hội, tới những biến đổi của các giai tầng và các nhóm xã hội chủ yếu của xã hội
Việt Nam hiện nay vẫn đặc biệt có ý nghĩa. Từ cách tiếp cận xã hội học nên đặc
biệt quan tâm nghiên cứu sự xuất hiện các nhóm xã hội mới và các quan hệ xã hội

mới, các nhóm xã hội năng động nhất có khả năng góp phần tích cực vào xu thế
hội nhập và phát triển của đất nước.
Có thể chỉ ra nhiều nhóm xã hội mới như vậy đã xuất hiện với diện mạo ít
nhiều rõ nét. Bên cạnh đó là các các nhóm xã hội “cũ”, vốn có từ trước, song giờ đây
đã có những thay đổi căn bản trong những điều kiện mới. Vấn đề chỉ rõ vị trí và vai
trị của các nhóm xã hội mới này trong quá trình phát triển là rất có ý nghĩa trong lĩnh
vực quản lý. Chẳng hạn, giới doanh nhân (theo khu vực, theo ngành, theo độ tuổi,...);
giới trí thức, đặc biệt là trí thức khoa học kỹ thuật; công nhân kỹ thuật, tay nghề cao;
giới quản lý và đội ngũ công chức, vv….
Bên cạnh việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội
cũng là xuất phát điểm tạo ra những biến đổi đáng kể trong thực tiễn về mơ hình
quản lý, trong nhận thức của người dân và giới quản lý. Những biến đổi xã hội theo
hướng này đã được nhận thức và nghiên cứu ở một mức độ nhất định. Q trình
dân chủ hố đời sống xã hội được phản ánh tập trung qua việc triển khai rộng khắp
việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Những tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
đánh giá đã được tiến hành cho thấy những bước tiến theo hướng này. Bên cạnh
đó, trình độ dân trí, mức độ cơng khai, dư luận xã hội, sự đối thoại trực tiếp hoặc
thông qua đại diện, qua các phương tiện truyền thông đại chúng giữa người dân với

8


chính quyền các cấp đang cho thấy những chuyển biến đáng kể và cần có được tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn.
Đây cũng là cơ sở thực tế làm chuyển biến nhận thức, quan niệm và thay đổi
dần các yếu tố của hệ giá trị cũ bằng các yếu tố của hệ giá trị mới, cập nhật với những
điều kiện mới.
II. Tác động của biến đổi xã hội đến nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu
tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta hiện nay

1. Tác động của biến đổi xã hội đến toàn xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện kinh tế thi trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa và hội nhập
quốc tế, nên kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc và đạt được những thành tưu to lớn.
Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự hình thành nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu
giai cấp – xã hội có nhiều biến động. Trong xã hội đã và đang xuất hiện nhiều giai tầng
xã hội; cơ cấu, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội đã thay
đổi cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Biến đổi cơ cấu giai cấp – xã hội
ở nước ta hiện nay đặt ra nhiều nội dung mới cho công tác tư tưởng, lý luận để giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, những biến
đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay
gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hố giữa thành thị và nơng thơn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa
các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hố giàu nghèo, sự phân
tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện những vấn đề mới
như: dân số tăng, việc làm và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự
giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình đẳng giới và
nguy cơ khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống ở lớp trẻ…
Những thành tựu của công cuộc đổi mới cũng như những vấn đề bức xúc đang đặt
ra hiện nay thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp; đồng thời, vừa
9


là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu xã hội giai cấp. Cơ cấu xã hội
giai cấp là một nhân tố luôn luôn biến đổi. Đó là do, trong q trình vận động và phát
triển của các xã hội, những biến đổi ở mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đều tác
động mạnh mẽ, thúc đẩy sự biến đổi của cơ cấu xã hợi giai cấp và đến lượt nó, sự biến
đổi cơ cấu xã hội giai cấp lại tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trên phương diện chính trị - xã hội là xây dựng cho được một cơ cấu xã hợi giai
cấp trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức làm thành nền tảng xã hội. Nhưng trong nền kinh tế nhiều thành phần, với sự đa
dạng của các thành phần kinh tế và đi cùng với nó là sự đa dạng của các giai cấp, tầng
lớp, trong sự phát triển của nó sẽ phá vỡ cơ cấu xã hội giai cấp nền tảng của chế độ xã
hội chúng ta đang xây dựng, đặt ra những thánh thức cho việc giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa. Sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa nằm trong quá trình biến đổi tự
phát của cơ cấu xã hội giai cấp trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thi trường. Ở đây cần phải quán triệt sâu sắc không chỉ nhận thức mà cả hành
động với các chủ trương và chính sách cụ thể để thực hiện tư tưởng của Đảng: Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong sự đa dạng của cơ cấu xã hội giai cấp, sự phân tâm xã hội về nhiều
phương diện tất yếu xảy đến, bởi mỗi giai tầng xã hội, ngồi lợi ích chung cịn lợi ich
riêng, nhiều khi lợi ích này chi phối trực tiếp đến thái độ, hành vi chính trị, xã hội của
họ. Sự đa dạng về giai tầng xã hội làm xuất hiện trong xã hội sự đa dạng về tư tưởng
xã hội và sinh hoạt xã hội. Từ lợi ích kinh tế, với sự bảo đạm tư liệu sản xuất, với tỉ
trọng đáng kể đóng góp cho ngân sách có thể là cơ sở cho việc bung ra các tổ chức xã
hội – nghề nghiệp, tạo cơ sở về tổ chức cho các yêu sách về chính trị. Trong mỗi giai
tầng xã hội đang diễn ra q trình phân hóa mạnh khơng chỉ phân hóa về kinh tế mà
cịn có sự phân hóa trên các bình diện khác: văn hóa, xã hội, làm cho biến đổi cơ cấu
xã hội giai cấp ở nước ta sẽ ngày càng phức tạp hơn và khó kiểm sốt. Trong giai cấp
cơng nhân có cơng nhân làm th, cơng nhân góp vốn cổ phần, mở xưởng sản xuất
với quy mơ và tính chất khác nhau... Trong giai cấp nơng dân cũng có sự phân hóa và
đội ngũ trí thức đã xuất hiện phân hóa trên nhiều phương diện. Vì thế, trên thực tế rất
10


khó cho việc nhận diện chính xác, đầy đủ các đặc trưng xã hội của từng giai tầng xã
hội ở nước ta hiện nay. Nó đặt ra cho cơng tác tư tưởng, lý luận hai vấn đề bức thiết:
một là, phải nghiên cứu nắm bắt được thực trạng, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã

hội giai cấp phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; hai là,
nghiên cứu đổi mới có hiệu quả về cả nội dung và hình thức cơng tác tuyên truyền,
giáo dục để khơi dậy, phát huy tinh thần yêu nước, xây dựng tinh thần tự chủ dân tộc,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thời gian vưa qua, trong khi cơ cấu xã hội giai cấp biến động mạnh những biến
đổi đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến quá trình phát triển đất nước, cụ thể
trên các mặt: kinh tế, văn hố, chính trị và xã hội.
Ở chiều tích cực: Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp đó đã góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, qua đó góp phần nâng cao đời sống
mọi mặt của đại đa số các tầng lớp nhân dân.
Về mặt chính trị, sự biến đổi cơ cấu xã hợi giai cấp (như tự do hố các ngành
nghề, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện...) đã góp phần nâng cao địa vị cũng như ý
thức dân chủ của người dân. Như vậy, mơ hình cơ cấu xã hợi giai cấp ở giai đoạn mới
này, về cơ bản, là có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Về mặt văn hoá: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người trong
nước, cũng như giữa trong nước và nước ngồi, sự phục sinh của nhiều tín ngưỡng
dân gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới... đang làm cho văn hoá Việt
Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và phong phú chính là một
ngun nhân khơng thể thiếu để phát triển.
Ở chiều tác động tiêu cực: Sự tác động tiêu cực của biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội ở giai đoạn này có nhiều, song có thể quy lại mấy biểu hiện cơ bản sau:
Biến đổi cơ cấu xã hợi giai cấp đang làm gia tăng sự bất bình đẳng của xã hội:
đó là bất bình đẳng giữa nơng thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi, giữa người
có thu nhập cao và người thu nhập thấp, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

11


Biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp đang làm gia tăng mâu thuẫn và xung đột - dù
mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn đối với sự ổn định

và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa thế hệ già và thế hệ trẻ,
giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung đột giữa một số tổ chức
tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ phận tộc người di dân tự do và cư
dân địa phương. Ngoài ra, trong cơ cấu xã hội giai cấp mới xuất hiện các nhóm yếu thế
và dễ bị tổn thương, sự quá tải ở các khu công nghiệp và các thành phố lớn, sự mất
dần bản sắc ở khơng ít tộc người thiểu số, sự lai căng, mất gốc ở một số nhóm người,
nhất là ở thế hệ trẻ, v.v...
Rõ ràng, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ cịn tồn tại trong q
trình biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta. Thực trạng đó càng cho thấy nghiên
cứu lý luận và cơng tác tư tưởng trong quá trình biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp để giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân trở nên cấp thiết.
2. Tác động đến nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta hiện nay
Hiện nay, ở nước ta, có một số ý kiến cho rằng, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới của cách mạng, cần phải bổ sung, phát triển học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Theo các ý kiến đó, học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã có thiếu sót khi coi đấu tranh là tuyệt đối, mà không coi trọng sự
thống nhất. Họ quan niệm rằng, điều đó chỉ đúng trong điều kiện trước đây và chỉ là
sách lược; rằng, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khơng thể nói đến đấu tranh giai cấp
nữa mà chỉ nên nói đến sự hịa hợp giữa các giai cấp mới xây dựng được khối đại
đồn kết dân tộc. Dưới tác đợng ảnh hưởng của phân tầng xã hội, phân hóa giàu
nghèo có những tác động, ảnh hưởng nhất định đến biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp đa
dạng, đan xen, đan cài vào nhau. Nhưng không vì thế mà phủ nhận hoàn toàn học thuyết
của Mác – Lênin về đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện nay. Đó là quan điểm hoàn toàn

12



sai lầm cả trong nhận thức và hành động của các thế lực thù địch, hòng chống phá sự
nghiệp các mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, ở nước ta, đang có một số ý kiến cho rằng, cần phải bổ sung, phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp
nói riêng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Theo những ý kiến đó thì chủ nghĩa
Mác - Lênin có một số nội dung khơng cịn phù hợp, cần phải sửa chữa, nhất là học
thuyết về đấu tranh giai cấp hiện đã trở nên lạc hậu. Họ cho rằng, học thuyết đó chỉ nhấn
mạnh đến mặt đấu tranh giữa các giai cấp, mà không coi trọng mặt thống nhất giữa
chúng (hay thống nhất giữa các mặt đối lập). Đấu tranh giai cấp, do vậy, chỉ là sách lược,
chỉ thích hợp trong điều kiện giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang tiến hành
cuộc đấu tranh cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp thống trị bóc lột cũ, hoặc khi
chủ nghĩa tư bản mới hình thành, cịn dùng những biện pháp thơ bạo để bóc lột trắng trợn
sức lao động của công nhân và nhân dân lao động. Theo họ, trong điều kiện hiện nay, khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, chủ nghĩa tư bản đã
có những thay đổi, điều chỉnh về quan hệ sở hữu, quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm, đã chú ý hơn đến việc nâng cao đời sống, cải tạo điều kiện làm việc của cơng nhân
và các tầng lớp lao động thì khơng nên nói đến đấu tranh giai cấp nữa. Hiện nay, nếu nói
đến đấu tranh giai cấp là đi ngược lại xu thế của thời đại, là lạc hậu, không thức thời, là
làm hại đến việc củng cố khối đoàn kết nhất trí của dân tộc, v.v.. Có ý kiến còn viện dẫn
cả một số luận điểm của các nhà triết học, như T.Hốpxơ, J.J.Rútxô, I.Cantơ, G.Hêgen,
hoặc tư tưởng triết học phương Đơng về sự hài hịa giữa mặt thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, v.v.; coi đó như những
tiền đề lý luận để xây dựng quan niệm mới, “đúng đắn” về đấu tranh giai cấp. Những ý
kiến muốn bổ sung và sửa chữa học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin
như vậy liệu có đúng khơng?
Có thể khẳng định rằng, việc cần thiết phải bổ sung, phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đấu tranh giai cấp nói riêng cho phù hợp
với điều kiện hiện nay là điều không thể phủ nhận. Bởi vì, nếu khơng như vậy, lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin không thể phản ánh đúng quy luật vận động của hiện thực
13



khách quan và do đó, cũng khơng thể đóng vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người được. Vấn đề là bổ sung và phát triển như thế nào?.
Trong lịch sử phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề này luôn
được đặt ra. Nhờ vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không ngừng được đổi mới
và phát triển, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội, không bị khô cứng. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, khi bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, một số
người đã cắt bỏ đi những nội dung căn bản nhất, có ý nghĩa cách mạng nhất dẫn đến
hiểu sai lệch về chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành một
hệ thống lý luận trừu tượng, chung chung, mà theo cách nói của V.I.Lênin, là đã “tước
hết nội dung” của học thuyết cách mạng đó, làm “tầm thường hóa”, “làm cùn khía
cạnh sắc bén cách mạng” của nó. Theo ơng, khi giai cấp tư sản và bọn cơ hội chủ
nghĩa trong phong trào công nhân đều nhất trí với nhau về cách “cải biến” như thế đối
với chủ nghĩa Mác, chúng đã cố tình lãng qn, xóa nhịa, xun tạc khía cạnh cách
mạng, tinh thần cách mạng của học thuyết Mác. Chúng đã đặt lên hàng đầu và chỉ ca
tụng cái gì mà giai cấp tư sản có thể chấp nhận được hay cho là có thể chấp nhận
được(1). Những ý kiến về việc bổ sung, sửa chữa học thuyết đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác - Lênin nêu ra ở trên rõ ràng là muốn thay thế những nội dung thực sự
cách mạng của học thuyết đó bằng một quan niệm mơ hồ về đấu tranh giai cấp, hay
có thể gọi là “sự dung hịa giai cấp”. Họ muốn giải quyết vấn đề quan hệ giai cấp hiện
nay không phải bằng những biện pháp xuất phát từ các quan hệ hiện thực, mà chỉ
bằng sự tưởng tượng thuần túy chủ quan. Bởi vì, thực ra, một mặt, họ chưa nghiên
cứu một cách đầy đủ và cẩn thận những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
nói về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp; mặt khác, họ cũng chưa tìm hiểu tường
tận và chưa trải nghiệm một cách thực tế tình hình chính trị - xã hội phức tạp hiện nay
thể hiện tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã
hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Q trình này khơng phụ
thuộc vào việc người ta có quan niệm như thế nào về nó. Những quan niệm khác nhau

về đấu tranh giai cấp đã xuất hiện từ trước đến nay trong các học thuyết triết học,
14


hoặc trong các lý luận chính trị - xã hội đều là sự phản ánh trong tư tưởng của người
ta về một quá trình đã, đang diễn ra trong hiện thực. Chỉ cần có một thái độ nghiêm
túc đơi chút là có thể thấy ngay cuộc đấu tranh đó diễn ra thường xuyên, liên tục dưới
những hình thức và nội dung khác nhau như thế nào trong lịch sử cũng như hiện tại.
Vì thế, trong “Tun ngơn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen
đã viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp.
Người tự do và người nơ lệ, q tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả
phường hội và thợ bạn, nói tóm lại là những kẻ áp bức và những người bị áp búc, luôn
luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc
ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo cách
mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”(2).
Đối với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp là vấn đề chính trị
thực tiễn rất hệ trọng, khơng thể hững hờ hoặc nói một cách bâng quơ về nó được.
Muốn đưa ra những kết luận khái quát đúng đắn về nó, cần phải nghiên cứu những sự
kiện lịch sử cụ thể, phân tích sự vận động của các sự kiện lịch sử đó một cách tỉ mỉ,
chi tiết với một thái độ khách quan, biện chứng. Những phân tích của C.Mác về các
sự kiện lịch sử ở Pháp những năm 1848 - 1850, 1851 và 1871 đã chứng tỏ điều đó. Là
những nhà lý luận khoa học, đồng thời là lãnh tụ của phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã phân tích thực tiễn cuộc
đấu tranh giai cấp diễn ra trong lịch sử một cách rất cụ thể và sâu sắc. Điều đó đã
được thể hiện trong hàng loạt tác phẩm tiêu biểu của các ông. Trong nhiều tác phẩm,
các ơng đã trình bày rõ quan điểm của mình cho rằng, đấu tranh giai cấp khơng phải
là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại gây chia rẽ, bè phái,
gây rối loạn, làm thiệt hại cho xã hội, mà là một q trình tất yếu, khách quan của xã
hội có áp bức giai cấp, là những cuộc đấu tranh rộng khắp của quần chúng nhân dân

lao động chống lại giai cấp thống trị bảo thủ. Nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai
cấp này bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong quan hệ về lợi ích kinh tế khơng thể điều
hịa được giữa các giai cấp. Thực chất cuộc đấu tranh đó là cuộc đấu tranh của quần
15


chúng nhân dân bị áp bức chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, chống lại giai cấp thống
trị bóc lột nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích. Cuộc đấu tranh này có ý nghĩa cách
mạng sâu sắc, nhằm xóa bỏ những cơ sở kinh tế của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ
xã hội cũ lỗi thời, xây dựng chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Do vậy, đấu tranh giai cấp
là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển, chứ không phải là sự gây rối, phá hoại.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng về mặt lợi ích thì tất yếu có đấu tranh giai cấp.
Điều đó hồn tồn khơng phụ thuộc vào việc người ta có nói về nó hay khơng, hoặc
nói như thế nào về nó. Khơng phải cứ cố tình khơng nói đến đấu tranh giai cấp thì trên
thực tế, đấu tranh giai cấp sẽ mất đi hoặc mức độ xung đột sẽ dịu đi.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng cho rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân là nhằm giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa và xóa bỏ
hồn tồn chế độ người bóc lột người. Do vậy, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp
nhất trong lịch sử. Cuộc đấu tranh này tất yếu dẫn đến chuyên chính vơ sản. Nhưng,
chun chính vơ sản khơng phải là mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp
vơ sản. Nó chỉ là bước q độ để tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp, tiến tới xã hội khơng có
giai cấp. Giai cấp vơ sản cần phải sử dụng nền chun chính của mình để tiếp tục cuộc
đấu tranh trong điều kiện mới. Như vậy, ngay từ khi giai cấp vơ sản ra đời thì cuộc đấu
tranh của nó với giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác cũng xuất hiện. Cuộc đấu
tranh đó diễn ra thường xuyên, liên tục cả khi giai cấp vô sản chưa giành được chính
quyền từ tay giai cấp thống trị cũ, lẫn khi đã thiết lập được chính quyền cách mạng của
mình và sử dụng chính quyền ấy như một công cụ để xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên,
nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp ở những thời kỳ cách mạng khác nhau lại có sự
khác nhau do điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Điều khẳng định này không giống với
quan niệm “muốn sửa chữa” chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ở trên - quan niệm cho rằng

đấu tranh giai cấp chỉ là nhất thời, chỉ là sách lược trong điều kiện giai cấp công nhân cần
tập hợp lực lượng để lật đổ chế độ xã hội cũ; rằng, sau khi giai cấp cơng nhân giành được
chính quyền rồi thì khơng cịn đấu tranh nữa, mà chỉ còn sự thống nhất. Theo quan niệm
đó, khi giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động đã có chính quyền rồi mà cịn nói đến
đấu tranh nữa là gây chia rẽ, gây mất ổn định; đồng thời, chỉ nên coi thống nhất là căn
16


bản, phải coi trọng sự hợp tác, thống nhất; còn đấu tranh là thứ yếu, tạm thời lắng xuống
và như vậy mới đúng với “quan điểm của Đảng”.
Thật ra, quan điểm của Đảng ta về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về tăng
cường hợp tác quốc tế có phải là xem nhẹ đấu tranh giai cấp đâu. Trái lại, Đảng ta
luôn xác định rằng, hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước
ta vẫn còn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
diễn ra với những nội dung và hình thức mới rất phức tạp, có mặt ngày càng gay gắt
hơn. Đảng ta chỉ khẳng định trong điều kiện mới hiện nay, không được cường điệu
cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự rụt rè, không dám đổi mới; đồng thời, không được
coi nhẹ, xem thường đấu tranh giai cấp, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác. Ở đây, không
nên hiểu việc Đảng ta nói khơng được “cường điệu cuộc đấu tranh giai cấp” thành ra
là “không coi trọng đấu tranh giai cấp”, hay coi đấu tranh chỉ là sách lược, tạm thời và
sự thống nhất giữa các giai cấp mới là căn bản như một số ý kiến đã nêu trên. Hiểu
như vậy là không đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như của Đảng
ta. Vấn đề này cần được giải thích một cách rõ ràng hơn.
Điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay thể hiện ở chỗ,
những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội do công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng mang lại trong thời gian qua làm cho cơ cấu giai cấp, vị trí, mối quan
hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội đã có nhiều thay đổi, khơng giống như thời
kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, cũng không như lúc mới bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, lợi ích cơ bản, lâu dài của các giai cấp trong cộng đồng
Việt Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con

đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn
lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Trong giai đoạn hiện nay,
khi các lực lượng thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại
cuộc cách mạng của nhân dân ta, không phải ai cũng nhận thức đúng và tự giác phấn
đấu vì mục tiêu trên. Cho nên, nếu không đấu tranh quyết liệt với các lực lượng ngăn
cản việc thực hiện mục tiêu đó thì khơng thể biến mục tiêu thành hiện thực.

17


Đây là nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp, thể
hiện sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào nước ta hiện nay. Nhận thức này, một mặt, chống lại thái độ mơ hồ,
mất cảnh giác, chống lại quan điểm cho rằng ở nước ta khơng cịn giai cấp tư sản, nên
khơng còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp nữa, chống lại quan điểm sai lầm
coi học thuyết giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, muốn lẩn tránh vấn đề
giai cấp và đấu tranh giai cấp; mặt khác, chống lại thái độ cứng nhắc, quá cường điệu
mâu thuẫn giai cấp, cho rằng do phát triển kinh tế thị trường, do hội nhập kinh tế thế
giới, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, cho nên sẽ dẫn đến mâu thuẫn giai
cấp gay gắt hơn. Để tránh tình trạng đó thì phải đóng cửa, khơng mở rộng quan hệ với
các nước, không phát triển kinh tế thị trường. Đây là một quan niệm sai lầm, làm xơ
cứng lý luận về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở đây, cần phải nhận thấy rằng, chúng ta thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ, thủ công phân tán là chủ yếu.
Đây là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chứ không phải
là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta mới chỉ có chính
quyền của dân, do dân, vì dân và đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đó, để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta tất yếu phải phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân;

phải tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phải mở cửa hội nhập với nền
kinh tế thế giới (mà nền kinh tế thế giới hiện nay thực chất là nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa); phải vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có
như vậy, chúng ta mới tạo được quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở nước ta và tranh thủ được nguồn vốn và tiềm lực khoa học, công
nghệ của các nước tư bản phát triển trên thế giới.
Tuy nhiên, do phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện mở cửa, hội
nhập quốc tế, trong cơ cấu xã hội giai cấp của nước ta hiện nay, ngồi giai cấp cơng
nhân, nơng dân, đợi ngủ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có tầng
18


lớp tư sản - tầng lớp cịn có điều kiện phát triển trong nền kinh tế thị trường. Với kết
cấu giai cấp đó, tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm
thuê với tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác (có mục đích, có điều
khiển) theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư
bản. Đây là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao
động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn đó biểu hiện rất rõ trong các doanh nghiệp tư
bản, nhất là các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngồi - nơi đã xảy ra những
cuộc bãi cơng, biểu tình của cơng nhân địi giới chủ cải thiện điều kiện làm việc và
được đối xử bình đẳng. Tuy nhiên, chúng ta có Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, mâu thuẫn giữa công nhân và
tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ở nước ta, tầng lớp tư sản khơng
có cơng cụ để thực hiện sự thống trị về chính trị và kinh tế của nó. Giai cấp công
nhân, dù làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, vẫn được Nhà nước ta bảo vệ
quyền lợi. Mặt khác, kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận không thể thiếu trong nền kinh
tế nhiều thành phần. Tầng lớp tư sản có vai trị nhất định trong sự nghiệp phát triển
kinh tế, có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung của cả
cộng đồng dân tộc. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân và tầng lớp tư sản.

Như vậy, quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là
quan hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Hợp tác cùng xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực
của tầng lớp tư sản.
Những sự phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn là
một tất yếu. Cuộc đấu tranh đó có lúc, có mặt cịn gay go, quyết liệt hơn so với những
thời kỳ trước đây.
Theo quan điểm của Đảng ta, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta
có nội dung cụ thể là: đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng, xây dựng nước
ta thành nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn vậy, phải
19


phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ và phát triển những nhân tố xã hội chủ
nghĩa, chống lại khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường;
xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế
lực thù địch hịng phá hoại độc lập và chủ nghĩa xã hội ở nước ta; giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại,
làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta không ngừng nâng cao.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức tạp.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh
khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả giáo dục, tuyên truyền, vận
động, cả hành chính, thậm chí cả những biện pháp bạo lực, trấn áp. Đồng thời, phải
tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động và các lực lượng xã hội ủng hộ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh
giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đấu tranh chống lại các thế lực, các tổ chức, các phần tử muốn ngăn cản sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phá hoại Đảng, Nhà nước, pháp luật, trật
tự xã hội, an ninh quốc gia. Như vậy, đồn kết khơng loại trừ đấu tranh mà bao hàm
sự đấu tranh; đấu tranh ở đây khơng có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính
là thơng qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thối hóa, biến
chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trị của sự đồn kết
thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.

20


KẾT LUẬN
Nghiên cứu biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay và tác động của nó đến
nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin
hiện nay cần được sự quan tâm cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội; Nó cung cấp
cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách biết rõ thực trạng biến đổi xã
hội ở một giai đoạn nào đó, những nhân tố và điều kiện dẫn đến sự biến đổi xã hội,
xu hướng biến đổi xã hội trong tương lai từ đó giúp họ đưa ra các quyết sách, chính
sách quản lý sự biến đổi xã hội nói riêng và quản lý xã hội nói chung. Góp phần
nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và đấu tranh thắng lợi với những quan điểm
sai trái của các thế lực thù địch. Đặc biệt , chúng ta cần nhận thức rõ tính chất gay
go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Để bổ sung, phát triển một cách sáng tạo,
đúng đắn và khoa học học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, yêu
cầu đặt ra là cần nghiên cứu cẩn thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và quan điểm của Đảng ta, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn
một cách cụ thể, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: hoặc là quá cường điệu đấu tranh
giai cấp, dẫn đến làm khơ cứng nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp; hoặc là xem
thường, xóa nhịa đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc vào âm mưu
diễn biến hịa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang ln tìm cách lật
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t. 33. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 7.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 596 - 597.

22



×